Thư Viện Hoa Sen

Tu Theo Thầy Thích Minh Tuệ?

28/06/20244:12 CH(Xem: 831)
Tu Theo Thầy Thích Minh Tuệ?
blank
THÂY THÍCH MINH TUỆ
Ngô Nhân Dụng

Thầy Thích Minh Tuệ đi chân đất, mặc áo vá, ngày ăn một bữa, tối ngủ trong nghĩa trang. Lời nguyện của thầy: Con nguyện ước chúc mọi người được hạnh phúc. Chỉ cần bước đi thong thả, đi không cần tới, niềm vui trong ánh mắt, trên miệng cười của thầy đã đem một luồng gió mát mẻ, an lành cho mọi người cùng hưởng.

Thầy nói: “Con đi Tu là để cầu giải thoát.” Thầy cho thấy ai cũng có thể tìm đường giải thoát. Hình ảnh bao nhiêu người cung kính đi theo thầy Thích Minh Tuệ cho thấy đạo Phật vẫn còn sống động trong xã hội Việt Nam, dù chung quanh vẫn còn là một kinh tế tư bản thời sơ khai và đề cao một chủ nghĩa duy vật lỗi thời.

Có nhiều cách hành trì Đạo Phật, hàng trăm ngàn cách theo căn cơ mỗi người. Đức Thích Ca đã lấy thí dụ ba thửa ruộng khác nhau, mỗi thửa ruộng nên trồng hạt giống lúa khác nhau. Có người chọn sống trong tu viện, có người lên rừng sống một mình, có người chuyên lo đi chữa bệnh như Phật Thầy Tây An. Thầy Thích Minh Tuệ đã tu tập trong chùa nhưng sau cùng chọn tu theo Hạnh Đầu Đà. Thầy Minh Tuệ giúp chúng ta nhớ lại phép tu cổ truyền này, mà người đầu tiên thực hành là Thầy Ca Diếp, đệ tử lớn nhất của Phật. Chính đức Thích Ca đã khuyên thầy Ca Diếp không nên giữ mãi các giới luật Đầu Đà nhưng đồng ý cho đệ tử tiếp tục. Từ đó, nhiều người đã sống theo 12, 13 giới, tạo thành một truyền thống độc đáo.

Dù sống trong tu viện hay trong rừng, người tu hành vẫn đi theo cùng một con đường “giữ giới luật.” Trong lịch sử đạo Phật đã xuất hiện nhiều tông phái khác nhau, nhưng hầu hết các giới luật đều giống nhau. Thầy Minh Tuệ tu với bước chân đi ngoài đường, nhưng các giới luật không khác những vị tu trong chùa. Người ta không thể nói tu cách nào chính thống hơn hoặc mang lại hiệu quả cao hơn.

câu chuyện hai người bạn tu ở chùa Thùpàràma, trong thủ đô cũ của Sri Lanka, Tích Lan. Một ông đi lên rừng để tiếp tục tu, một ông ở lại. Mười năm sau, ông bạn “lên rừng” trở về thăm tu viện cũ. Hai người cùng đi khất thực với nhau. Ông tu sĩ trên rừng ngỏ ý mời người bạn theo mình đến nơi vắng lặng, thanh tịnh hơn. Ông bạn sống ở tu viện cũng muốn thử cho biết, đồng ý. Qua cổng thành, ông thong thả bước chân hướng đi ra ngoài thành phố, ông tu sĩ trên rừng ngạc nhiên hỏi: “Anh đi đâu?”

“Tôi mới nói rằng tôi đi theo anh mà!”

“Nhưng anh không trở lại tu viện lấy vật dụng, hành lý của mình hay sao?”

“Tôi chỉ có một cái giường và một cái ghế, cả hai đều thuộc về tu viện. Tôi không có cái gì khác.”

“Nhưng tôi còn để lại trong chùa mấy thứ, một cây gậy, cái ống đựng dầu và cái túi đựng dép.”

“Anh mới về đây có một ngày mà được cúng dường nhiều thứ nhỉ!”

Ông tu sĩ trên rừng thú nhận: “Anh không cần phải đi với tôi. Anh ở đâu thì cũng như ở trong rừng.”

Đạo Phật không phải chỉ là một niềm tin mà trước hết là hành động. Phật tử Việt Nam nói “tu hành,” tu là một hành động. Hành động đầu tiên là rời khỏi gia đình để đi tìm đường thoát khổ, như chính đức Phật đã bắt đầu, khi hơn 30 tuổi. Phật tử dùng chữ “xuất gia” để gọi những người đi tu. Nhưng có những vị bồ tát, như Duy Ma Cật vẫn sống trong gia đình.

Đức Thích Ca không phải là người đầu tiên đã “xuất gia.” Ở Ấn Độ, từ ngàn năm trước đã có những người rời khỏi gia đình đi “tìm đường giải thoát.” Trong những năm xuất gia đầu tiên, Đúc Phật đã làm bạn với mấy vị đạo sĩ như vậy. Phần lớn họ thuộc giới “brahmanas,” đẳng cấp cao nhất của các tu sĩ chuyên nghiệp. Thái tử Tất Đạt Đa có lẽ là một người xuất gia hiếm hoi thuộc một đẳng cấp khác, ksatriyas, tầng lớp những nhà cai trị. Kế đến đẳng cấp vaisyas, chuyên lo sản xuất và thương mại. Sau này, Phật thu nhận các đệ tử không phân biệt đẳng cấp, một cuộc cách mạng trong xã hội Ấn Độ.

Một người xuất gia rời bỏ gia đình, sống một mình để tu tập, một truyền thống đã có từ trước thời đức Phật. Những người đó được gọi là sramana (chữ Pali: samana). Các “sa môn” chỉ theo đuổi một mục đích trong đời là cầu tiến, cải thiện lâm linh. Cùng thời với Đức Phật, một truyền thống khác ở Ấn Độ là phái “Jain” và một số chi phái Ấn Độ Giáo cũng xuất hiện các sa môn như vậy. Truyền thuyết kể rằng khi Thái tử Tất Đạt Đa đi qua bốn cổng thành, chứng kiến các hiện tượng lão, bệnh, tử, ngài đã gặp một sa môn và thấy người đó an lạc, hạnh phúc.

Từ trước thời Đức Phật đã có những người “từ bỏ cuộc sống bình thường” (samnyàsin), ra khỏi nhà để “tầm đạo.” Họ không còn đóng vai phần tử trong một gia đình cũng như trong cả xã hội; họ không làm một công việc sản xuất hay thương mại, sống nhờ khất thực. Đến thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, phong trào này khá lớn khi Đức Thích Ca tham gia, theo Rupert Gethin, giáo sư Tôn giáo Ấn Độ tại Đại học Bristol, Anh Quốc, trong cuốn The Foundation of Buddhism.

Thầy Minh Tuệ đang đi theo con đường như Đức Phật ngày xưa. Hiện tượng này sẽ nhắc nhở các Phật tử Việt Nam nhìn lại một truyền thống hơn 2,500 năm trước. Một bài học hiển nhiên ai cũng thấy là con người có thể sống hạnh phúc mà không cần chạy đuổi theo của cải, danh vọng, quyền hành. Thầy Minh Tuệ nhắc nhở bài học rất giản dị là: “Mọi người hãy cố gắng giữ 5 giới: Không sát sanh, Không trộm cắp, Không tà dâm, Không nói dối, Không uống bia rượu.” Ai cũng có thể tập theo năm giới, dù vẫn sống đời bình thường, và thấy mình hạnh phúc hơn.

Người xuất gia có thể vào trong rừng sống một mình. Thầy Hư Vân, người Trung Hoa trong thế kỷ 19, 20 đã bắt đầu như vậy. Thân phụ thầy chỉ có một con trai, đã cưới cho con hai cô vợ để bảo đảm có cháu nối dõi tông đường. Thầy đã thuyết phục cả hai cô dâu cùng tiết dục như mình, rồi thầy bỏ nhà vào sống trong rừng. Đến một ngày, một vị hòa thượng đi qua, khuyên thầy nên đến một tu viện, sống theo các giới luật thì mới học đạo được đầy đủ, thầy đã nghe lời, rồi trở nên một đại sư đi giảng dạy khắp nơi, sống đến 120 tuổi.

Sống trong tu viện, người ta sẽ có cơ hội học những giáo pháp như Tánh Không, như Lý Duyên Khởi, vân vân. Những người sống một mình và chỉ đi ngoài đường sẽ không có cơ hội, tự mình khó tìm ra, khó chiêm nghiệmthực chứng những giáo nghĩa sâu xa đó.
____________


Ý KIẾN CỦA ÔNG TRẦN ĐÌNH SƠN 

Thưa GS Đỗ Quý Toàn (nhà báo Ngô Nhân Dụng),
Tôi chưa dám đồng ý với câu kết bài bình luận nói trên của GS: "Sống trong tu viện, người ta sẽ có cơ hội học những giáo pháp như Tánh Không, như Lý Duyên Khởi, vân vân. Những người sống một mình và chỉ đi ngoài đường sẽ không có cơ hội, tự mình khó tìm ra, khó chiêm nghiệmthực chứng những giáo nghĩa sâu xa đó." Bới vì có trường hợp củ Lục Tổ Huệ Năng mù chữ nhưng khi đắc ngộ thì bất cứ giáo lý thâm sâu nào củA ĐỨC PHẬT cũng đều giãng giãi rất rõ ráng minh bạch bằng văn tực rất giãn dị và bình dân cho bá tánh và cả trí thức cũng đều thừa nhận. Trường ho75pp ví dụ thêm là cư sĩ Duy Ma Cật ờ nhà suốt đời chỉ kinh doanh và cũng không so61ngg trong tu viện nhưng đã đắc ngộ Phạt Pháp cao thâm vượt hơn tất cả các đại đệ tử vốn là Bồ Tát & A La Hán cũa đức Thế Tôn.
Như vậy sư Minh Tuệ khi đạt tới tột đỉnh của Giới thì dạt Định ngay lập tức (tức là đi đứng nắm ngồi đều không lìa ĐỊNH), đã Định rồi là Tuệ xuất hiện ngay tức đắc pháp thượng thừa mà không cần phải học gì trong chùa, viện.
Nếu GS muốn trao đổi thêm xin e-mail cho tôi ờ trandinhson2010@gmail.com
Cãm ơn GS,
Kính thư,
Trần Đình Sơn (London - U.K.)




TU THEO THẦY THÍCH MINH TUỆ?
Ngô Nhân Dụng 

thich minh tue028Ông Trần Đình Sơn ở London, Anh Quốc, không đồng ý với một nhận xét trong bài tuần trước viết về thầy Thích Minh Tuệ, “… chỉ đi ngoài đường sẽ không có cơ hội … thực chứng những giáo nghĩa sâu xa như Tánh Không, như Lý Duyên Khởi” Ông Sơn nhận xét thấy, “…Lục Tổ Huệ Năng mù chữ nhưng khi đắc ngộ thì bất cứ giáo lý thâm sâu nào của ĐỨC PHẬT cũng đều giảng giải rất rõ ràng minh bạchcư sĩ Duy Ma Cật … chỉ kinh doanh và cũng không sống trong tu viện nhưng đã đắc ngộ Phật Pháp cao thâm …

Chúng tôi không phản đối kết luận của ông: “… Minh Tuệ khi đạt tới tột đỉnh của Giới thì đạt Định ngay lập tức … Định rồi là Tuệ xuất hiện ngay tức đắc pháp thượng thừa mà không cần phải học gì trong chùa, viện.Tuy nhiên, theo truyền thuyết thì ngài Duy Ma Cật đã tu trong rất nhiều kiếp, trước khi thác sinh làm một thương gia. Ngài Huệ Năng đã tu học trong chùa rồi được thầy gửi qua một chùa khác, khi đang quét sân ngài chợt nghe câu “Ưng vô sở trụ.”

Nhưng không nhất thiết phải vào chùa mới có thể thực tập Giới, Định, Tuệ. Thời Phật tại thế, có một người theo Đạo Jain (Kỳ Na Giáo) quy y tam bảo. Đức Thích Ca đã khuyên ông ta hãy tiếp tục hành trì tín ngưỡng cũ của gia đình mình. Đạo Jain cũng theo nhiều giới giống đạo Phật; đầu mùa mưa cũng an cư kiết hạ để tránh vô tình sát hại côn trùng. Các mùa an cư này dẫn tới việc thành lập các tu viện, do những Phật tử dựng lên để cung dưỡng người xuất gia.

Cuộc sống chung với nhiều người khiến phải đặt ra giới luật. Giới luật do chính các vị đệ tử của Phật xướng xuất, thảo luận cho đến khi mọi người đều chấp thuận. Sau khi Đức Thích Ca nhập diệt mấy tháng, các đệ tử họp nhau ôn lại các lời Phật dạy (Kinh). Họ cũng nhắc lại để ôn tập các giới luật. Ông Upali là người nhớ đầy đủ nhất, khi đọc mỗi giới ông có thể cho biết trong hoàn cảnh nào nhu cầu đặt ra giới luật đó được đưa ra.

Giới luật của Nam TôngBắc Tông phần lớn giống nhau, với hai phần chính: Thứ nhất là những quy định về hành vi của mỗi cá nhân, như 5 giới căn bản, 10 giới cho người mới vào chùa, các Bồ tát giới cho người tại gia hoặc xuất gia, vân vân. Thứ hai là những quy định về cuộc sống tập thể. Thí dụ, một người gia nhập tăng đoàn phải được một vị thầy đã thọ giới lớn ít nhất 10 năm thâu nhận; người thọ giới tỳ kheo cần có năm vị thầy như vậy chứng minh. Các tông phái cũng đồng ý về các trường hợp một tu sĩ phạm lỗi bị phạt, nhẹ thì sám hối, nặng có thể bị trục xuất, vân vân.

Tuy giới luật thi hành trong các tự viện phần lớn giống nhau nhưng một điều đặc biệt là trong cùng một tu viện, mỗi người có thể chú tâm hành trì theo các giáo lý khác nhau; không ai bị coi là theo “tà giáo.” Thầy Huyền Trang, thế kỷ thứ 7, đã ghi nhận tại Đại học Nalanda có các tăng sĩ thuộc cả Nam TôngBắc Tông. Các tông phái đều tôn trọng giới luậthệ thống truyền thừa của tông phái khác. Tinh thần bao dung này thể hiện trên các “cột đá” của vua Asoka (cai trị từ 268 đến 231 trước Công Nguyên) dựng trong bán đảo Ấn Độ và gửi sang tận Trung Đông, Hy Lạp, và miền Trung Á. Asoka không đề cao đạo Phật, chỉ cổ động việc thực hành Phật Pháp. Ngoài các khuyến cáo như không sát sanh, phải cấp thuốc men hoặc thức ăn cho người thiếu thốn, nhà vua còn yêu cầu phải tôn trọng các tín ngưỡng khác biệt.

Thi hành giới luật nhắm đạt hai mục tiêu chính: Giữ cho đoàn thể tu học thuần nhấthòa hợp để nâng cao trình độ tu chứng, và tạo mối ràng buộc giữa các người tu và xã hội chung quanh. Không được giữ tiền, không được dự trữ thức ăn trừ khi bị bệnh, tránh không tự nấu bếp, mỗi người chỉ được giữ tám món đồ riêng: ba bộ áo để thay đổi, một thắt lưng, một bình bát, một dao cạo, một cái kim, và bầu nước. Do đó người tu phải khất thực. Tức là những người “xuất gia,” ra khỏi cuộc sống bình thường, vẫn phải sống với những người khác. Giữa người tu và đại chúng có một “hợp đồng ngầm.” Một bên sống theo giới luật, chứng tỏ mình chỉ theo đuổi mục tiêu giải thoát, trở thành “ruộng phước” (phúc điền) cho mọi người cùng chia hưởng. Bên kia lo “cung dưỡng” để những người xuất gia tiếp tục sống.

Ông Trần Đình Sơn nói đến khi Thầy Minh Tuệ “đạt tới tột đỉnh của Giới,…” Đạt tới tột đỉnh nghĩa là gì? Trong số 227 giới lớn ở Nam Tông, 258 giới ở phía Bắc, có những giới quan trọng hoàn toàn giống nhau. Những giới nhỏ quy định tới các chi tiết trong đời sống. Tất cả đều có tác dụng giúp người tu lúc nào cũng ý thức đến từng hành vi, cử chỉ, từng lời nói của mình, tức là luôn luôn sống trong chánh Niệm, con đường dẫn tới Định.

Chính các giới luật tạo nên tăng đoàn, một bộ phận trong Tam Bảo. Gia nhập tăng đoàn, tuân theo giới luật, là con đường tìm đạo giải thoát. Nhưng trong kinh điển cũng công nhận nhiều người đã tự đạt đến giác ngộ, như các Phật Duyên Giác (pratyeka – Độc giác Phật). Cùng thời với Đức Thích Ca, có rất nhiều vị đạotìm đường giải thoát như vậy. Thầy Huyền Trang kể một câu chuyện trước khi tới Kashgar, bên bờ sa mạc Takla Makan thuộc tỉnh Tân Cương bây giờ trên đường đi tới Khotan (Tân Cương) để trở về Tràng An.

Tại một địa điểm nay mang tên là Och, Huyền Trang thấy một ngôi tháp lớn, hỏi dân sống chung quanh được biết tháp được dựng lên để thờ một vị La Hán. Theo truyền thuyết, vị la hán này đã ngồi nhập định tại chỗ đó từ bao nhiêu đời, không ai biết; thân xác ông ta đã khô đét nhưng tóc dài vẫn phủ trên mặt, trên vai. Một ông vua đến chiêm bái, tò mò hỏi có thể đánh thức vị la hán dậy hay không. Người ta nói rằng nếu đụng tới thì lớp da khô sẽ tan vỡ, bộ xương bên trong sẽ rụng xuống hết. Một tu sĩ khuyên nhà vua dùng chất dầu và kem sữa thoa lên hình hài cho mềm đi, có thể vị la hán sẽ trở lại bình thường.

Ông vua là người mộ đạo, đã kiên nhẫn làm công việc thoa dầu như thế trong nhiều ngày, cho đến khi cái xác khô từ từ sống lại. Khi mở mắt, vị la hán hỏi: “Ông Thích Ca Mâu Ni đã đạt được ‘vô thượng chính đẳng chính giác’ chưa?” Mọi người trả lời rằng Đức Thích Ca đã thành đạonhập niết bàn từ mấy trăm năm rồi. Vị la hán khép mắt lại, từ từ nâng thân thể mình lên trên không, đặt hai tay lên đầu và dùng nhiệt lượng của chính mình tạo thành ngọn lửa, tự đốt cháy nhục thân. Ông vua đã gom nhặt các miếng xương “xá lợi” lại, dựng ngọn tháp để thờ, Huyền Trang còn được chiêm bái ngôi bửu tháp. Câu chuyện trên được Richard Berstein kể trong “Ultimate Journey,” nhà xuất bản Knofp in năm 2001, cuốn du ký thuật lại chuyến đi của ông cố gắng theo lộ trình của Tam Tạng Pháp Sư gần 1,400 năm trước.

Câu chuyện thầy Huyền Trang kể có thể do dân địa phương thêu dệt qua cả ngàn năm nhưng có một điều được xác nhận là: Cùng thời với Đức Phật có rất nhiều đạo sĩ cũng tìm đạo giải thoát và đã chứng ngộ, biến vào cõi không sinh không diệt. Đức Thích Ca đi xa hơn những vị khác. Ngài ngồi yên 7 ngày chiêm nghiệm những điều mình thấy được trong giây phút giác ngộ. Theo truyền thuyết kể lại, Phật đứng dậy, suốt 7 ngày nhìn xuống nơi mình ngồi, rồi bước đi qua lại trong 7 ngày nữa. Trong 7 ngày sau, Phật ghi nhận những điều mình đã chứng ngộ, xếp đặt thành bảy bộ trong Abhidharma; người Trung Hoa phiên âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, hoặc dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Đối pháp, Thắng pháp, nghĩa là những hiểu biết “đi xa hơn,” theo Hòa thượng Thích Thiện Siêu. Nhưng Đức Phật rất thực tế, chỉ trình bày các sự thật Khổ, Tập, Diệt, Đạo cho các đệ tử đầu tiên, biết rằng mọi người không thể hiểu ngay các giáo pháp cao sâu. Sau này, khi có cơ duyên Ngài mới chỉ cho thầy Xá Lợi Phất, Sàriputta, toàn thể bộ A tỳ đạt ma – gồm toàn thể các hiện tượng, từ thế giới vật chất đến tâm linh. Thầy Vasubandhu đã phân tích các pháp làm thành bài học, trong Abhidharmakosa, Câu Xá Luận.

Tu viện, chùa chiền là nơi những người tu học theo Phật có thể được học các giáo pháp đó. Cho nên, dù người hành đạo có thể một mình tìm đường “độc giác” nhưng nếu có dịp học hỏi thêm Vô tỷ pháp thì chắc càng thêm ích lợi.
(Theo VOA)






Tạo bài viết
Kính thưa chư Tôn thiền đức, quý Phật tử và quý độc giả, Như chúng tôi đã bố cáo trên Facebook vào thời điểm một nhà sư Việt Nam sửa soạn bộ hành khất thực từ Gia Lai đi Ấn Độ, website Thư Viện Hoa Sen đã bị một thế lực đen tối dấu mặt đánh sập liên tiếp nhiều lần. Tất cả các cuộc tấn công đều theo mô thức DDoS (Distributed Denial of Service) nhắm vào cơ sở hạ tầng mạng làm quá tải và hư hại máy chủ. Sau mỗi lần tấn công, chúng lại dùng trí tuệ nhân tạo AI để tạo ra các cách tấn công mới hơn và thông minh hơn, vượt qua tất cả những biện pháp phòng ngừa truyền thống. Về nguyên nhân chúng tôi đã thưa trong những lần bố cáo trước. Hiện nay hệ thống máy chủ của Thư Viện Hoa Sen đã được sửa chữa và tăng cường thêm nhiều trang thiết bị mới nhằm ngăn ngừa các cuộc tấn công trong tương lai. Kính thưa quý vị,
Kính thưa quý vị khá thính giả của chương trình Phố Bolsa TV. Hiện nay tôi đang có mặt ở tỉnh Surin Thái Lan cùng đòan bộ hành với sư Minh Tuệ đi Đất Phật Ấn Độ và hôm nay nơi giữa đường thì chúng ta sẽ có một buổi nói chuyện trực tiếp với sư Minh Tuệ. Những câu hỏi đã được tôi soạn ra trước nhưng không hề có việc gửi tới trước cho Sư hoặc là cho anh Đoàn Văn Báu (Trưởng đoàn)
Vào năm 2015 ngôi chùa Linh Thứu tại thủ đô Berlin của xứ Đức, đã đảm nhận trọng trách tổ chức một khóa An Cư Kiết Đông cho hơn 100 vị Chư Tăng Ni đến từ các nơi, chủ yếu là Âu Châu. Gần mười năm sau, Chùa lại được hân hạnh đón tiếp lần thứ hai gần 100 Vị đến tu tập những 10 ngày từ mùng 9 đến 18 tháng 12 năm 2024, đó là khóa An Cư Kiết Đông kỳ thứ 12, nếu không trừ ra vài khóa vắng bóng thời Cô-Vít ngày nào!