Chặng Đường Giác Ngộ Của Thiền Sư Khánh Hỷ

28/08/20143:27 SA(Xem: 12337)
Chặng Đường Giác Ngộ Của Thiền Sư Khánh Hỷ

CHẶNG ĐƯỜNG GIÁC NGỘ CỦA THIỀN SƯ KHÁNH HỶ

Như Hùng

Đầu lông trùm cả càn khôn thảy

Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong

Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi:

Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc?

Bản Tịch đáp:

Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần?

Sư thưa:

Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao?

Bản Tịch đáp:

Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào!

Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.

Vạn dặm mây trôi

Con đường để đi đến giác ngộ, không phải lúc nào cũng thênh thang rộng mở, sắc màu điểm tô, mà con đường đi đó, có những vấn đề của riêng nó, thăm thẳm xa, với bao gập ghềnh, gian khổ, từ nội tâm cho đến ngoại cảnh, từ bên trong lẫn bên ngoài. Tâm ban đầu của người học đạo, tinh khôi, trong sáng, nhưng rồi có mấy ai giữ trọn, không bị thời gian bào mòn, tâm cảnh dẫn đưa, trái ngang bám chặt, khó khăn đón chào. Đường đi, dù chẳng dễ đi chút nào, phải bền tâm, kiên định, một lòng hướng thượng, quyết tâm vượt thoát, mới mong đi trọn. Bi nguyện cùng hạnh nguyện giải thoát khổ đau, không còn là đích nhắm, không còn là sự hoài bảo, không còn là niềm ước mơ hy vọng, mà phải đánh đổi, hoán chuyển thành nguyện lực, tâm lực, ra công gắng sức, nổ lực vươn cao, giải thoát chính mìnhtha nhân, tìm đến an lạchiện tại và bây giờ.

Trong sự tu tập, không có thuận duyên, chỉ có nghịch duyên, không có thuận cảnh, chỉ có nghịch cảnh, nhưng từ trong đó, từ trong nghịch cảnh mới có thuận duyên, từ trong nghịch duyên mới có thuận cảnh, từ trong khổ đau mới cần đến giải thoát. Khi nhận biết tinh tường, thấu rõ, thì thuận nghịch, khổ đau sẽ chuyển hóa, thành chất liệu, tương tác, vượt lên, hổ trợ cho nhau. Tu là đi trên con đường nghịch dòng, con đường gian nan vất vả, con đường khổ ải, con đường ít người dám vượt qua, bước tới, nhưng đó lại là con đường của người tu và muốn tu, nếu quyết lòng bền chí thì sẽ vượt qua đến đích. Con đường, cũng chính là con đường của không đường, và chỉ mỗi con đường của không đường đó, mới đủ năng lực nhiệm mầu đưa ta vượt thoát, bước vào cánh cửa không môn.

Chặng đường tâm linh, đôi khi lắm lúc, có những điều khiến cho ta bối rối, khiến cho ta chột dạ, bâng khâng, khiến cho ta hoài nghi, đặt nhiều câu hỏi, mong chờ một sự giải đáp, những tín hiệu. Có khi, ta nhận được sự giải đáp, nhưng ta vẫn không thoả mãn, luôn khát khao tìm kiếm, ngóng trông, đợi chờ, rồi cứ lắc đầu không chịu, lại lăng xăng, khăn gói, hành trang ra đi tìm cái khác. Nhưng có sự đáp trả nào, khiến cho ta bằng lòng, vui sướng, hả dạ, nếu không tự mình đào bới, khai quật nơi nội tâm, tự mình tìm phương giải quyết, tự mình tìm thấy câu trả lời cho chính mình, riêng mình, thì không một ai, vị nào, đấng nào, đem lại cho ta câu trả lời đúng nghĩa. Trong những câu hỏi đặt ra, có những điều liên quan đến sự tu tập, giải thoát, có những thứ liên quan đến sở học, bùng vỡ của giác ngộ, và cũng có những điều, chỉ nhằm trình bày kiến giải, sở đắc tu tập để nhờ thầy ấn chứng. Có những câu trả lời, khiến cho ta càng thêm bối rối, nghĩ ngợi lung tung, bị gạt ra ngoài, bị đá bung ra, bị phất trần đánh tới tấp, khóa miệng, bóp môi, đầu óc căng cứng, có khi tàn nhẫn, thô bạo, có khi vỗ về, an ủi, từ tốn, nhẹ nhàng, như nước chảy mây bay, qua cầu gió thổi, dẫu vậy, ta vẫn chưa hiểu được lý do là gì và tại sao, ta vẫn ngơ ngác đứng bên ngoài cuộc chơi. Đôi khi cũng có sự đáp trả, khiến ta bay bổng ra ngoài càn khôn, giật mình tỉnh mộng, bao nhiêu lầm chấp, ngờ vực, chỉ trong sát na tích tắc, bị quét sạch, cuốn trôi, nhận ra được bản thể vi diệu không cùng của giác ngộ, từ đó từng bước ta đi tới, vươn cao trong ý lực vượt thoát, chọc thủng màn đêm tăm tối.

Câu hỏi của thiền sư Khánh Hỷ đặt ra, ta thấy có hai phần:

- Ý chỉ của Tổ Sư?

- Nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc?

Câu thứ nhứt, tương đối rõ nét, dù phải trăn trở, khai quật trong tận cùng tâm thức tìm lời giải đáp, một công án mà ta phải nghiền nghẫm, quán chiếu nghiêm mật, may ra mới thấy được. Câu thứ hai, vừa hỏi, và cũng vừa phê phán, khi đọc thoáng qua, ta thấy Thiền Sư Bản Tịch chỉ trả lời câu thứ hai “Lời nói ấy đâu phải không do đồng cốt giáng thần”. Câu trả lời đó, liên quan đến câu thứ nhứt, hay câu trả lời tự nó phủ trùm lên cả hai, quy nguyên về một mối? Đồng cốt ở đây, không phải lên đồng nhập cốt, “hô thần nhập tượng” mà là sự quấy rối, đong đưa, mê hoặc, cái tâm thức lăng xăng trôi nổi, do vô minh sai khiến, và được hiểu như “tại tâm nhân giả phân biệt”. Ở vào thế chênh vênh nào đó của tư tưởng, ngôn ngữ, đôi khi lại là một sự phủ định toàn triệt, quăng bỏ, đẩy bung ra ngoài, chẳng ăn nhập gì cả, không có sự nối kết, khiến cho tâm thức của mình rơi vào cùng đường, bí lối, không phạm trù để nương tựa, không kẻ hở để trụ bám. Chính trong phút giây ray rức cùng cực, hoang mang tột đỉnh đó, ta mới giật mình choàng tỉnh, trông thấy được thực tại huy hoàng, thấy được đâu là đâu, đâu là cửa ngõ đích thực để đi đến giác ngộ, và đâu là căn nguyên để giác ngộ từ đó lưu xuất.

Trong thiền, vốn đầy dẫy những thuật ngữ, xảo ngữ, diệu ngữ, nhưng trong việc tìm thấy giác ngộ, bùng vỡ giác ngộ, thì không thể dùng đến ngôn ngữ như một minh chứng rạch ròi, vì lẽ ngôn ngữ không có trong giác ngộ, giác ngộ không ở trong ngôn ngữ. Rõ ràng, thiền sư Bản Tịch phá vỡ cái thế đứng chênh vênh, xóa nhòa biên giới, nhị nguyên, đập vỡ sự bày biện của ý thức, đạp đổ mọi so đo, phân biệt, toan tính, rủ bỏ mọi phân vân nghĩ ngợi, chấp trước. Muốn thấy được “Ý chỉ của tổ sư là gì” tức là phải thấy được cái dụng của tâm, bản thể vi diệu của giác ngộ, nằm trong sâu thẳm, tự mình nghiền ngẫm, quán chiếu, vận dụng đến trí tuệ, chứ không thể y cứ vào những biểu hiện, đi lại, mang tính tùy tiện, bày biện của tư tưỏng, bản năng. Bản thể như thật, thường tại của chân tâm, không đến và không có từ kinh viện, giáo điều, những áp đặt, những tôn thờ, những định kiến, lối mòn, những biến đổi khôn lường của tâm thức. Điều đó không góp phần, không tăng trưởng, không giúp ích trong việc trông thấy đâu là bản thể của giác ngộ, muốn đạt được, thấu hiểu rõ ràng, là phải phá bỏ rào cản, sự ngăn ngại, vực dậy chơn tánh đang sẵn có trong mỗi chúng ta, làm cuộc cách mạng toàn triệt trong nội tâm, buông bỏ mọi dính mắc, phủi sạch mọi che mờ, để cho ánh sáng trí tuệ của giác ngộ chiếu vào, tỏ rạng, bằng sự hoán chuyển, đổi thay, đào bới trong tận cùng tâm thức, nối kết sự tỉnh lặng tuyệt vời, thuần nhất, trong từng hiển hiện.

Một câu hỏi vượt thời gian

Câu hỏi: “Như hà thị tổ sư Tây lai ý”? Thế nào là tổ sư Tây lai ý? Trước đó, đã được Hòa Thượng Triệu Châu Tòng Thẩm (778– 897) của Trung Hoa từng đề cập, nhân có một vị tăng hỏi, mẫu đối thoại nầy được ghi lại trong Triệu Châu Lục, và trong Vô Môn Quan.

Tắc số 37. Cây bách trước sân (Đình tiền bách thụ)

Bản tắc:

Hòa Thượng Triệu Châu nhân có vị tăng hỏi:

Tổ sư Đạt Ma từ phương tây xa xôi đến, ý là gì vậy?

Thiền sư Triệu Châu bèn chỉ ra ngoài sân đáp:

Là cây bách đó!

Bình xướng:

Vô Môn nói rằng:

“Nếu thấu hiểu một cách chính xác câu trả lời của Triệu Châu thì coi như cả Phật Thích Ca Mâu Ni trong quá khứ lẫn Di Lặc Bồ Tát trong tương lai đều không hề tồn tại.”

Tụng:

Ngôn vô triển thi

Ngữ bất đầu cơ

Thừa ngôn giả tang

Trệ cú giả mê

Nói không giải thích nói

Lời chẳng động cơ thiền

Kẻ hiểu lời toi mạng

Người bám chữ ngu thêm”.

Nguyễn Nam Trân, biên dịch

Cũng trong câu hỏi: “Thế nào là tổ sư Tây lai ý?” Thiền Tông Ngữ Lục Đại Quan của Viên Tân, Lý Việt Dũng góp nhặt và biên dịch, ta thấy có khoảng 41 câu trả lời từ những vị thiền sư khác nhau, ở vào những thời điểm khác nhau. Chúng ta thử đọc một vài trích đoạn dưới đây:

Ngày kia Thiền Sư Trí Nhàn hỏi chúng tăng rằng: “Có một người tại chốn non cao ngàn thước, miệng chỉ cắn được nhánh cây, chân không có gì để giẩm đạp, tay không có gì để bấu, thì bổng có người hỏi: Ý chỉ của Tổ sư Tây lai là gì? Nếu mở miệng trả lời thì tán thân mất mạng, mà không trả lời thì phụ ý người hỏi. Lúc đó các ngươi tính thế nào?” Khi ấy có vị Chiêu thủ tòa bước ra nói: “Lúc leo cây thì không hỏi làm chi, còn lúc chưa leo thì chí ý Tổ sư Tây lai ý là gì?” Thiền sư cười bỏ qua.

Thiền sư Thủy Lao đến tham yết Mã Tổ hỏi: “Thế nào là Tổ sư Tây lai ý?” Tổ nói: “Hãy lễ bái cái đã”. Sư vừa cúi lạy, Mã Tổ nhắm ngay ngực sư cho một đạp té nhào. Sư liền đại ngộ, nhổm dậy xoa tay cười ha hả nói: “Thật lạ kỳ, thật lạ kỳ, trăm ngàn tam muội, biết bao diệu chỉ của Thiền tông chỉ nhờ nơi đầu mảy lông nhỏ xíu mà nhận thức được bổn lai nguyên”.

Thiền sư Ngưỡng Sơn hỏi: “Thế nào là tổ sư Tây lai ý?” Thiền sư Linh Hựu chỉ chiếc đèn lồng bảo: “Là chiếc đèn lồng”. Ngưỡng Sơn nói: “Có phải cái lồng đèn nầy là nó không?” Linh Hựu hỏi: “Cái này là gì?” Ngưỡng Sơn nói: “Chính là một cái đèn lồng” Thiền sư Linh Hựu nói: “Quả nhiên là không thấy rồi”.

Ý chỉ Tổ sư Tây lai ý là gì? Điều đó, quan trọng đến mức nào, mà chư thiền sư đem ra hỏi và đều nhận những câu trả lời khác nhau? Có phải đó, một bản di chúc, kho báu vô tận, bí quyết để đi đến giác ngộ, ta phải ra công tìm kiếm, gõ thật mạnh, thật sâu vào tận cùng tâm ý, phải đánh đổi mạng sống, tâm lực, bằng sự quyết lòng vực dậy? Ý chỉ đó, không đơn thuầntôn ý, ý chỉ, mục đích của tổ sư là gì, mà là cốt lõi, trọng tâm, chổ tuyệt cùng, chổ chính yếu, quan yếu, sự quyết định dứt khoát, kết quả tất nhiên, sự tựu nên, vi diệu cao tột của thiền? Ta không thể dùng khái niệm, thước đo, phạm trù, ngôn ngữ để đo lường, đong đếm, mà là bất khả tư nghì, không nói được, không thể diễn tả được, không thể nghĩ bàn, nó cuồn cuộn dâng cao, quét sạch mọi trì trệ ứ đọng, rồi lại thong dong rũ sạch mọi thứ, tự tại ra đi, không hề vướng bận. Cao tột diệu vợi, không hề có đến đi, chưa từng đi đến, kẻ hỏi và người trả lời, bặt dấu mất tăm, chẳng thấy có người hỏi và người trả lời, tìm ở đó như mò kim đáy biển, như vào chổ không người, không lời, không vật, không năng sở. Dùng cái tâm thức vọng động, thường xuyên khuấy nhiễu, thì khó mà cảm nhận được, khó mà thấy được, chỉ có sự bặt ngôn trọn ý, tung mình thoát ra ngoài mọi tương quan, đối đãi, may ra ta mới trực nhận. Điều quan trọng, phải gõ cửa thì cửa mới mở, vì là cánh cửa không môn, nên phải biết cách gõ, phải vận dụng đến năng lực nội tại không cùng, người gõ và cánh cửa, có còn là năng là sở, là một là hai, hai nhập một, không gõ chẳng mở.

Nhìn chung, mỗi vị Thiền Sư đều trả lời mỗi cách, mỗi vẽ, mỗi nét, không vị nào giống vị nào, có vị hét, có vị quát, có vị đánh tới tấp, có vị lặng thinh cười ha hả. Có chăng, một điểm tương đồng, đó là, mở ra cánh cửa nhiệm mầu của thực tại, ngay lúc đó, tại nơi đó, thời điểm đó, tâm thức đó, con người đó, đẩy bung cảnh và tâm, lột trần tất cả, để lộ nguyên sơ. Một khi tánh thấy, chạm được vào sự nguyên vẹn, nhất như, thì cái thực tại đó, sẽ trở nên tuyệt vời, thuần khiết, và cũng chính nhờ vào sự chạm thẳng được cái nguyên trạng tức thì đó, tạo nên sự tương tác, lực đẩy, khiến cho tâm thức của ta, đánh động ngay với thực tại ấy, thể nhập vào đó, trực nhận vào đó, mở ra từ đó. Nó không ở đâu xa, nằm ngay tại đó, nằm chình ình trước mắt, hiện thực như thế, rõ ràng như thế, vốn dĩ như thế, chỉ có như thế, ý chỉ tổ sư như thế, không thể nghĩ, chẳng thể bàn, tự nhiên, như nhiên, thường hằng tỏa chiếu .

Trong trường hợp ngài Bản Tịch trả lời cho thiền sư Khánh Hỷ, ta thấy có sự đặc biệt, là ngài dùng chính cái ngôn ngữ của người đã hỏi, trả ngôn ngữ đó về lại cho người hỏi, về chỗ cũ, về với cái ban sơ của chính ngôn ngữ đó, trả luôn cái tâm năng động, tra vấn, lầm chấp, lại cho người hỏi, về lại nơi nó đã ở, đã từng trú ngụ, về với nguyên ngữ, về với sự vắng lặng, bặt ngôn. Và đây cũng là điểm độc đáo, vượt bậc, thay vì viện dẫn, phân tích, chứng minh, nhọc lòng mệt óc, thì lại xử dụng ngay chính cái thực trạng đó, chính cái hiện trạng đó, thời điểm đó, câu hỏi đó, tâm cảnh đó, giây phút đó, khiến hành giả trực nhận thẳng vào giác ngộ, không còn trụ bám, chấp trước, “còn đang nghĩ ngợi, vạn dặm mây trôi”.

Vậy thì, ý chỉ Tổ sư Tây lai ý là gì? Có phải, trống không, tròn đầy, lặng lẽ, hoạt dụng, không ý mà chẳng tứ?

Trong sự lý luận, so sánh, lập ngôn, tự mình vẽ ra, tạo ra, dựng nên, tự mình sắp đặt, tự mình bày biện, rồi tự mình đánh đấm túi bụi vào cái bánh vẽ đó, vào chính sự bày biện đó, vào cái khoảng không hụt hẫng đó. Thật ra nó vốn không hề có, không hề tồn tại, không có ở đó, trong thiền, tất cả mọi tiền đề, tiêu đề, tri kiến, viễn kiến, kiến giải, nhằm xây dựng một cái gì, thiết lập một điều gì, dựng nên một điều gì, đều bị thiền vạch mặt điểm danh, quật ngã, đốn sạch, đốt tan, không còn cơ may bén mảng đến. Ý đã lăng xăng không thật, thì còn cái gì gọi là ngôn là ngữ, chỉ có vô tâm phân biệt, sự vắng bặt toàn triệt, mới là điều tối cần.

Thiền kêu gọi “Kiến tánh thành Phật” Thấy được chân tánh thành Phật, tự tánh, bản thể của giác ngộ, sự linh hiện, như thật của các Pháp, tất cả mọi dụng công, mọi nổ lực, là nhằm để thấy được chân tánh, thường tại, muốn thấy được phải có trí tuệ, buông bỏ tất cả, để cho ánh sáng của Chân Như chiếu rọi. Tông chỉ của thiền có 4 câu, do tổ Bồ Đề Đạt Ma (470-543) nêu ra, nhưng cũng có người nói do Nam Truyền Phổ Nguyện (749-835) một môn đệ của Mã Tổ Đạo Nhất.

Bất lập văn tự

Giáo ngoại biệt truyền

Trực chỉ nhân tâm

Kiến tánh thành Phật.

“Không lập văn tự

Truyền giáo pháp ngoài kinh điển

Chỉ thẳng tâm người

Thấy chân tính thành Phật”.

Ngôn ngữ văn tự, tự nó là một hố thẳm, nếu có sự dính mắc, chấp trước, là do chính mình tìm cách dính mắc, để cho dính mắc, chạy theo dính mắc. Thiền kêu gọi “không lập văn tự” nhằm ngăn ngừa chấp trước, phá vỡ sự nương nhờ, viện dẫn, bám víu, vướng bận, lạc lối, vào văn tự, ngôn ngữ. Thật ra, điều nầy có vẽ như hơi lo xa, vì lẽ, thiền vốn xóa nhòa mọi chặng đường đi lại, dấu vết, quét sạch trì trệ ứ đọng, trôi nỗi của tâm thức, đánh sập và ủi nhào tất cả thành trì của tư tưởng, tri thức, đâu phải chỉ có ngôn ngữ văn tự không thôi. Thiền vốn vượt thoát, “siêu ngôn ngữ, siêu văn tự, dĩ tâm truyền tâm” bởi lẽ ngôn ngữ chỉ sự bày biện nào đó của tâm thức, văn tự nhiều khi cũng chỉ là sự nhảy múa của tư tưởng, muốn thể nhập là phải tư duy, quán chiếu, trãi nghiệm, nếu mà “bất lập” thì còn nhiều thứ để mà bất lập, chứ không đơn thuần chỉ có mỗi việc ấy, và nếu càn quét, triệt tiêu, thì còn có rất nhiều điều, nhiều thứ, để phải xoá nhòa, ủi sập, chứ không phải chỉ việc đó. Sự dính mắc của tâm cảnh, tâm vướng cảnh, cảnh dính tâm, cả cảnh và tâm cùng dính, cùng mắc, đó mới là điều đáng sợ, đáng giải quyết. Phải chăng, chính từ sự “bất lập” đó, mới có tiếng hét, tiếng quát, tiếng ha, phất trần đánh tới tấp, bất lập điều nầy, để rồi lập nên điều khác?

Câu thứ hai “truyền giáo pháp không xử dụng đến kinh điển” với chủ trương không nương vào kinh điển, không viện dẫn, giáo lý, giáo tông, có vẽ như mang tính bí mật bổn môn, sự truyền thừa riêng rẽ, truyền cho người đủ duyên lãnh hội, có tính ban bố, sự cho và nhận, tạo nét riêng biệt, độc đáo. Phải chăng, hai câu đầu nhằm chú trọng đến việc gây thanh thế, dựng tông lập phái, tạo sự đặc thù, gây sự chú ý? Dù là tông chỉ, hay gì đi nữa, nhưng một khi thiết lập, thì vẫn có những giới hạn của riêng nó, và nhiều khi chỉ có giá trị ở vào một thời điểm nào đó. Suy cho cùng, thiền không cần đến bất cứ sự bày biện, trang sức nào cả, những điều đó cũng chẳng tăng thêm uy tín cho thiền, vã lại, thiền đâu cần đến uy tín, và thiền cần uy tín để làm gì? Hai câu cuối “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” có lẽ, đó mới đích thực là cốt lõi của Thiền, và cũng có thể đó là “Ý chỉ của tổ sư Tây lai ý”.

Trong hội Linh Thứu, một giai thoại thiền, Đức Phật Thích Ca cầm cành hoa đưa lên trong chúng hội, cả đại chúng yên lặng, duy chỉ có ngài Ca Diếp mĩm cười (Niêm hoa vi tiếu). Đức Phật tuyên bố: “Ta có chánh pháp vô thượng trao cho Ma Ha Ca Diếp. Ca Diếp là chổ nương tựa lớn cho các thầy tì kheo, cũng như Như Lai là chổ nương tựa cho tất cả chúng sinh”. Đức Phật biểu lộ một hành động, ở vào thời điểm cần thiết phải làm như vậy, ngài đưa một vật lên trước đại chúng, cả hội chúng phần nhiều đều chứng thánh quả, không lẽ chỉ mỗi một mình ngài Ca Diếp là nắm được tôn ý của Phật? Dù Phật có đưa vật gì lên, thì ngài Ca Diếp cũng sẽ mĩm cười, cả hội chúng cũng sẽ an nhiên mĩm cười. Cũng từ câu tuyên bố đó của Đức Phật, được chư Thiền Tổ giải thích như sau: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, bất lập văn tự, truyền ngoài giáo pháp, nay trao cho Ca Diếp.”

Theo một số nhà nguyên cứu, đây là cách gây uy tín cho thiền, bằng việc tạo ra một dòng tổ bắt nguồn từ Đức Phật Thích Ca. Không lý, Tổ Bồ Đề Đạt Ma với chín năm ngồi quay mặt vào vách, để rồi ngài sáng tạo ra bốn câu tông chỉ, còn có cuốn Thiếu Thất Lục Môn (Sáu cửa vào động Thiếu thất) được gán cho tổ, của tổ, hay do đời sau ngụy tạo? Xét về nội dung, tư tưởng, ngôn ngữ, văn khí đủ thấy sự thâm sâu cao tột của tác phẩm, vậy cớ gì, lý do gì, diệu dụng gì lại gán cho tổ. Nếu do đời sau ngụy tạo, thì dụng ý đó là gì, vẫn còn là một dấu hỏi thật lớn, và câu trả lời cũng thật lớn. Dùng phương tiện để đi đến chân lý, cứu cánh biện minh cho phương tiện, phương tiện biện minh cho cứu cánh, nhưng rốt cuộc, phương tiện vẫn là phương tiện, cứu cánh vẫn là cứu cánh, không thể song hành, chung lối, trừ phi cả hai nhập làm một, tuy hai mà một, có được chăng và đến bao giờ? Nếu không đủ năng lực thâm sâu, không thể nhập vào tận cùng, không vượt thoát, không vực dậy, không khéo ta lại mắc kẹt vào đó, rơi vào đối đãi, chấp trước, rồi lại đánh trống thổi kèn, khuyếch trương phóng đại.

truyền thuyết, tổ Bồ Đề Đạt Ma quảy dép về Tây, phi hành trên ngọn Thông Lãnh, cho dù là huyền thoại, huyền sử, thì bóng dáng hiên ngang đó, vẫn mãi bám theo ngài trên mọi lối. Có người còn gọi ngài là (Bích nhãn hồ) nghĩa là “Tên rợ mắt xanh” có vẽ như bất kính, nhưng có phải vì thế, mà làm ảnh hưởng, hoen ố đến hình ảnh độc đáo, phi thường của ngài? Cũng có thuyết cho rằng Bồ Đề Đạt Ma, chỉ là nhân vật huyền thọai, dù ở góc độ nào, khía cạnh nào, huyền sử, chính sử, huyền thoại hay không huyền thoại, bất kính hay không, thì vẫn chưa một ai thay thế nổi, chưa một ai đương đầu nổi, cái bóng dáng hùng vĩ, hiên ngang, phủ trùm lên cả thời gian lẫn không gian, lồng lộng trên bầu trời Đông Độ, đọng mãi trong dòng chảy của nền văn học Thiền hằng bao thế kỷ nay, và cũng chưa một ai sánh bằng, theo kịp, một kẻ được tôn xưng là độc đáo, hy hữu, siêu việt trong lịch sử Thiền Tông.

Cuối cùng, tổ sư Tây lai ý? Ý của tổ sư? Ý của người sau? Hay ý đó, chỉ là ý của ý?

Mặc dù có sau, đến sau, nhưng bốn câu tông chỉ đó, tác động không nhỏ đến nền thiền học Việt Nam, dẫu vậy, nếu có chú trọng, thì thiền Việt Nam chỉ chú trọng vào hai câu cuối “Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật”. Với hai chử “kiến tánh”, vô cùng vi diệu, cao tột tuyệt vời, nói lên được tất cả, làm được tất cả, với hai chử đó cũng đã đủ, cho một đời tu tập. Những giáo pháp, giáo tông, tâm tông, pháp môn, những ngữ lục, thiền ngữ, công án, thi kệ, những thuật ngữ, diệu ngữ, cũng đều nhằm vào việc, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, khả năng thành Phật đều sẵn có trong mỗi chúng sanh. Thiền Việt Nam, không tạo nên những rối bời lo lắng, không đi lòng vòng quanh co, đưa ta vào trận đồ không lối thoát, mở gút thắt ngay lập tức, để thấy thật tướng của các pháp, thấy được chân tính tròn đầy, lặng lẽ, tuyệt diệu. Kiến tánh không còn là một trạng thái, mà là sự thực nghiệm, thể nhập trọn vẹn, phải nhập vào dòng chảy, phải leo lên đỉnh cao ngút ngàn để trông rõ mọi hiện tượng, phải xuống tận cùng hố thẳm để thấy những vi diệu ẩn chứa tại đó tự bao giờ. Đó là sự quan yếu, cốt lõi, để đạt đến giác ngộ, bởi lẽ, những tác động đều phải tác động ngay từ bây giờ, trên chính cái tâm của mình, tìm ra mọi ngõ ngách đi lại của tâm, theo dấu tâm đi, thâu tóm tâm về một mối, tâm là chủ nhân ông, tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tác tạo. Một khi tâm được giác ngộ, thông suốt, tường tận, thấy được bản tính như thật, nguyên vẹn, lập tức an lạc thường hằng xuất hiện.

Thiền tông có mặt ở Việt Namthiền Đại Thừa, sáng tổ là Thiền Sư Khương Tăng Hội (?-280) cha mẹ ngài gốc Khương Cư, ngài sanh ra tại Giao Chỉ, xuất gia, tu họchành đạo tại đây, ngài cùng với Trần Tuệ, chú sớ và đề tựa kinh An Ban Thủ Ý do An Thế Cao dịch, ngài phát triển thiền học theo tinh thần Đại Thừa, không những thế ngài còn là người đầu tiên đem thiền học phát huy ở Trung Hoa, ngài cư trú ở đây 25 năm.

Trong Thiền Uyển Tập Anh, một tác phẩm quan trọng và lâu đời của nền thiền học Việt Nam, thì hầu hết các vị thiền sư Việt Nam, trước khi thị tịch đều lưu lại một bài kệ, thiền ngữ, công án, chứa đựng nội tâm giác ngộ siêu việt, những kinh nghiệm thực chứng, nhằm cảnh tỉnh, sách tấn, răn dạy, nhắc nhở người sau. Bởi lẽ, chủ trương của thiền Việt Namnhập thế, đi vào cuộc đời để cứu độ chúng sanh, chuyển hóa phiền não khổ đau tìm đến an lạc giải thoát, trong sự rộng mở của trí tuệ giác ngộ. Giác ngộ được tìm thấy từ trong cuộc đời, từ nơi sự sống, từ trong phiền não khổ đau, và giải thoát cũng từ nơi cuộc đời, từ nổi đau sự khổ, mới cần đến giải thoát. Đạo Phật Việt, lấy sự giải thoát cho chính mình và tha nhân, làm bi nguyện độ sanh lên đường phụng sự, dấn thân và lập nguyện, cứu khổ quần sinh, đưa chúng sanh về nơi an lạc. Chính từ tâm lực, nguyện lực cao cả, làm chất liệu, hành trang vượt thoát, mà Đạo Phật Việt tồn tại và trãi dài cho đến tận hôm nay và mai sau. Chúng sanh có được an lạc, giải thoát là chính mình có được an lạc, độ mình tức độ người vậy, xả thân mạng không nề gian khổ, hết lòng phụng sự, không ngại gian nan, không từ khó nhọc. Thiền Việt Nam cao thâm vượt trội, tâm nguyện, hạnh nguyện đó, vẫn đêm ngày tỏa chiếu, soi từng bước đi, cho cả một dân tộc, làm sống dậy chân lý cao tột của giải thoát trong từng tâm thức, tạo nên những con người tốt đẹp, một xã hội hoàn thiện, vươn cao, tiến thẳng về phía trước, đem đến một lý tưởng sống an lạc, cao đẹp trong sự vựơt thoát đầy ý nghĩa, làm vơi đi niềm đau nổi khổ, của chính mình và tha nhân, quốc giaxã hội.

Đọc lại thiền sử, Thiền tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền (?–867) cũng từng rời bỏ thiền sư Hoàng Bá Hi Vận (?–850) để ra đi, do không nhận được yếu chỉ từ nơi thầy. Một hôm tổ hỏi: “Yếu chỉ đạo Phật là gì?” câu hỏi vừa mới xong, âm vang chưa kịp tan loãng, tổ bị thầy đánh cho ba mươi hèo. Cả ba lần như thế, đều bị ăn đòn cả ba, Lâm Tế quyết định đi tìm thầy khác, Hoàng Bá chỉ ngài đến gặp Thiền sư Đại Ngu, khi tổ đến Đại Ngu hỏi:

Ở đâu tới?

Hoàng Bá

Hoàng Bá dạy dỗ những gì?

Nghĩa Huyền nầy ba lần hỏi về yếu chỉ của đạo Phật là gì, thì cả ba lần đều lãnh đủ nhiều gậy mà chẳng được dạy gì cả, chẳng biết tôi có lỗi gì?

Đại Ngu bảo:

Chẳng ai có thể tốt bụng hơn gã Hòa Thưọng hủ lậu đó, thế mà ngươi còn muốn biết mình có lỗi ở đâu? Bị Đại Ngu quở mắng Lâm Tế mới giật mình trông thấy cái dụng của Hoàng Bá, chứa đầy sự thương mến trong cung cách tàn bạo, Lâm Tế bèn thốt lên:

Thế ra Phật Pháp của Hoàng Bá chẳng có chi nhiều.

Đại Ngu nắm ngay lấy cổ áo của Lâm Tế và bảo:

Phút trước nhà ngươi nói không hiểu nổi, bây giờ bảo không có chi nhiều, thế nghĩa là gì?

Lâm Tế không trả lời, lại đánh vào cạnh sườn Đại Ngu ba thoi, Đại Ngu gỡ ra và bảo:

Thầy ngươi là Hoàng Bá việc nầy chẳng can dự gì đến ta.

Khi Lâm Tế trở về, Hoàng Bá hỏi:

Sao lại về nhanh thế?

Lâm Tế trả lời:

Vì thầy qúa tử tế như bà nội.

Hoàng Bá nói:

Đợi khi nào gặp gã Đại Ngu ấy, ta cho gã hai chục gậy.

Lâm Tế đáp:

Khỏi cần gặp, có ngay đây. Vừa nói, vừa vỗ cho lão Hòa Thượng một chưởng thật nặng.

Lão Hòa Thượng cười ha hả!

Điều đặc biệt, đệ nhị tổ Pháp Loa (1284-1330) của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, cũng đã thưa hỏi Sơ tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông (1258-1308) cả hai câu hỏi tương tự như vậy, ngài đặt ra hai câu đó, cùng một thời điểm, cùng một tâm cảnh.

Một hôm, Thiền sư Pháp Loa hỏi Sơ Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông:

Thế nào là Phật?

Ngài đáp: Tấm cám ở dưới cối.

Thế nào ý Tổ Sư từ Ấn sang?

Ngài đáp: Bánh vẽ

Thế nào là đại ý Phật Pháp?

Ngài đáp: Cùng hầm, đất không khác.

Cả hai Thiền sư, đều nhận được hai câu đáp trả khác nhau, một bên thì bị ăn đòn tới tấp, bên khác thì nhận được cái “bánh vẽ” và “cùng hầm đất không khác”. Khi ta đào một cái lỗ, cái hố xuống đất, thì cái hố, cái hầm đó vẫn ở trong đất, nằm nơi đất, trong lòng đất, không ra ngoài đất. Ý chính của phật pháp, bản thể của giác ngộ, giải thoát, cũng vậy không hề sai khác, “tâm địa” một khi cày bừa cho kỷ, dọn cho thật sạch, thì mặt trời trí tuệ soi sáng ”tâm địa nhược không tuệ nhật tự chiếu”. Dù hai thiền sư, ở hai phương trời khác nhau, thời điểm khác nhau, tâm thức khác nhau, nhưng đều chung một tâm điểm, đó là tìm cách vực dậy sự giác ngộ, bằng tất cả tâm lực, ý lực, nguyện lực, giải quyết sự bế tắc nơi nội tâm, những tra vấn mãnh liệt đang bừng dậy, quyết lòng mở cho được cánh cổng giác ngộ bằng mọi cách, dù bị ăn đòn, đớn đau thể xác, cũng không từ nan. Giác ngộ mới là mấu chốt, giải thoát mới là quan trọng, hết lòng hết dạ tìm cho ra, thấy cho trọn, đạt cho được.

Chặng đường trở về

Thiền Uyển tâp Anh ghi tiếp, sau khi cáo biệt Thiền sư Bản Tịch, sư đến chùa Vạn Tuế, thiền sư Biện Tài hỏi:

Ngươi từ đâu tới?

Sư đáp:

Từ chổ thầy Bản Tịch đến.

Thiền sư Biện Tài nói:

Thầy ấy cũng là thiện tri thức một phương, bảo ngươi thế nào?

Sư thưa:

Đệ tử theo hầu bổn sư đã lâu, nhưng chỉ hỏi một câu mà người không chịu nói.

Biện Tài hỏi:

Ngươi hỏi thế nào?

Sư bèn kể lại lời đối thoại bữa trước. Biện Tài nghe xong nói:

Ôi! Thầy Bản Tịch đã nói hết nhẽ cho ngươi rồi đấy. Ngươi chớ nên hủy báng bổn sư.

im lặng suy nghĩ, thiền sư Biện Tài nói:

Khi chẳng thấy đạt đạo, thì dù có đi khắp cõi, cũng không ngộ được, mãi mãi sai trái thôi.

Sư bổng nhiên tỉnh ngộ, bèn trở về chùa cũ. Bản Tịch thấy sư về bèn hỏi:

Ngươi đi đâu mà quay về nhanh thế?

Sư sụp xuống lạy tạ và thưa rằng:

Đệ tử mang tội hủy báng Hòa Thượng nên trở lại xin sám hối.

Bản Tịch thôi không hỏi nữa, từ đó sư cùng hai thiền giả Tịnh Nhãn, Tịnh Như thường đứng hầu thầy, một hôm Bản Tịch nói:

“Các kẻ nhân giả kia, học đạo của ta đã lâu, nay mỗi người cũng nên trình bày kiến giải của mình, để ta xem sự tiến đạo thế nào?”

Tịnh Nhãn, Tịnh Như toan mở miệng trả lời, sư bèn quát to:

Mắt bị vảy cá thì đốm hoa rơi loạn giữa không trung.

Bản Tịch nói:

Xà Lê Khánh Hỷ, ngươi đi thuyền sao đập vỡ gầu múc nước?

Sư nói:

Dùng thuyền làm gì?

Bản Tịch đáp:

Kẻ lanh lợi này! Chớ nói toạc ra! Ngươi chỉ thuyết giải được một phía thôi, nếu là việc phía bên kia thì chưa mộng thấy.

Sư đáp:

Tuy thế cũng chỉ là nó mà thôi.

Bản Tịch nói:

Chống thuyền rời bến một trăm thước, rồi buông sào đi bộ, thì ngươi nói sao?

Sư giơ cả hai tay lên đáp:

Chẳng hiểu! Chẳng hiểu!

Bản Tịch nói:

Tha cho ngươi một đòn!

Chặng đường đến gặp thiền sư Biện Tài, và khi trở về lại, cũng chỉ là những tín hiệu ban đầu của sự nhận biết, cái thấy đang từ từ hiển lộ, những trăn trở về giác ngộ cũng đang từ từ mở lối. Những tháng năm kề cận bên thầy, thấm nhuần không khí nơi thiền môn, dòng suối tâm linh vi diệu của thiền, đêm ngày len lõi tác động, liên tục hổ tương, mãi cho đến khi thiền sư Bản Tịch thúc ép để trình chổ ngộ của mình, lúc ấy mới thật sự chín mùi, đúng lúc, đúng dịp, lập tức mở bung ra, thể nhập trọn vẹn vào giác ngộ. Đây là lúc, bao nhiêu năng lực tu tập, bổng nhiên trào dâng ngập lối, mọi thứ vỡ tung ra, hiển hiện một cách vẹn toàn, giác ngộ đến tức thì, đến một cách toàn triệt, không xuyên qua thứ lớp, đến thật nhanh, đến một cách lạ lùng, sung sướng tột cùng, tinh tường thấu rõ, không còn ngăn ngại, không còn dò dẫm, thênh thang lồng lộng.

Cuộc hội tụ giác ngộ, trình kiến giải, Sư đối đáp trôi chảy, thể hiện trọn vẹn, từ trong bản thể vi diệu của giác ngộ bước ra, một bước nhảy tâm linh cao tột, một bước nhảy mà thời gian lẫn không gian không thể nào đuổi kịp. “Chống thuyền rời bến một trăm thước, rồi buông sào đi bộ, thì ngươi nói sao?” C ó gì để mà nói năng, trả lời, thưa hỏi, Sư đã từ trong giác ngộ, sống với giác ngộ, từ nhà Như Lai, ngồi tòa Như Lai, nên mọi hoạt dụng lưu xuất, cứ thế mà tự tại thong dong. “Chẳng hiểu! Chẳng hiểu!” Có gì để hiểu, còn gì để hiểu, công án, không còn là công án, giác ngộ không còn là giác ngộ, những đặt ra, những tra vấn, những bày biện, một khi bể ra, vỡ ra, là vỡ một cách toàn triệt, bể một cách không còn ranh giới bến bờ, không có gì để vỡ, để thấy nữa, biến mất tự lúc nào, vuột bay tự bao giờ, ở đó và ở đây, bên đó và bên nầy, bổng xóa nhòa, san bằng, đốn ngã, ủi sập tất cả.

Bài thi kệ vượt càn khôn

Thiền sư Khánh Hỷ có tác phẩm Ngộ Đạo Thi Tập, rất tiếc đã bị thất lạc, bài thi kệ dưới đây không rõ, nằm trong thi phẩm hay từ nơi khác. Bài kệ, có tám dòng, năm mươi sáu chử, mỗi chử, mỗi câu không còn là ngôn từ, chử nghĩa, nó biến thành một thứ linh dược, chất liệu quí hiếm, sự chứng nghiệm vô cùng quí báu, công năng chọc thủng màn đêm tăm tối, để cho giác ngộ vụt khởi.

Một hôm đệ tử Pháp Dung hỏi:

Thầy thấu đạt lẽ sắc không, vậy thì sắc là phàm hay thánh?

Sư bèn ứng khẩu đọc bài kệ:

Lao sinh hưu vấn sắc kiêm không

Học đạo vô qua phỏng tổ tông

Thiên ngoại mịch tâm nan địch thế

Nhân gian thực quế khởi thành tùng

Càn khôn tận thị mao đầu thượng

Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung

Đại dụng hiền tiền quyền tại thủ

Thùy tri phàm thánh dữ tây đông?

Dịch:

Kiếp trần khoan nói sắc cùng không

Học đạo gì hơn hỏi tổ tông

Tâm kiếm ngoài trời khôn định thế

Quế trồng cõi tục há đơm bông

Mảy lông chứa cả kiếp khôn rộng

Hạt cải thu gồm nhật nguyệt trong

Trước mắt nắm ngay công dụng lớn

Ai hay phàm thánh với tây đông.”

Đào Phương Bình dịch, Thơ Văn Lý Trần 1

Trong sách Thiền Sư Việt Nam, bản dịch của Thiền sư Thích Thanh Từ như sau:

Uổng công thôi hỏi sắc cùng không

Học đạo gì hơn phỏng Tổ tông

Ngoài trời tìm tâm thật khó thấy

Thế gian trồng quế đâu thành tòng

Đầu lông trùm cả càn khôn thảy

Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong

Đại dụng hiện tiền tay nắm vững

Ai phân phàm thánh với tây đông”

Trong câu “Thầy thấu đạt lẽ sắc không” Pháp Dung nói, và hỏi “vậy thì sắc là phàm hay thánh” có phải chử sắc của sắc pháp, hình thể, tướng trạng, có không? Sắc cùng không, không với sắc, không còn nằm biên độ của tâm thức, đóng khung trong thế giới tỷ lượng, đừng để thời không chi phối, không sợ vô thường tướt đoạt. Sắc là phàm hay thánh cũng chỉ là sự diễn đạt, phô bày nội tâm, trong sự chừng mực của tâm thức, nếu đã đạt được lẽ sắc không, thì chẳng thấy có phàm hay thánh, tất cả đều như nhau, bình đẳng trong giác ngộ, giải thoát. Dù nhìn, từ góc cạnh, vị trí nào thì cơ duyên đối đáp, cũng đã khiến cho Thiền Sư Khánh Hỷ để lại bài thi kệ tuyệt vời, công phá thành trì mê ngộ, đánh động toàn triệt vào nơi thâm sâu, đập thật mạnh vào tận cùng tâm ý, làm thức dậy mọi tương quan, tâm pháp, sắc pháp, tạo thành sức bật khủng khiếp, thể nhập vào tận ngõ ngách, từ mọi hiện tượng, thời gian, không gian, vũ trụ, vạn hữu, cho đến những đi lại, trôi nỗi, không cùng của tâm thức.

Thánh phàm, tự nó vốn đã như thế, trong cõi tử sinh sanh diệt, nhưng trong cõi vô sinh, bất diệt thì làm gì có thánh phàm, sắc không, tức là, không là. Nếu nhìn từ góc độ nhận thức, tri kiến, so sánh thì là như vậy, nhưng ở bình diện giác ngộ, thì không có giai bậc, không có thứ lớp, không một chẳng hai, vì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, khả năng thành Phật, thánh phàm đồng cư, không có biên độ, cùng an trú, cùng chứng đắc, cùng thể nhập, bình đẳng trong tu tập giác ngộ. Vì thế, đối tượng, năng sở, giai bậc, thánh phàm không hề tồn tại, nhìn với con mắt trí tuệ, nhìn với tâm Phật, chất Phật, thì đâu đâu, chốn chốn, chúng sanh nào, con người nào, tất cả đều cùng chung một Phật tánh, đều có khả năng giác ngộ, thành Phật, điều quan trọng, giác ngộ hay không, chậm hay mau, bao giờ và lúc nào.

Trong Kinh Duy Ma Cật, một vị Bồ Tát hiện thân, một đại cư sỹ vĩ đại, sống trong đời thường, sống với cuộc đời, thường như mọi người bình thường. Nhưng nội tâm cao vút, một sự thị hiện hy hữu, tuyệt diệu, khi ngài xử dụng phương tiện khéo léo để nói pháp, khiến cho những đại đệ tử của Phật phải khiếp đảm, run sợ, hoảng kinh, không ai đủ sức đương đầu, không ai đủ năng lực trực diện, không ai nghe mà không khiếp sợ, không ai đối diện mà không run rẫy, thậm thâm vi diệu, cao sâu không lường. Trong phẩm: Bất Tư Nghì, Hòa Thượng Thích Huệ Hưng dịch, có đoạn.

Bồ Tát Duy Ma Cật nói:

“Ngài Xá Lợi Phất! Chư Phật và chư Bồ Tát có pháp "giải thoát" tên là "bất khả tư nghị". Nếu Bồ Tát trụ nơi pháp giải thoát đó, lấy núi Tu di rộng lớn nhét vào trong hột cải vẫn không thêm bớt, hình núi Tu di vẫn y nguyên, mà trời Tứ Thiên vương và Đạo Lợi thiên vương không hay không biết đã vào đấy, chỉ có những người đáng độ được mới thấy núi Tu di vào trong hột cải, đó là pháp môn "bất khả tư nghị giải thoát". Lại lấy nước bốn biển lớn cho vào trong lỗ chưn lông, không có khuấy động các loài thủy tộc như cá trạnh, ngoan đà, mà các biển lớn kia cũng vẫn y nguyên. Các loài rồng, quỉ thần, A Tu La v.v... Đều không hay không biết mình đi vào đấy, và các loài ấy cũng không có loạn động. Lại nữa, Ngài Xá Lợi Phất! Bồ Tát ở nơi pháp bất khả tư nghị giải thoát, rút lấy cõi tam thiên đại thiên thế giới nhanh như bàn tròn của thợ gốm, rồi để trong bàn tay hữu quăng ra ngoài khỏi những thế giới như số cát sông Hằng, mà chúng sanh trong đó không hay không biết mình có đi đâu, lại đem trở về chỗ cũ, mà người không biết có qua có lại, và thế giới ấy cũng vẫn y nguyên”.

Lấy núi Tu Di nhét vào trong hạt cải vẫn không thêm bớt, kéo nhật nguyệt xuống để vào trong hạt cải, vẫn bao trùm lên thời không, muôn vật. Núi tu di và hạt cải, cái vĩ đại, to lớn, cùng cực, so sánh với cái nhỏ nhất, nhưng cái nhỏ nhất, lại được cấu tạo từ hằng hà sa số những vi trần nhỏ li ti, nên cái nhỏ nhứt cũng là cái lớn nhứt, rời cái nhỏ, thì sẽ không có cái lớn, cái lớn nhứt cũng chính là cái nhỏ nhứt. Tương quan giữa con ngườivũ trụ không còn là sự bí ẩn nữa, tâm thức của con người, cao sâu thăm thẳm, trải cùng khắp, nó đuổi bắt, rượt theo tất cả, thân ngồi đây chứ tâm ở tận phương nào, lang thang từ nơi nầy đến chốn khác, xuyên qua thời gian lẫn không gian. Trong sự giác ngộ, tỉnh thức, một khi tánh thấy khởi động, thì sẽ thấy một cách tường tận, rõ ràng, như thật, xuyên suốt qua từng hiện thể, nên không thấy có nhiều hay ít, lớn hay nhỏ. Vì cái tánh thấy, là thấy cái tánh thấy, chứ không tìm cái thấy để thấy, nên cái thấy ấy nguyên vẹn nhất như, không tăng không giảm, không thêm không bớt, không lớn không nhỏ. Đầu lông trùm cả càn khôn, không gian phủ khắp đại địa, rộng lớn như sơn hà, bao la như vũ trụ, đều dung chứa tất cả, không hề khước từ đẩy xô, không còn ngần mé, biên độ, hòa nhập thành một thể, có với nhau, cùng với nhau trong sự đồng điệu, tương quan, tương hợp. Con người, một tiểu vũ trụ, tiểu vũ trụ nằm trong đại vũ trụ, đại vũ trụ vẫn không ra ngoài tiểu vũ trụ, tiểu ngã, đại ngã, cái tôi, cái của tôi, cuối cùng đều bị chi phối bởi vô thường, thành, trụ, hoại, diệt. Thời gian, đêm ngày, sáng tối, nhật nguyệt, khi ta gieo hạt mầm xuống đất, lúc hội đủ duyên, những yếu tố cần thiết, nó sẽ đâm chồi nẩy lộc, vươn lên tỏa sức sống, thời gian lẫn không gian vẫn là những hổ tương cần thiết, mà một khi phân ra, sẽ không tự tồn tại, nhưng rồi cơn lốc của vô thường sẽ cuốn đi tất cả. Một khi thấu rõ được thực tướng, thực tánh của các pháp, pháp giới, hư không, tất cả, tự nó không có vị trí nhất định, nếu không có sự liên kết của tương duyên, tương sanh, tương hợp, thì nó sẽ không là gì cả.

Làm sao đưa tâm về với chính mình, sống với mình, thấy được chính mình, từng phút giây, đừng để tâm đi hoang, đi lung tung không hẹn ngày về, nhận biết tâm rõ ràng từng sát na, thấy nó hiện hữu trong từng hơi thở nhịp sống, dõi theo không để cho nó xăng lăng chạy mất, rồi lại khổ công đi tìm, chơi trò cút bắt, nhưng cũng đừng cột nó lại, nhốt nó vào, không khéo nó vùng vẫy làm cho đứt giây, khi nó thoát ra được, ta sẽ vất vả hơn nhiều. Trên hành trình giải phóng ra ngoài mọi tương quan, vốn đã chôn kín, đè nặng ta trong những luận cứ, mang tính bày biện, chi phối, so sánh của tâm thức, nếu dùng tư tưởng “không” của Bát Nhã, kiến chiếu, hành thâm, tiếp cận, thì tất cả đều đổ sập, biến mất, rỗng suốt, tường tận, không còn ngăn ngại. Chớ phí công, tốn sức, phí lời để truy tìm chữ có và không, ‘”có thì có tự mảy may, mà không thì cả thế gian nầy cũng không” Tổ tông, gia phong, gốc gác, bản thể, là phải quay về, trở về, đi về, với chân như sẵn có, với tự tánh đang đón chờ, đi thật thong dong, về thật thong thả, thấy thật thảnh thơi.

Hai câu cuối của bài thi kệ, mới là sự trọn vẹn, chổ cùng tuyệt của giác ngộ, khi nắm được diệu dụng, thấy được một cách vẹn toàn, có được chìa khóa của giác ngộ, thì những hoạt dụng lưu xuất, những vi diệu mở ra, tỉnh thức đong đầy, không gì ngăn trở được. Một khi từ trên đỉnh cao, khi trông thấy được thực tướng của các pháp, thì sự nguyên vẹn nhất như, sẽ phủ trùm lắng đọng, không có ranh giới, bến bờ, ngần mé. Thánh phàm, đông tây, không còn phân chia, giai bậc, đồng một thể không dị biệt, cứ thế mà lưu xuất, vô tận, tuyệt cùng.

Bài thi kệ đó, lời thơ đó, vẫn mãi còn đó, vang vọng trong cõi sắc không, đêm ngày tỏa hương thơm ngát, dõi theo từng hơi thở, soi sáng từng bước ta đi. Thiền sư đó, thiền sư Khánh Hỷ, vẫn nụ cười tinh khôi hoan hỷ, đốn ngã càn khôn, dập tắt có không, ung dung rủ sạch, mĩm cười nhẹ bước, an nhiên tự tại trên mọi bến bờ.

Như Hùng

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.