Chuyện Cư Sĩ - Về Một Số Hồi Ứng... Nguyễn Kha

05/01/201112:00 SA(Xem: 49308)
Chuyện Cư Sĩ - Về Một Số Hồi Ứng... Nguyễn Kha

CHUYỆN CƯ SĨ - VỀ MỘT SỐ HỒI ỨNG...
Nguyễn Kha

Vài lời thưa trước

Sau khi viết bài “Nhân “Ngày tàn của Phật giáo”, góp ý thêm về chuyện Cư sĩ ở nước ta.” (từ nay xin gọi bài nầy là “bài viết” cho gọn) và gửi đăng ở hai trang nhà Phật tử Việt Nam ở trong nước, và Thư viện Hoa sen ở ngoài nước, rồi được ba trang nhà khác của cư sĩ ở hải ngoại (Giao Điểm, Chuyễn Luân và Sách Hiếm) đăng lại, độc giả nào cũng sẽ thấy dù bài viết khởi đi từ cuốn cẩm nang cải đạo của Tin Lành và những nhận định của ông Minh Ngọc, nhưng đó không phải là lý do chính. Lý do chính là vì, theo người viết, Phật giáo Việt Nam nói chung và Giáo hội nói riêng, đang đối diện với tình trạng mà trong đó thành phần Cư sĩ bị thiểu dụng (underused) và nhiễu dụng (misused) trong chiến lược phát triển của Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay.

Nhận định nầy không phải tự nhiên mà có, dù ba bài viết / ý kiến cá nhân của quý ông Minh Ngọc, Ngô Đôn Uy.  và Vũ Hồng Hoa.  cũng đã phần nào xác nhận tình trạng đó. Thật ra, bài viết đó được thành hình từ những trăn trở, và sau đó là một số suy tư nghiêm chỉnh, không những của riêng người viết mà còn của một số Thầy và đạo hữu khác trong những lần tiếp cận sau đây. Xin … thành thật khai báo:

- Ngay sau khi Hội thảo khoa học “Phật giáo trong thời đại mới - Cơ hội và Thách thức. tại Tp HCM vào tháng 7 năm 2006 bế mạc, người viết có tham dự một buổi họp khoảng 4 tiếng đồng hồ của hơn 50 nam nữ cư sĩ trong và ngoài nước tại chùa Từ Tân ở (Tp HCM) để thảo luận nhiều đề tài, trong đó có đề tài vai trò của cư sĩ,.

- Tháp tùng chuyến đi khảo sát xuyên Việt của 4 cư sĩ, thăm viếng 26 chùa thuộc 15 tỉnh thành và tiếp xúc với gần 300 Thầy Cô và hơn 60 cư sĩ vào tháng 11 năm 2006, người viết cũng đã được thảo luận rốt ráo đề tài vai trò của cư sĩ với các đạo hữu địa phương, nhất là tại Huế, Đà Nẵng và Tp HCM. (Xin đọc bài “Ngỗn ngang Trăm mối Tơ vò.” của cùng tác giả trên tạp chí Văn hoá Phật giáo phát hành tháng 12/2006)

- Người viết đã có dịp trao đổi với một số quý Thầy và quý vị Cư sĩ, với tư cách cá nhân, trong hai ban biên tập của tạp chí Giác Ngộ và Văn hóa Phật giáo, và hai nhà nghiên cứu ở Ban Tôn giáo Viện Nghiên cứu Tôn giáo tại Hà Nội, về đề tài nầy trong hai năm 2006 và 2007.

- Và dĩ nhiên là nhiều trao đổi rời rạc với một số quý Thầy Cô và Cư sĩ nhân một số bài viết (như bài vừa qua) được đăng trên các cơ quan truyền thông của Phật giáo trong và ngoài nước.

Kể ra 4 “cơ duyên” đó, người viết chỉ muốn nói rõ ba điều: (i) Thứ nhất: đề tài “cư sĩ” vốn là mối quan tâm của người viết và một số đạo hữu từ ba năm qua. Lúc đầu với nhiều xúc động, nhưng sau đó là thuần lý trí; (ii) Thứ nhì là vì không tìm đâu được những công trình nghiên cứu quy mô về đề tài nầy (vì chưa có hay có mà không truy cập được), nên người viết phải chủ yếu dựa vào thông tin từ bốn sinh hoạt trên để làm cơ sở, dù biết là chưa đủ để định lượng và định phẩm đối tượng khảo sát; và (iii) Thứ ba là càng để tâm nghiên cứu, người viết càng thấy khó khăn về mặt tài liệu, càng thấy phức tạp về mặt xây dựng hệ thống lý luận, và càng thấy “giải pháp” (nếu thật sự chúng ta muốn có một giải pháp) cho “vấn nạn” cư sĩ Việt Nam, dù chỉ trên mặt lý thuyết, thật khó lắm . Thật ra, nỗ lực nầy phải do một Ủy ban nghiên cứu chuyên ngành và đa ngành ở cấp độ nhà nước hay Trung ương Giáo hội chuyên lo. Và những thảo luận như thế nầy giữa chúng ta sẽ chỉ là các “dữ liệu sống” và cần thiết cho Ủy ban đó sử dụng sau nầy.

Nói nôm na, con có khóc Mẹ mới cho bú. Cho nên chúng ta hãy nỗ lực cùng … “khóc” với nhau ! Còn chuyện Mẹ có nghe để cho bú hay không lại là một vấn đề khác. Hoàn toàn khác !
 
Suy nghĩ về các Hồi ứng

Cho đến khi viết bài nầy, ngoài những trao đổi riêng tư trực tiếp hay bằng email và/hoặc điện thoại, có ba vị đã lên tiếng trên web Phật tử Việt Nam nhân đọc bài viết. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn và xin … bàn thêm (chử màu xanh trong dấu ngoặc đứng […]):

1-Ông Ngô Đôn Uy . (Tp HCM) 

Trước hết, tôi muốn Ban biên tập trang Website này, Quý Thầy hãy tổng hợp các bài góp ý lại gởi trực tiếp đến GH Phật Giáo VN. Muốn làm tốt điều gì thì phải bộ máy từ trung ương, tỉnh thành đến địa phương sau cùng, cũng giống như" Ông bà tốt, cha mẹ tốt thì con cái ắt hẳn sẽ tốt theo"....

Tôi rất muốn nghe Đức Pháp Chủ GHPGVN trả lời cho toàn thể Phật tử VN về những vấn đề góp ý của Phật giáo VN hiện nay để từ đó hơn 10 triệu người con của Phật sẽ bổ sung thêm ý kiến cho GHPG ngày càng hưng thịnh hơn…

[Xin hoan nghênh hai đề nghị của ông cho Ban Biên tập. Rất cụ thể nhưng theo tôi thì khó thực hiện, và ngay cả thực hiện được cũng chưa chắc có hiệu quả. Tại vì tôi đoán Website Phật tử Việt Nam là một diễn đàn quan trọng mà một số quý Thầy chắc có đọc, nghĩa là cũng đã biết những góp ý của Phật tử rồi. Nhưng theo ông thì quý Thầy có sẽ thành lập một bộ phận để nghiên cứu những góp ý đề nghị đó không ? Và nghiên cứu xong thì có triển khai thành phương án đối phó không ?

Bắt ý của ông, tôi lại muốn đề nghị với Ban Biên tập các Websites một động thái khác: Thiết kế một chuyên mục, ví dụ “Góp ý với Giáo hội”, để đăng tải những ý kiến của Phật tử. Chuyên mục nầy là một kênh đối thoại, nếu định kỳ và trực tuyến thì càng tốt, với Trung ương Giáo hội, và có một điểm kỹ thuật đặc biệt là sau mỗi ý kiến đăng tải, có hiển thị số ngày từ khi đăng cho đến khi có phản hồi từ Giáo hội. Số ngày đó sẽ là thước đo, ít nhất trên mặt thời gian, xem Giáo hội quan tâm đến ý kiến của Phật tử đến mức nào. Ví dụ: Trả lời ngay trong 1 ngày là Cực tốt, trong một tuần là Rất tốt, trong 2 – 3 tuần là Tốt, sau 4 tuần là Chấp nhận được, sau 6 tuần là Xấu, sau 8 tuần là Rất xấu. Còn không bao giờ trả lời thì … miễn bàn] 

2- Ông Vũ Hồng Hoa. (Thừa Thiên - Huế) 

Thế thì Giáo hội đã thấy tiềm năng to lớn ở lực lượng cư sĩ chưa, và đã có biện pháp gì để tận dụng và phát huy tiềm năng to lớn ở cư sĩ?

Đáng tiếc câu trả lời là chưa. Giáo hội vẫn như một ốc đảo của quý thầy, nhưng đó không phải là ốc đảo của sự hội tụ và năng lực tâm linh. Đó chỉ là ốc đảo của hành chính rời rạc, lỏng lẻo. Đó chỉ là ốc đảo của hình thức ban bệ. 

[Xin góp ý thêm: Theo tôi, một trong nhiều lý giải cho “câu trả lời là chưa” là tại vì cấp lãnh đạo Giáo hội có vẽ như chưa có một viễn kíến vĩ mô thực tế trong một số lãnh vực, do đó không có một chiến lược đường dài cho Giáo hội trong lãnh vực đó. Mà không có chiến lược đường dài thì làm sao có kế hoạch nhân dụng tương ứng để “tận dụng và phát huy tiềm năng to lớn ở cư sĩ” ? Có bao giờ ông thử hỏi quý Thầy trong cấp lãnh đạo Giáo hội xem 10 năm nữa, 20 năm nữa, cụ thể Phật giáo ta sẽ như thế nào, và đứng ở đâu trong quy trình phát triễn, để xem quý Thầy đó trả lời thế nào ?

Xin minh họa bằng một ví dụ: 

- Viễn kiến là trong 10 năm nữa, Phật giáo sẽ thể hiện lý tưởng nhập thếbồ tát đạo của mình bằng cách đồng hành với dân tộc trong lãnh vực y tế công cọng. 
- Chiến lược là trong nhiệm kỳ 2007-2012, huy động và phối hợp 4 trong tổng số 9 Ban của Trung ương Giáo hội làm chủ lực, phát huy các quan hệ quốc tế để tìm yểm trợvận động các nguồn lực nhà nước làm phụ lực. 
- Kế hoạch xây dựng 20 nhà thương và phòng phát thuốc của Phật giáo trên 20 tỉnh thị lớn. Kế hoạch nầy đòi hỏi triển khai 24 dự án y tế công cọng của Phật giáo

Trong mô hình 4 tầng đó (Viễn kiến, Chiến lược, Kế hoạch, Dự án), 3 tầng sau đòi hỏi sự tham dự của một số chuyên gia mà chủ yếu nằm trong giới cư sĩ: Bác sĩ, Dược sĩ, chuyên viên Hành chánh, Quan hệ quốc tế, Quản lý nhà thương, Quản lý dự án, Xây cất, v.v… Nhưng nếu từ ban đầu đã không có viễn kiến thì chuyện tận dụng và phát huy tiềm năng to lớncư sĩ của 3 tầng sau đó, làm sao xảy ra được. Lẽ dĩ nhiên không phải không có các ban Trị sự Thành/Tỉnh hội, hay thậm chí các chùa, thực hiện những dự án xây nhà thương, nhưng điều chúng ta muốn nói là những kế hoạch lớn ở tầm mức quốc gia để huy động tổng lực tập thể cư sĩ trong chiều kích đó]

Theo tôi, không sớm thì muộn, nếu không muốn bị tụt hậu, đào thải hoặc bỏ rơi, Giáo hội nên có những giải pháp cụ thể. Dưới đây là một số gợi ý:

- Nên thành lập một Hội đồng tư vấn, với các ban tương ứng với các ban của Giáo hội. Hội đồng này tập hợp các cư sĩ và không cư sĩ, có khả năng tương ứng với các lĩnh vực hoạt động của Giáo hội. Hội đồng này sẽ làm việc trực tiếp với các ban ngành của Giáo hội, và do văn phòng Giáo hội hỗ trợ hoạt động.

- Đa dạng hóa các hình thức sinh hoạt của Phật tử, không đặt nặng vào tổ chức, mà đặt nặng vào hình thức sinh hoạt, khả năng kết nối. 

[Trước Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VI tại Hà Nội vào cuối năm 2007, trong khuôn khổ tu chỉnh Hiến chương, người viết đã được đọc một bản đề nghị 55 điểm của nhóm cư sĩ Sen Vàng gửi cho Giáo hội, trong đó có đề nghị thành lập một Hội đồng Tư vấn gần giống như ý kiến của ông nói trên. Không những một Hội đồng Tư vấn Trung ương (có sự hiện diện của Cư sĩ) cho Hội đồng Trị sự Trung ương, mà còn thêm một Ùy ban Điều phối Công tác Phật sự giữa các Ban ngành (cũng có sự hiện diện của Cư sĩ) nhưng rốt cuộc thì đều bị bác.

Cũng xin cho ông biết luôn, trong 55 đề nghị tu chính đó, chỉ có 3 điều được chấp thuận mà 2 điều đã là Đạo kỳ và Đạo ca rồi ! Chỉ “thương” cho quý vị cư sĩ trong nhóm Sen Vàng mang hết tâm huyết trong hai tháng, hình thành được một bản đề nghị công phu, nhưng rồi … gửi gió cho mây ngàn bay ! Rảnh rỗi, ông so sánh hai bản Hiến chương cũ và mới thì sẽ thấy sau 5 năm, trong khi xã hội thay đổi, con người thay đổi, do đó tư duy và ứng xử của Phật tử cũng đã thay đổi nhiều, thế mà Hiến chương của ta thì gần như … vũ như cẫn ! (Lại nếu rảnh rỗi, xin xem thêm phần phân tích của tài liệu55 Đề nghị Tu chỉnh Hiến chương” của nhóm Sen Vàng)

Đề nghị thứ hai của ông về việc “Đa dạng hóa các hình thức sinh hoạt của Phật tử, không đặt nặng vào tổ chức, mà đặt nặng vào hình thức sinh hoạt, khả năng kết nối.” theo tôi là rất mới, có tính đột phá cao. Nhưng có thể sẽ rất khó về mặt quản lývận hành. Xin đề nghị ông nghiên cứu viết một bài triễn khai mô thức nầy.] cũng không

3- Ông Như Bình. (Thừa Thiên - Huế) 

Ông Như Bình góp ý bằng một bài viết tương đối dài, có những ý kiến phản biện rốt ráo, nên cũng xin trả lời hơi dài một chút. Đồng thời cũng để nói rõ hơn những đoạn mà có lẽ người viết trình bày chưa được đầy đủ chăng.

Về luận điểm thứ nhất, xin ông cho biết trong số 17 vạn cư sỹ mà ông đơn cử, có bao nhiêu cư sỹ hiểu (tri), thực tập (hành), và trọn đời cống hiếnđiều kiện như các cụ Tuệ Trung Thượng Sỹ, Lê Đình Thám, Thiều Chửu? [Từ giáo hội cho đến nhà nước cho đến các định chế nghiên cứu hoặc tư nhân, có lẽ không ai có thể trả lời được câu hỏi nầy. Mà theo tôi, có lẽ những cư sĩ nếu đã giống như ba nầy, thì họ cũng không cần chúng ta đi kiếm. Tại vì tâm lượngPhật sự của họ sẽ được đời sau làm hiễn lộ ra thôi. Ông tự đặt ra một câu hỏi mà không ai trả lời được vì, theo tôi biết, cho đến nay chưa có ai/cơ quan nào tiến hành một cuộc nghiên cứu 10 triệu Phật tử, hay … 17 vạn cư sĩ, để trả lời được câu hỏi đó cả - Đây là một câu hỏi ngoài đề vì 3 vị ấy tuy là những cư sĩ kiệt xuất, là những biểu tượng hứng khởi cho các thế hệ cư sĩ tương lai, nhưng họ đã không thành công trong việc xây dựng một “tập thể” cư sĩ quy mô, do đó 3 vị nầy không phải là đối tượng chính của bài viết – Xin xem thêm Nhận xét chung ở dưới] trong 17 vạn cư sỹ ấy thì có đến 99% trong số họ phải bận bịu lo cho gia đình vợ con từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối thế thì họ có bao nhiêu thời gian để hộ trì Tam Bảo? [cũng không ai biết được con số 99% có chính xác hay không vì lý do như trên, trừ ra ông Như Bình có tài liệu thì xin chia sẽ với bạn đọc. Đây là một phát biểu cảm tính chứ không phải là một dữ liệu có cơ sở] 

[Nhận xét chung: Khi bài viết nhắc đến ba vị nầy, người đọc bình thường (và bình tỉnh !) sẽ thấy rằng người viết không nhắc đến ba vị nầy để định chuẩn người Cư sĩ, mà chỉ muốn dùng hình bóng của họ như một biểu tương sáng chói để hướng đến. Do đó , người viết không liệt kê mà đã cẩn thận dùng từ “xin hỏi cụ …” nhưng có vẽ như ông Như Bình đọc nhanh quá nên không thấy cái ý nầy. Ngoài ra, trong khi chờ đợi một định nghĩa chính thứcmọi người đa số đều đồng ý, cho bài viết (và chỉ cho bài viết đó mà thôi), người viết đã cẩn thận đưa ra hai mô tả về đối tượng cư sĩ cho bài viết là: (i) “những Phật tử thuộc mọi thành phần và đẳng cấp xã hội, sống chết với đạo, không gọi cũng đến, không bảo cũng làm” , và (ii) “rất đạo nhưng cũng rất đời, tương đối hoàn chỉnh trên cả hai mặt đạo lẫn đời”. Với hai mô tả nầy, hẳn ông Như Bình cũng thấy người viết đã cẩn thận khoanh vùng trong một “tập thể” nhất định cho bài viết của mình, chứ không chỉ giới hạn trong khuôn mẫu ba vị tiền bối hay mở rộng ra cho tất cả Phật tử “phải bận bịu lo cho gia đình vợ con từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối thế thì họ có bao nhiêu thời gian để hộ trì Tam Bảo” như cách ông Như Bình muốn hiểu. 

Lẽ dĩ nhiên, nếu ông Như Bình hay bất cứ bạn đọc/cơ quan nào có được định nghĩa (từ “Cư sĩ”) khác chuẩn xác hơn và xác định được số lượng cư sĩ theo định nghĩa đó là bao nhiêu thì quý hóa quá , xin công bố để chúng ta có dữ liệu làm việc. (Cuốn Cẩm nang Cư sĩ. của đạo hữu Tâm Diệu, nhà xuất bản Phương Đông, 2008, có đưa ra một số khái niệm để mô tả người Cư sĩ mà có lẽ chúng tathể tham khảo để làm cơ sở nghiên cứu.)]
Xin ông vui lòng chỉ cho biết truyền thống nào là “lỗi thời, phi chính pháp và gây nhiều bất cập”?

[Câu nầy phải trích nguyên văn chứ không thể chặt khúc một cách vô … duyên như vậy, nếu không thì sẽ mất ngữ cảnh (out of context): “Vã lại, ngay cả có một truyền thống như thế chăng nữa, thì trong ba tạng kinh điển, có điều nào cấm chúng ta từ bỏ một truyền thống đã lỗi thời, phi chánh pháp và gây nhiều bất cập không ?” Câu nầy là phần phản diện, và cụm trạng từ “ngay cả… chăng nữa” biểu diễn một điều kiện cách (mode conditionnel) trong tiểu mục “Truyền thống của PGVN là như thế” (tức là như “tình trạng khiếm diện nầy của tập thể cư sĩ”). 

Nếu ông Như Bình nắm vững được hai khái niệm “phản diện” và “điều kiện cách” trong cấu trúc của một câu văn, thì ông sẽ thấy hai điều: (i) Ba tạng kinh điển của Phật giáo không có phần nào đề cập đến một truyền thống thiết kế và xây dựng các định chế có tổ chức (organized institution) như mô thức của Giáo hội ở thế kỷ thứ 21 cả (với hiến chương, điều lệ, cơ cấu tổ chức, bầu cử, …). 

Do đó, ví dụ bây giờ ta phải đối diện với một truyền thống như thế trong hiện thực, thì nếu có phê phán và “từ bỏ” nó cũng không vi phạm lời dạy trong ba tạng kinh điển; và (ii) Nhưng ngay cả trong lịch sử Phật giáo Việt Nam có một truyền thống quản lý như thế, và đã có như thế trong các thời đại phong kiến [Xin xem thêm Việt Nam Phật giáo Sử Lược (1943) của Thầy Mật Thể], thì: 

- Truyền thống quản lý “phi-tập thể Cư sĩ” đó “lỗi thời. Vì ở thế kỹ thứ 21, thế kỹ của hội nhập với bên ngoài và xã hội hóa trên đất nước Việt Nam, không tổ chức tôn giáo-xã hội nào có thể tồn tại bền vững được khi mà chỉ chủ yếu sử dụng ¼ lực lượng nhân sự của mình để xử lý những sinh hoạt càng lúc càng phức tạp, càng lúc càng đòi hỏi kỹ năng chuyên môn cao. Hai trong những thuộc tính của thời đại chúng ta là tính tổ chức cao của xã hội và tính quản lý các mô hình phức tạp.

- Truyền thống quản lý “phi- tập thể Cư sĩ” đó “phi chánh pháp”. Vì bình đẳng là một trong những thuộc tính đặc sắc của giáo lý của Đức Phật mà các Tổ cũng thường dạy (chúng sanh là Phật sẽ thành, Phật không Bắc không Nam). Đó là nói về con đường chứng ngộ, huống gì vận dụng tính bình đẳng đó vào vấn đề quản lý một tổ chức chung (Xin ông Như Bình lưu ý về hai ý niệm bình đẳng (equality) và bình quyền (equal right) trong quản lý để nắm vững ý của người viết). Do đó, phi bình đẳng là phi chánh pháp

- Truyền thống quản lý “phi- tập thể Cư sĩ” đó sẽ “gây nhiều bất cập”. Không gì rõ bằng nhìn vào tình hình Phật giáo hiện nay nói chung, và tình hình cư sĩ nói riêng xem có hay không nhiều điều chúng ta muốn làm mà không làm được (bất cập), hoặc làm được nhưng không có hiệu quả tối đa. Không nói đâu xa, cứ đọc ngay bài của ông Minh Ngọc và hai phát biểu của ông Ngô Đôn Uy và Vũ Hồng Hoa. Ngoài ra, xin đan cử một vài “bất cập” khác mà Giáo hội ta còn chưa làm được dù đã 25 năm trôi qua: Một trang Web chính thức cho Giáo hội, một hệ thống intranet nối trung ương Giáo hội với cơ sở địa phương, một con số thống kê xã hội học về thành phần cư sĩ, một tổ hợp ngân hàng Phật giáo, một hệ thống nhà thương của Phật giáo, một đại học có khuynh hướng Phật giáo … những chuyện mà 25 năm rồi, nếu “tập thể” cư sĩ được huy động đúng đắn thì Giáo hội nếu chưa thực hiện được thì ít nhất cũng đã có những công trình nghiên cứu sẳn sàng để triễn khai khi cần.

Cho câu trả lời nầy, cũng như những câu sau về bài viết, xin ông Như Bình cẩn thận phân biệt bốn cặp phạm trù mà chắc ông đã biết rõ: Giáo phápTruyền thống, Tăng đoànGiáo hội, Các chùa và Giáo hội, Cá nhân các cư sĩTập thể cư sĩ.] 

Về luận điểm thứ hai, Phật dạy rằng: “Quá khứ không truy tìm. Tương lai không ước vọng. Chỉ có pháp hiện nay. Tuệ quán chính ở đây…” [Để tu và hành thì đúng rồi, ta cứ theo lời Phật dạy là chắc ăn. Nhưng để định hướng phát triển, vạch chánh sách, triễn khai dự án, quản lý 5 thành tố cấu thành của một tổ chức như Giáo hội ta, quan hệ đến bạc tỹ và 10 triệu Phật tử, trong sự vận hành của một xã hội như nước ta thì tôi sợ … hỏng to !] 

Làm gì mà ông phải bận tâm đoán già đoàn non tương lai chính trị VN vậy? Ông có phải là Ủy viên Bộ Chính Trị đâu để có thể hoạch định tương lai chính trị VN?

[Xin trả lời ngay rằng tôi không phải là Ủy viên Bộ Chính trị dù … muốn lắm. Mà còn muốn làm cả Tổng Bí thư nữa cơ ! Để trong khả năng của mình và điều kiện của đất nước, với tư thế đó, giúp chút ít gì được cho Phật giáo mình.
Tuy nhiên, ông nói đúng phần đầu: Tôi rất (nhấn mạnh chử “rất”) quan tâm đến tương lai chính trị Việt Nam vừa như là một Phật tử vừa như là một người Việt bình thường. Vì hai lý do: (i) Phật giáo “đồng hành” với dân tộc mà không nghiên cứu xem Bộ chính trị dẫn dân tộc đi đâu trong tương lai thì coi chừng Dân tộc đi một đàng, Phật giáo ta lại đi một nẽo; và (ii) Như một người Việt có trách nhiệm, tôi có bổn phận “đoán già đoán non” tương lai chính trị VN trước hết là để chuẩn bị tồn tại trong tương lai đó, còn ngoài ra nếu có thể đóng góp ý kiến với Nhà nước về phương hướng và lộ trình phát triễn của đất nước thì có gì là sai trái. Dân nghĩ dân bàn mà ! Không những ngồi ngoài “bàn” như tôi mà Phật giáo ta còn có Thầy làm Đại biểu trong Quốc hội nữa đấy

Nhưng điều người viết muốn nói là chuyện “đoán già đoán non” không phải là và không nên là chuyện của quý Thầy, vốn chỉ có hại cho con đường tu và hành mà thôi. Quý Thầy không nên biết nhưng tổ chức Giáo hội thì lại phải biết. Không cần phải biết hết mà chỉ cần biết những lãnh vực nào liên quan đến Phật giáo mà thôi (ví dụ chính sách quốc phòng thì không nên biết nhưng chính sách tôn giáo thì phải nghiên cứu cho kỹ) nên trong bài viết, tôi đã cổ xúy là dành phần vụ nầy cho các cư sĩ. Vả lại, không phải chỉ cư sĩ Phật giáo mà thôi đâu, ông Như Bình cứ chịu khó đọc sách báo ngoài đời và vào các trang Web, nhất là các Web nghiên cứu (kể cả của Phật giáo chúng ta và) của các tôn giáo khác, của các định chế kinh tế tài chánh, của các tổ chức xã hội, v.v… người ta đều “đoán già đoán non” đầy ra đấy. Tại vì người ta không muốn bị “lỗi thời” và “bất cập” ! 

Một chi tiết nhỏ trong câu “để có thể hoạch định tương lai chính trị VN?” lại chứng tỏ ông Như Bình đọc … quá nhanh! Trong câu “Những đột phá và khai mở về mặt chính sách, kể cả chính sách tôn giáo nói chung và đối với Phật giáo nói riêng của chính phủ, trong tiến trình phát triển đất nước để hội nhập vào cộng đồng thế giới trong thập niên vừa qua, đã cho thấy giới lãnh đạo Việt Nam đang chủ động cỡi lên một xu thếchính trị - kinh tế sẽ làm thay đổi cấu trúc xã hội nước ta, trong đó một xã hội dân sự chắc chắn sẽ thành hình, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức dân sự”, ở đâu hàm ý rằng người viết muốn “hoạch định tương lai chính trị VN” ? Người viết chỉ mô tả một xu thế mà thôi (chứ không ngồi “hoạch định”, vốn là chuyện của Nhà nước), và xu thế đó người viết căn cứ vào những thay đổi vừa vĩ mô vừa vi mô của xã hội Việt Nam trong hơn 10 năm qua. 

Điều người viết mong ông hỏi là những đặc tính của xu thế đó là gì , và tại sao xu thế đó lại khai sinh ra một xã hội dân sự, tạo tiền đề cho sự hình thành các tổ chức dân sự (như “tập thể” cư sĩ), thì ông lại không hỏi ? Đây là một đề tài cực kỳ lý thú, và quan trọng, nhưng vì ông không hỏi nên xin … miễn trả lời.] 
 
Về luận điểm thứ ba, có thể nói trong ba luận điểm mà ông trình bày thì đây là luận điểm mù mờ nhất của ông. Nó vừa phản ánh thiếu trung thực tâm lý tốt đẹp của cư sỹ VN, lại vừa nêu ra sự mâu thuẫn giữa lý tưởng cống hiếntâm lý háo danh. Phải chăng cư sĩ phải được hưởng quyền, danh, và lợi, chứ không phải “sống như một cái bóng mờ trong sinh hoạt nhà chùa … và khép nép núp sau những bộ tăng bào”, nghĩa là phải “có thực mới vực được đạo” và cư sỹ cũng phải hưởng quyền, lợi, và danh ngang hàng với tu sỹ trong một tổ chức giáo hội. Trong khi đó, chư tôn đức giáo phẩm chỉ lo phục vụ, cống hiến mà không nghĩ gì đến quyền, lợi và danh.

[Ông Như Bình lại đọc không kỹ nửa rồi. Người viết phân biệt rất rõ, mà ông không chịu thấy, hai ý niệm: Các cá nhân cư sĩ mà người viết đã mô tả là “Tuyệt đại đa số đến chùa làm Phật sự, nhiệt tình hoạt động trong các công tác nghi lễ hay từ thiện xã hội, tham gia hội thảo và viết những công trình nghiên cứu, … là vì ngôi chùa đó, vì đạo hạnh cá nhân vị Tăng Ni trú trì đó, vì bản chất sinh hoạt đó chứ không phải là kết quả của một chánh sách nhân dụng quy mô của Giáo hội. Tại vì không có giáo hội thì họ cũng xả thân làm Phật sự thôi.” . Và ý niệm thứ hai là “tập thể” cư sĩ như một tập hợp có tổ chức, có lãnh đạo, có một chương trình hoạt động dài hạn. 

Do đó, cho từng cá nhân cư sĩ, người viết không thấy có câu nào gây ra “mâu thuẫn nào giữa lý tưởng …” như ông viết. Ngược lại là khác, khi người viết xác định “không có giáo hội thì họ cũng xả thân làm Phật sự thôi” thì người viết đã vinh danh cái lý tưởng mà ông nhắc đến đấy chứ. Ngoài ra, khi ông đưa những khái niệm “tâm lý háo danh”, “hưởng quyền danh và lợi”, “cư sỹ cũng phải hưởng quyền, lợi và danh ngang hàng với tu sỹ”, … thì người viết không biết nói sao nữa. Xin ông Như Bình cho biết trong suốt bài viết, đọạn nào minh nhiên hay hàm ý đề cập đến những khái niệm nầy ?. Điều đáng ngạc nhiên là ngay từ đầu bài viết, khi đề cập đến ông Minh Ngọc, người viết đã bộc lộ động cơ viết bài của mình rồi mà, một lần nữa, ông Như Bình vì đọc nhanh quá, nên không chịu thấy: “Nhưng điều tôi đồng cảm nhất, do đó chia sẻ hoàn toàn, với tác giả là ông không viết vì muốn tranh đua dành dựt tín đồ với thiên hạ (đạo Phật làm gì có truyền thống đó !) mà vì, nhìn vào bức tranh nhếch nhác của Giáo hội hiện nay, ông đã vì chính Giáo hội đólo âu cho tiền đồ của Phật giáo Việt Nam.”

Cho đến lúc viết đoạn nấy, tôi thấy ông Như Bình có cái tật, không biết vì sao, là tự mình dựng ra những người rơm (không phải của bài viết) rồi đánh vào nhưng người rơm đó !]

Tiếp theo, đề cập đến ba lý do để “biện giải” cho sự cần thiết của một tập thể cư sỹ của ông, tôi xin lần lượt trao đổi với ông như sau:

Về lý do thứ nhất, ông dẫn chứng là tại các nước phương Tây, nhất là tại Mỹ, một trong những lý do chính để Phật giáo khởi sắc là nhờ họ có “giáo hội” nhẹ nhàng đơn giản, các Thầy chỉ đóng vai trò biểu tượng đạo hạnh và hướng đạo tâm linh. 

Theo tôi được biết, ở Mỹ, nhất là các chùa của người Việt, hẳn ông biết có nhiều cảnh chùa chiền tan nát, nhân tâm ly tán cũng bởi các Ban hộ tự xem các thầy như ông từ giữ chùa này? 

[Trước hết, xin ông nêu đích danh chỉ cần 20 trong số gần 400 chùa ở Mỹ (nghĩa là 5% thôi - con số 400 theo danh sách của Giáo hội Nguyên Thủy tại bang California do Thầy Giác Nhiên lãnh đạo), mà ở chùa đó quý Thầy bị ban Hộ tự xem như ông Từ giử chùa ? Ông chỉ cần cho tôi biết nhiệm vụ, quyền hạn và sinh hoạt của 20 thầy A nào đó tại 20 chùa B nào đó là đủ rồi. 

Có lẽ đến đây, tôi phải đặt vấn đề về khả năng đọc bài của ông Như Bình. Tại vì tôi cứ phải trả lời những câu hỏi vế các vấn đề mà tôi không hề viết ra, hoặc viết ra mà bị ông hiểu không đúng: Ông Như Bình ơi, tôi viết như thế nầy: “Tại các nước Tây phương, nhất là tại Mỹ, một trong những lý do chính khiến Phật giáo khởi sắc là nhờ họ có những “giáo hội” nhẹ nhàng đơn giản, các Thầy chỉ đóng vai trò biểu tượng đạo hạnh và hướng đạo tâm linh, còn hoạch định, triển khaiđiều hành tất cả các kế hoạch tu học và hoằng dương hầu hết đều do tập thể cư sĩ đảm nhiệm.” thì dù có “đọc nhanh” đến bao nhiêu ông cũng phải hiểu rằng tôi chỉ đề cập đến các giáo hội Tây phương (nhất là Mỹ) của người gốc bản địa, chứ không đề cập đến Giáo hội / chùa của người Mỹ gốc Việt Nam. Có cả trăm cuốn sách cho ông đọc về lịch sử phát triễn Mật tôngThiền tông tại Mỹ nếu ông muốn nghiên cứu.

Thật vậy, đoạn văn ở trên nhằm giới hạn đối tượng “giáo hội” Tây phương vào ba thuộc tính: (i) tính tiêu biểu (cho giáo hội Tây phương) mà giáo hội Việt Nam (ví dụ tại Mỹ) thì quá nhỏ và quá mới nên không đạt được tính tiêu biểu nầy; (ii) tính tổ chức phải “nhẹ nhàng đơn giản” mà các giáo hội Việt Nam tại Mỹ (vì hoàn cảnh lịch sử) thì không nhẹ nhàng mà cũng chẳng đơn giản; và (iii) tính khởi sắc, mà ai có theo dỏi thì cũng biết 7 giáo hội Việt Nam ngoài nước (trong đó có 5 tại Mỹ) thì, trừ trường hợp Tăng thân Làng Mai tại Pháp, đều đang phải đối diện với những vấn nạn to lớn (thậm chí có thể biến mất trong tương lai) vì điều kiện văn hóa - xã hội và kinh tế - chính trị không thuận tiện của không gian sinh hoạt bên ngoài hơn là vì mâu thuẩn nội bộ bên trong. 

Tôi đã phân biệt rõ như thế thì giáo hội/chùa Việt Nam tại nước ngoài đâu phải là đối tượng tôi đề cập đến, vậy thì ông dùng “có nhiều cảnh chùa” (Việt Nam tại Mỹ) để phản biện bài viết của tôi về vấn đề chùa Mỹ (tại Mỹ) làm gì ? Vã lại, tôi viết chuyện giáo hội chứ không nói chuyện chùa; tôi viết chuyện “tập thể” cư sĩ chứ không nói chuyện cá nhân các cư sĩ

Đó là chưa nói đến cái biết của ông về lý doở Mỹ, …chùa chiền tan nát, nhân tâm ly tán cũng bởi các Ban hộ tự xem các thầy như ông từ giữ chùa”. Nếu có tình trạng đó chăng nữa thì, theo tôi, cũng chỉ là biệt lệ, không có tính phổ quát, thì dính dáng gì và có lợi gì cho chủ đề ta đang thảo luận. Ngược lại, chỉ làm rối rắm thêm . Xin thưa riêng với ông rằng lúc tôi viết “cũng chỉ là biệt lệ” là tôi viết rất cẩn thận, có nghiên cứu hẳn hoi.] 

Ở chùa trong nước cũng vậy, ở một số những chùa trong nước không có tăng ni giữ cương vị quản lý trụ trì, cảnh “Phật sự tẻ nhạt, đìu hiu”, cảnh bè phái chia năm sẻ bảy trong Ban hộ tự, cảnh chùa rách nát vì sự mất uy tín của Ban hộ tự đối với quần chúng Phật tử là điều có thật. 

Trên thực tế, số đông Phật tử không thể đặt trọn niềm tin vào sự quản lý tài chính và chùa chiền do cư sỹ nắm giữ. Họ chỉ đặt niềm tin vào các vị thầy. [Vì là “Trên thực tế”, nên tôi cần ông minh chứng điều nầy. Nếu có tài liệu thống kê định lượng thì xin ông san sẽ với độc giả - Và cho biết ý kiến của riêng ông về hai điều: (i) Phật tử không tin sự quản lý của cư sĩ; và (ii) Phật tử chỉ tin vào sự quản lý của quý Thầy, thì tốt hay xấu cho con đường tu học của mấy Thầy nói riêng, và tốt hay xấu cho Cư sĩPhật giáo Việt Nam nói chung ?. Tuy nhiên, viết để ông suy nghĩ thôi chứ xin ông đừng trả lời !]

Về lý do thứ hai, tôi nghĩ, chẳng có thầy nào tranh giành hơn thua với Phật tử.. Sự thật, tất cả những lĩnh vực (hành chính, tài chính, nhân dụng, v.v…), hiện nay các thầy đều có thể nắm bắt và vận dụng chúng một cách linh động, uyển chuyển và sau lưng các thầy luôn có hàng tá cư sỹ chân chính âm thầm trợ lý, tham mưu cho quý thầy mà không đòi hỏi bất kỳ một quyền, lợi và danh nào

[Khi ông đặt vấn đềchẳng có Thầy nào tranh dành hơn thua với Phật tử”, thì ông lại chẳng nắm bắt được trọng điểm của bài viết vốn là chính sách quản lý nhân dụng (ở đây là cư sĩ ) của Giáo hội, chứ không phải của 1 Thầy hay 50.000 Thầy Cô nào đó. Tôi đang nói chuyện vĩ mô, chuyện chính sách … Xin ông đọc trong kích thước đó. Còn khẳng định rằng “các Thầy có thể vận dụng  …” và “sau lưng có hàng tá cư sĩ chân chính ” thì tôi lại cần có chứng liệu. Và ngay cả ông thống kê được khỏang 500 trường hợp như thế trên ba miền đất nước chăng nửa thì xin ông cho biết đó là động thái cá nhân của các “cư sĩ chân chính” hay đó là kết quả của một chính sách cho “tập thể” cư sĩ của Giáo hội.

Ngoài ra, chính vì “Sự thật, tất cả những lĩnh vực (hành chính, tài chính, nhân dụng, v.v…), hiện nay các thầy đều có thể nắm bắt và vận dụng …” mới làm cho tôi lo: Các Thầy cứ mải “vân dụng tất cả những lĩnh vực” như thế mà lại không được đào tạo bài bản thì thời giờ và “tâm” đâu mà tu học ? Thông thường, quản lý một tổ chức là quản lý 4 chử “M” và một chử “T” (Manpower, Money, Methodology, Means và Time). Quản lý cho tốt, nhất là ở cương vị lãnh đạo, để điều phối “hàng tá cư sỹ” hoặc đánh giá đúng những “tham mưu” cho hiệu quả thì mất nhiều thì giờ lắm. Trừ ra kết quả ra sao cũng được, ta không cầu tiến làm chi, vì ““tất cả đều tốt rồi, cần gì phải thay đổi” thì không còn gì phải bàn thêm nữa ! ] 

Hơn nữa, tu không có nghĩa là trốn đời, ăn bám xã hội và làm ông từ giữ chùa mà phải lăn xả vào đời “ô trọc” để cống hiến, phục vụ nhân sinh. Sự cống hiếnphục vụ nhân sinh chính là thước đo khả năng tu tập, và hạnh nguyện độ tha bên trong của người tu sỹ Phật giáo. Còn nếu chỉ làm “biểu tượng đạo hạnh” để cho thiên hạ nói sao nghe vậy, gọi dạ bảo vâng, thì có lẽ PGVN chắc cũng tiêu vong từ lâu rồi. 

[Tôi không phản đối chuyện quý Thầy “phải lăn xả vào đời “ô trọc” để cống hiến, phục vụ nhân sinh”. Tôi chỉ (i) ngại cho chuyện tu và hành của các Thầy không biết đã đủ nội lực sung mãnđạo hạnh vững chắc chưa mà phải ngày nầy qua ngày khác tính toán tiền bạc, phải chung đụng với các cô các bà, phải dự tiệc ngon đi xe láng, phải bận tâm lo nghĩ chuyện được mất hơn thua… và (ii) trong khi đó thì đã có một lực lượng có tay nghề giỏi hơn, chuyện tu hành cũng không mong được giải thoát trong kiếp nầy, lại sẳn sàng “lăn xã vào đời” cho quý Thầy, mà quý Thầy lại không sử dụng thì … lạ thật ! Và đó là hai điều tôi đã viết khi đề cập đến một chính sách phân bố nhân dụng hợp lý.

Ngoài ra, khi ông quy kết “chỉ làm “biểu tượng đạo hạnh để cho thiên hạ nói sao nghe vậy, gọi dạ bảo vâng” như một động lực của mô hình phân bố nhân dụng của các giáo hội tại Mỹ là chuyện ông dựng người rơm ra mà đánh cho sướng tay thôi. Xã hội Mỹ, ngay từ 5 tuổi cắp sách lần đầu tiên đến trường, đã không có thứ văn hóa “nói sao nghe vậy, gọi dạ bảo vâng”, huống gì trong lãnh vực đạo đứcđạo hạnh. Nói chung, tại Mỹ, hai lãnh vực nội dung hoằng phápquản lý sinh hoạt hoằng pháp được phân định khá rỏ ràng. Các Thầy Tây Tạng, Miến Điện, Tích Lan … bằng chính đời sống gương mẫu đầy phẩm hạnh của quý ngài, trước hết đã là những “biểu tương đạo hạnh” lôi cuốn người Mỹ đến với đạo Phật trước khi những người nầy thấm nhuần Phật pháp. Từ đó, quý Phật tử Mỹ nầy đã chủ động quyên góp tiền bạc, tiến hành các kế hoạch kinh tài và truyền thông để xây chùa xây đại học Phật giáo, tổ chức các buổi giảng pháp, ấn tống và phổ biến kinh sách.

Về lý do thứ ba, Đức Phật khuyên rằng tứ chúng đồng TU chứ không phải tứ chúng đồng LÃNH ĐẠO, đồng QUẢN LÝ. Trước hết, cư sĩ nên “đòi” đồng TU thì có lẽ thích hợp hơn là “đòi” đồng LÃNH ĐẠO, đồng QUẢN LÝ. Bởi vì đòi đồng lãnh đạođồng quản lý thì quả thật, quần chúng Phật tử khó mà tin cậy

[Đúng là Đức Phật đã dạy “Tứ chúng đồng tu”, và cư sĩ (cũng như Tăng Ni) nên “đòi” đồng tu, nhưng đó không phải là những đề nghị trong bài viết của tôi. Những đề nghị trong bài viết của tôi hàm ý rằng ngoài nguyên tắc Lục hòa, Đức Phậtgiáo pháp của Ngài không nói gì đến chuyện làm sao quản lý một giáo hội của thế kỹ thứ 21, vốn là sản phẩm đặc thù của chính chúng ta, được vận hành trong một Hiến chương (với những điều khoản chặt chẻ về bầu bán, về tiền bạc, về tổ chức ban ngành, về quan hệ quốc tế, về quy định quản lý tài sản, …). Cho nên một khi tứ chúng đó đồng thuận cùng hiện diện trong một tổ chức vừa đạo vừa đời đó của thế kỹ thứ 21, lấy Hiến chương làm một “khế ước”, thì ngoài nguyên tắc “tứ chứng đồng tu” trong các sinh hoạt đạo, tứ chúng còn cần có một hệ thống vận hành tổ chức đó nữa. Xin hỏi ông Như Bình trong Hiến chương 12 chương 52 điều của Giáo hội, có bao nhiêu điều quy định vấn đề “đồng tu” và bao nhiêu điều quy định vấn đề “lãnh đạo” và “quản lý”?] 

Vài lời trao đổi với ông để cùng suy nghĩ thêm về vai trò của người cư sĩ trong Giáo hội nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung. [Tôi cũng rất mong ngoài quý vị cư sĩ, quý Thầy Cô cũng tham gia phát biểu về chủ đề nầy. Ngoài ra, riêng với Trang chủ các trang Web, từ nay tôi xin một đặc ân là dành quyền không trả lời những hồi ứng nào mà tôi thấy tác giả … đọc nhanh quá ]

Lời nhắn nhủ của một vị Thầy

[Xin trích đăng đoạn mở đầu của phần “Thay Lời Tựa” trong tác phẩmCẩm nang Người Cư sĩ để chấm dứt bài viết nầy:

“Trong một bài pháp thuyết giảng tại Mã Lai, Thượng tọa Sayadaw U Sumana cho biết Phật giáotôn giáo có số lượng tín đồ ít oi nhất trong bốn tôn giáo lớn trên thế giớicảnh giác rằng: “Phật giáo hiện nay được thí dụ như là một con cá trong hồ nước cạn và nước sẽ tiếp tục bốc hơi nếu không có cây che mát hồ để tránh đi ánh nắng nóng bỏng của mặt trời. Con cá đó sẽ cố gắng tiếp tục sống với cái hy vọng là cơn mưa sẽ đến, nếu như cơn mưa đến kịp lúc thì cá sẽ sống cho đến khi mãn kiếp. Những người Phật tử thông thường được ví như là cơn mưa làm cho hồ nước được đầy trở lại, và do vậy mà Phật giáo được tồn tại dưới sự bảo tồn của Phật tử”.

Những người “Phật tử thông thường” mà Hoà thượng Sayadaw nói đến chính là những người học Phật tại gia. Hòa thượng muốn nhấn mạnh đến vai trò của giới cư sĩ trong tình thế hiện nay…”

Là một Tăng sĩ Á châu, giảng dạy và nghiên cứu Phật giáo Á châu, hẳn Ngài Sayadaw cũng hiểu được vì sao Phật giáo Nhật Bản tàn lụi, vì sao Phật giáo Hàn Quốc co cụm từ 80% xuống còn 30% tổng dân số. Lời cảnh báo của Ngài rõ ràng như thế, Phật tử Việt Nam chúng ta nghĩ sao ?]

Nguyễn Kha
8/2008
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
20/07/2018(Xem: 7124)
06/06/2019(Xem: 13873)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.