(大悲) Phạm,Pàli:Mahàkaruna. Bi nghĩa là
thương xót và cứu giúp. Chư Phật và
Bồ tát không nỡ thấy
chúng sinh đau khổ nên
mở lòng thương rộng lớn cứu vớt. Theo
Hữu bộ Tiểu thừa thì
Đại bi là một trong 18 pháp
bất cộng, còn theo
tông Pháp tướng Đại thừa thì là một trong 140 pháp
bất cộng. Cũng có thuyết cho
Đại bi là một trong
bốn tâm Vô lượng, như 10 tâm
đại bi nói trong
kinh Hoa nghiêm và 32 tâm
đại bi nói trong kinh Bảo vũ.
Ngoài ra,
Đại bi thường được dùng song song với
Đại từ mà
phổ thông nhất là để
biểu thị lòng từ bi của
bồ tát Quan thế âm. Nhưng, về danh từ
đại bi các kinh
giải thích có hơi khác nhau. I. Theo thuyết của
Tiểu thừa: Luận Đại
tì bà sa quyển 31, quyển 38,
luận Câu xá quyển 27 cho rằng,
Đại bi là trí
thế tục của
Phật duyên với tất cả
hữu tình trong
ba cõi mà khởi, có 5 nghĩa: 1.
Tư lương đại: Do nhiều
phúc đức và
trí tuệ tạo thành. 2.
Hành tướng đại: Sức
đại bi có khả năng nhổ tận gốc ba thứ khổ (
khổ khổ,
hoại khổ,
hành khổ). 3.
Sở duyên đại: Lấy
hữu tình trong
ba cõi làm
sở duyên. 4.
Bình đẳng đại: Lòng
bình đẳng mang lại
lợi ích, yên vui cho tất cả
hữu tình, không
phân biệt kẻ oán người thân. 5.
Thượng phẩm đại:
Đại bi là phẩm hạnh cao nhất trong các pháp, không có lòng thương nào khác sánh kịp. Nếu lại đem
so sánh giữa
Đại bi và Bi thì có tám sự khác nhau: 1.
Tự tính dị (Khác về
tính chất):
Đại bi lấy
trí tuệ làm thể, còn Bi thì lấy không
sân hận làm thể. 2.
Hành tướng dị(Hành tướng khác):
Đại bi duyên theo
hành tướng của Ba khổ, còn Bi thì chỉ duyên theo
hành tướng khổ khổ. 3.
Sở duyên dị (
Sở duyên khác):
Đại bi duyên chung cả
ba cõi, Bi chỉ duyên ở cõi Dục. 4.
Y địa dị (Chỗ nương khác):
Đại bi nương vào thiền thứ tư, Bi nương chung cả
bốn thiền. 5.
Y thân dị (Thân nương khác):
Đại bi nương vào thân Phật, Bi nương vào thân
Thanh văn,
Duyên giác. 6.
Chứng đắc dị (
Chứng đắc khác):
Đại bi xa lìa phiền não ở
cõi trời Hữu đính mà
chứng đắc, còn Bi thì chỉ dứt
trừ phiền não của cõi Dục mà
chứng đắc. 7.
Cứu tế dị (
Cứu độ khác):
Đại bi có
năng lực thành tựu việc
cứu độ, còn Bi thì chỉ hi vọng
cứu độ. 8.
Ai mẫn dị(
Thương xót khác):
Đại bi thì lòng
thương xót bình đẳng, còn Bi thì chỉ cứu các nỗi khổ của
hữu tình ở cõi Dục, cho nên lòng thương không
bình đẳng.
Ngoài ra, luận
Thành thực quyển 12 cũng
giải thích rõ về
Đại bi của Phật, sự
giải thích này
đại khái cũng giống với thuyết của
Hữu bộ, nhưng luận
Thành thực nhấn mạnh: Trước
hết nói về
pháp không, sau mới bàn đến
đại bi, đó là điểm bất đồng rõ rệt giữa hai bên. II. Thuyết của
Đại thừa: Trong 2.000
hành pháp của ngài
Phổ hiền nói trong
kinh Hoa nghiêm quyển 53 (bản dịch mới),
Đại bi được
phối hợp với giai vị
Thập trụ để nêu ra 10
nguyên do phát khởi đại bi của
Bồ tát. 1. Do quán xét nơi
chúng sinh nương tựa (mà
phát khởi đại bi). 2. Do quán xét
căn tính của
chúng sinh không điều thuận. 3. Do quán xét thấy
chúng sinh thiếu
thiện căn. 4. Do quán xét
chúng sinh còn mãi trong đêm dài
tối tăm. 5. Do quán xét
chúng sinh làm các
việc bất thiện. 6. Do quán xét
chúng sinh bị lòng
tham muốn trói buộc. 7. Do quán xét
chúng sinh mãi
chìm đắm trong bể khổ
sống chết. 8. Do quán xét
chúng sinh bị
bệnh khổ triền miên. 9. Do quán xét
chúng sinh không muốn làm các
việc thiện. 10. Do quán xét
chúng sinh không biết đến
Phật pháp.
Ngoài ra, kinh Bảo vũ quyển 5, kinh
Tư ích quyển 3, kinh Đại tát già
ni kiền tử quyển 6, kinh
Trừ cái chướng bồ tát quyển 8 v.v... đều có nêu ra thuyết
Như lai tam
thập nhị đại bi (Phạm: dvātriṃśat tathāgatasya mahākaruṇāḥ) tức là các
hữu tình không thấy rõ được
thực tướng của các pháp, lại vì
vọng chấp nên cứ
chìm đắm mãi trong đêm dài
vô minh;
đức Như lai rất
thương xót và
khởi tâm đại bi nhiếp hóa chỉ dạy họ. Kinh
Tư ích nói:
Thuyết pháp,
tùy nghi,
phương tiện,
pháp môn,
đại bi là
năm lực của
đức Như lai và là chỗ mà tất cả hàng
Nhị thừa không
thể đạt đến được.
Luận Du già sư địa quyển 44, quyển 49 thì
đặc biệt nhấn mạnh sự sai khác giữa Bi và
Đại bi là ở điểm cực
thanh tịnh. Tức là cho
từ bi của Phật và của các vị
Bồ tát Thập địa là
Đại bi, còn
từ bi của các bậc khác thì chỉ gọi là Bi, là vì các bậc ấy vẫn chưa
đạt đến cảnh địa cực
thanh tịnh. Bởi thế, trong
tám pháp của
Bồ tát nói trong luận
Thập trụ tì ba sa quyển 1 mới có cái gọi là cao đê đại tiểu (cao thấp lớn nhỏ),
đồng thời,
đề ra thuyết
Tam duyên từ bi, nghĩa là:
Từ bi duyên theo các
hữu tình là Tiểu bi,
từ bi duyên pháp là Trung bi, còn
từ bi không có
năng duyên và
sở duyên là
Đại bi. [X. luận
Phật tính Q.2;
Pháp hoa huyền tán Q.9;
Phiên dịch danh nghĩa đại tập chương 10]. (xt.
Từ Bi).