Tiếng Việt
English
Tiếng Việt
Các bài viết (5)
Về tác giả
Danh sách tác giả
Thích Nữ Minh Phước
Mới nhất
A-Z
Z-A
Mối Liện Hệ Giữa Trung Quán Luận Và Kinh Tạp A-hàm
26/03/2020
2:59 CH
Luận này được gọi là “Trung”, người Trung Quốc cũng nói về đạo Trung Dung. Thế thì chữ Trung có ý nghĩa gì? Có thể trả lời, Trung có nghĩa là phù hợp. Giống như cắm một cây trúc, chẳng nghiêng bên trái, không lệch bên phải, nếu nghiêng thì bị ngã. Phật pháp cũng giống như thế, tinh thần thái độ lập trường của nó đều Trung. Căn bản của Phật pháp lấy Trung làm tông, để thuyết minh chơn lý và vũ trụ nhân sinh, nếu hiểu được chơn lý đó thì chính là Trung, còn sai lầm một chút thì không phải Trung. Và từ khi đức Phật xuất thế đến nay, chỉ có Bồ Tát Long Thọ đem ý nghĩa của chữ Trung phát huy một cách triệt để, vì thế chúng ta căn cứ từ trên hai phương diện này để thuyết minh khái niệm này. Và ngày nay các vị học giả đã lược giảng về ý nghĩa này rất đa dạng và phong phú trong Phật giáo. Cũng thế Hòa Thượng Ấn Thuận đã đem sự nghiệp hoằng hóa giáo pháp đến cho các hành giả tu học mà giảng giải ý nghĩa của Luận Trung Quán.
Nghiên cứu tiến trình tu chứng của chín cảnh giới thiền định và mười địa Bồ Tát
26/03/2020
3:02 CH
Sự sai biệt giữa Tiểu thừa và Đại thừa cũng rất rõ ràng trong những giai đoạn trên con đường tu hành do hai học phái này vạch ra. Các nhà Tiểu thừa công nhận có bốn giai đoạn gọi là Sotàpatti (Dự lưu), Sakadàgàmi (Nhất lai), Anàgàmi (Bất lai) và Arahatta (A-la-hán) và nêu rõ những quả chứng một người tu hành thành đạt, khi đi từ giai đoạn này đến giai đoạn khác, và cuối cùng chứng được toàn tri mà theo các nhà Tiểu thừa giống với toàn tri của chư Phật. Các nhà Đại thừa cũng vậy, công nhận có 10 giai đoạn (theo Bzdohisattvabhùmi, Bồ-tát địa) trên con đường tiến triển tâm linh, mà một vị Bồ-tát phải trải qua để giải thoát hoàn toàn và thành Phật.
Đời sống viễn ly của tỳ kheo trong Kinh Di Giáo
27/03/2020
5:47 SA
Kinh Di giáo này do Phật thuyết giảng lúc sắp nhập Niết-bàn, khuyên nhủ hàng đệ tử, lời lẽ rất rõ ràng, thiết yếu. Thế mà, những kẻ xuất gia và tại gia đời mạt pháp đều chẳng tôn trọng làm theo. Đại đạo vì thế sắp phải ẩn khuất, lời vi diệu ắt phải tuyêt dứt đi! Trẫm hằng nhớ tưởng Thánh giáo , muốn rộng truyền ra, nên sắc cho quan thuộc sai mười người hay chữ, sao chép kinh này ra nhiều bản, là nhắm đến việc phải làm theo kinh. Những thứ cần dùng như giấy, bút, mực... quan hữu tư phải lo cung cấp. Hết thảy quan viên từ ngũ phẩm trở lên, cùng thứ sử các châu, mỗi người được trao cho môt quyển. Nếu ai thấy đức hạnh, viêc làm của hàng Tăng Ni mà không phù hợp theo kinh này, thì nên lấy cả phép công lẫn tình riêng mà khuyên nhủ, khiến cho phải làm theo. Tóm lại sống viễn ly và tu tập hạnh viễn ly là giới hạn sự tác động của hoàn cảnh làm bất lợi và chướng ngại cho sự tu tập đoạn trừ phiền não, lậu hoặc. Mục đích là để hỗ trợ cho công phu tu tập và để sớm hoàn thành chí nguyện xuất gia.
Phật độ và các yếu tố trang nghiêm tịnh độ
28/03/2020
4:59 SA
Phật pháp tiêu biểu cho sự giác ngộ giải thoát an vui; thế gian biểu thị cho phiền não buộc ràng sanh tử. Do đó, vấn đề xa lìa khổ đau ràng buộc, dứt trừ phiền não nhiễm ô, hóa giải vô minh lầm lạc là việc làm chính yếu của người học Phật. Chính vì vậy để hiểu về tịnh độ hay tên gọi khác của Phật đó cũng là vấn đề nan giải cho người học Phật. Và khi nói đến tịnh độ, người học Phật thường liên tưởng đến cảnh giới Tây Phương tịnh độ, của đức Phật A Di Đà. Nhưng theo thế giới quan của Phật giáo Đại thừa có mười phương tịnh độ và mười phương chư Phật. Tuy vậy, trên phương diện Kinh điển thường đề cập đến bốn cõi tịnh độ: Di Lặc Phật tịnh độ, Dược Sư Phật tịnh độ, A Súc Phật tịnh độ, A Di Đà Phật tịnh độ. Từ đó, học giả cũng để tâm đến những khuất tất cũng như khai thác nguồn gốc trong kinh điển để đi đến sự nghiên cứu và làm rõ đề tài mà học giả quan tâm đó là; “Phật Độ Và Các Yếu Tố Hình Thành Trang Nghiêm Tịnh Độ”.
Phẩm tính của một bậc đại nhân qua hình ảnh chén thuốc độc ban cho Socrates và bát cháo nấm của cunda dâng lên đức Thế tôn
28/03/2020
5:40 CH
Những hành xử kỳ đặc của những bậc vĩ nhân có khả năng làm chấn động lòng người. Dù biết rõ là sẽ chết, nhưng các bậc đại nhân luôn sẵn sàng và an nhiên đón nhận cái chết. Với Đức Phật, bậc tự chủ hoàn toàn lẽ sống chết, dù có thọ dụng hay không thọ dụng bát cháo nấm, thì Ngài vẫn nhập Niết Bàn, nhưng vẫn tận lực hóa độ chúng sanh, dù việc hóa độ đó là thiên hùng ca bi tráng. Cũng như nhà hiền triết Socrates (469-399) biết rằng chén thuốc độc nhưng đã ung dung uống cạn, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc cho con người và mọi loài. Có thể nói, mặc dù biết rõ thức ăn có độc, thế nhưng vì muốn lợi lạc hữu tình, cụ thể là đem lại phước quả lớn cho thợ rèn Cunda, Đức Thế Tôn đã không ngại ngần thọ dụng bữa ăn cuối.
Quay lại