Khi tôi tuyên bố giảng kinh Phạm Võng, có Phật tử hõi: “Con chưa thọ Bồ Tát Giới, Hoà Thượng có thể cho con dự nghe được không?” Tôi đáp: “Đương nhiên có thể. Nếu tôi giảng giới Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni, dầu quý vị có tâm thành khẩn muốn nghe, tôi không thể hứa khả; còn giảng Phạm Võng Bồ Tát giới tôi rất hy vọng quý vị đến nghe càng đông càng tốt, chẳng những không vi phạm giới luật mà có thể từ trong sự nghe giới ấy kích phát tâm Bồ Đề và huân phát giới Phật tánh sẵn đủ của quý vị vậy.” Hoà Thượng Diễn Bồi,Tân Gia Ba khoảng 1969
Quyển sách này tập hợp 6 bài giảng mà tác giả đã hoàn thành vào tháng 7/1999 tại Học viện Phật giáo Huế dưới đề tài: "Triết lý luật và tư tưởng Phật giáo"
Tăng ni không tu hạnh đầu-đà là vì họ trung thành với lời Phật dạy. Do đó việc ca ngợi người tu đầu-đà khổ hạnh và biến điều này làm cái cớ để xúc phạm Phật giáo và Tăng Ni là “ma tăng” là không thể chấp nhận được
Phật giáo, với hơn hàng ngàn năm lịch sử, đã xây dựng một hệ thống giới luật nghiêm ngặt và quan trọng để hướng dẫn người tu hành trên con đường tu tập và giải thoát. Những quy định này không chỉ là các quy tắc về hành vi mà còn là biểu hiện của đạo đức và tâm linh, đóng vai trò then chốt trong việc duy trì sự thanh tịnh và phát triển của tăng đoàn và cộng đồng Phật tử. Quá trình truyền trao và tiếp nhận giới luật là yếu tố cốt lõi để bảo đảm tính chính thống và sự trong sạch của Phật giáo.
Nguồn Pāḷi: chủ yếu Dvemātika (Myanmar),
và Buddha Jayati Ṭipitaka Series (Sri Lanka)
[phần Pāḷi trong các bản dịch Tạng Luật (PāḷiViệt) của Đại Đức Indacanda]. Khi có điểm
khác nhau, sự lựa chọn được dựa trên việc
đối chiếu thêm với một số nguồn tài liệu
khác.
Dịch Việt: dựa trên các bản dịch Tạng Luật
(Pāḷi-Việt) của Đại Đức Indacanda.
Giới luật là thọ mạng Phật giáo, Giới luật còn là Phật pháp còn. Đức Phật đã từng dạy trong kinh Di Giáo rằng: “Các chúng đệ tử hãy lấy Giới luật làm vị Thầy sáng suốt cho con đường giải thoát của chính mình, dù Như Lai còn ở trong đời cũng không khác gì cả”. Hơn thế nữa, mọi pháp môn tu tập của Phật giáo đều lấy Giới luật làm nền tảng. Nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ, tuệ minh tâm kiến tánh thành Phật vậy.
Giới luật trong Phật giáo có rất nhiều và đa dạng, tuy nhiên, nhiệm vụ của giới luật chỉ có một. Đó là kiểm soát những hành động của thân và khẩu, cách cư xử của con người, hay nói khác đi, là để thanh tịnh lời nói và hành vi của họ. Tất cả những điều học được ban hành trong đạo Phật đều dẫn đến mục đích chánh hạnh nầy. Tuy nhiên, giới luật tự thân nó không phải là cứu cánh, mà chỉ là phương tiện, vì nó chỉ hỗ trợ cho định (samadhi). Định ngược lại là phương tiện cho cho sự thu thập trí tuệ, và chính trí tuệ nầy lần lượt dẫn đến sự giải thoát của tâm, mục tiêu cuối cùng của đạo Phật
Tập sách nhỏ có tựa đề là “Giới Luật Phật Giáo Yếu Lược” chỉ nhằm trình bày sơ lược về những giới luật cốt lõi trong giáo pháp nhà Phật, chứ không phải là một bộ sách nghiên cứu thâm sâu về giới luật Phật giáo. Phật tử chân thuần nên luôn nhớ rằng đạo Phật là con đường tìm trở về với chính mình (hướng nội) nên giáo dục trong nhà Phật cũng là nên giáo dục hướng nội chứ không phải là hướng ngoại cầu hình cầu tướng.
Mahāvyutpatti (Devanagari: महाव्यत्पत्ति, Tibetan: བེ་བྲག་ཏུ་རྱོགས་པར་བེད་པ་ཆེན་པྱོ་ Đại Danh Nghĩa Tập) có tên nguyên thủy là Vyutpatti (Danh nghĩa Tập), theo nghĩa Phạn ngữ là Đại Thuật Ngữ Học (hay Đại Từ Nguyên Học). Tuy nhiên, tựa sách có lẽ cần phải được bổ xung ý theo nghĩa Tạng ngữ vì nó được tạo ra bởi nhiều học giả và dịch giả Tây Tạng và Ấn-độ hợp sức để trước tác. Theo nghĩa Tạng văn thì tên tựa sách có thể dịch thành Đại Giải Ngộ Tường Tế, nghĩa đen là sự thấu hiểu chi tiết và cụ thể vỹ đại.
Kinh Đại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Đức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh. Vì thời gian có hạn nên lời Ngài dạy rất cô đọng, nhưng minh bạch, rõ ràng.
Bài kệ số 3:
Nó mắng tôi, đánh tôi. Nó đã thắng tôi, đã cướp của tôi./
Ai ôm hiềm hận ấy, thì hận thù sẽ không thể nguôi./
Bài kệ số 4:
Nó mắng tôi, đánh tôi. Nó đã thắng tôi, đã cướp của tôi./
Không ôm hiềm hận ấy, thì hận thù sẽ được tự nguôi./
Bài kệ số 5:
Lấy hận thù trừ diệt hận thù, không thể có trong đời này./
Hận thù chỉ có thể bị không hận thù trừ diệt. Đó là định luật ngàn thu
“Kinh Chú Tâm Tỉnh Giác” là một trong hai bài kinh căn bản mà Đức Phật đã nêu lên một phép luyện tập vô cùng thiết thực, cụ thể và trực tiếp về thiền định, đó là phép thiền định chú tâm thật tỉnh giác và thật mạnh vào bốn lãnh vực thân xác, cảm giác, tâm thức và các hiện tượng tâm thần từ bên trong chúng.
Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởng và tâm nguyện của Phật.
Hoa Nghiêm tiếng Phạn là Avatamsaka, có nghĩa là đóa hoa thanh khiết tuyệt đẹp nhất trần gian, ngát hương khắp mười phương các cõi pháp giới.
Tư tưởng Hoa Nghiêm trình bày vạn pháp do tâm sanh.
Niệm Phật không phải để được đức Phật rước về Tịnh độ sau khi qua đời. Niệm Phật quan trọng nhất là để thanh tịnh hoá tâm thức ở hiện tại, sống an lạc và thảnh thơi, thiết lập Tịnh Độ tại trần gian đau khổ này. Dưới con mắt thiền quán và niệm Phật nhất tâm bất loạn, thế giới Ta-bà này chính là Tịnh độ hiện tiền.
Kinh A-di-đà mà quý vị đang có trên tay còn được gọi là
Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh, Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm
Kinh, Tiểu Vô Lượng Thọ Kinh, Kinh Tiểu Bản Di-đà hay gọi
tắt là Tiểu Kinh, được dịch từ bản chữ Hán của ngài Cưuma-la-thập. Bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập tuy không sát
nguyên tác như bản của ngài Huyền Tráng (Xưng Tán Tịnh
Độ Phật Nhiếp Thụ Kinh), nhưng vì tính chất súc tích và thi
điệu tứ tự của nó đã làm cho nó trở nên phổ biến nhất và được
chọn làm tụng bản trong các ngôi chùa tu theo Tịnh Độ.
Băng hình này do Cư sĩ Nguyên Giác làm để cúng dường Pháp. Dựa trên nhiều bản dịch khác nhau. Hình ảnh là từ trang Wikipedia Commons. Dựa theo các bản dịch của Thầy Thích Minh Châu, Daw Mya Tin, Weragoda Sarada Thero, Acharya Buddharakkhita, Bhante Suddhāso, và nhiều Thầy khác. Hình ảnh là từ trang Wikipedia Commons, chụp lại từ các vách đá Động Đôn Hoàng, Trung Quốc.
.
Vi Diệu Pháp Tạng (Abhidhamma Pitaka) là một trong ba Tạng quan trọng của Tam Tạng Kinh điển Phật giáo, chứa đựng một kho tàng kiến thức quý báu để thấu triệt thực tướng của vạn pháp. Vi Diệu Pháp là một hướng dẫn thiết yếu, vừa là một luận giải mang tính trí thức có thể bồi dưỡng tinh thần các tư tưởng gia chân chánh cũng như những người hăng say nghiên cứu học hỏi nhằm tăng trưởng trí tuệ.
Đức Phật đã để lại Tam Tạng kinh điển quý báu với tạng Luật bao gồm những điều học giới như là những phương pháp phòng bệnh giúp cho nhân loại ngăn ngừa phát sinh phiền não gây khổ thân, tâm. Trong khi đó, tạng Kinh là tập hợp những giáo huấn của Đức Thế Tôn để tâm tính con người được hoàn thiện dần ví như những bài thuốc để trị từng loại bệnh phù hợp với căn tánh của mỗi một chúng sinh. Tạng thứ ba là tạng Vi Diệu Pháp mô tả chính xác sự tương quan nhân quả chi phối danh sắc, đề cập chi tiết đến các pháp Chân đế là Tâm, Tâm Sở, Sắc pháp vốn là những pháp vô thường, sanh diệt liên tục, khổ và vô ngã;
Việc Phật ra đời là một nhân duyên hãn hữu. Gặp được Phật pháp khi Phật không còn nữa, cũng không phải việc dễ dàng. Điều đáng tiếc nhất là mang tiếng con Phật nhưng không hiểu được bản ý của ngài. Chỉ biết bố thì cầu tài lộc mà không nghiêm trì giới luật để sửa mình là một cực đoan. Giới luật trang nghiêm mà không lắng tâm thiền định thì cũng là một cực đoan.
Vô Trước (Skt. Asaṅga) sinh vào khoảng năm 375 CN tại Purushapura, thành phố chính của Gandhara, miền bắc Pakistan ngày nay. Người mẹ bà la môn của ông, Prakashashila (Skt. Prakāśaśīla), ở kiếp trước, từng là một học giả Phật giáo uyên bác, sùng kính Bồ tát Quán Thế Âm. Trong một cuộc tranh luận với một học giả khác, bà đã gọi đối thủ của mình là phụ nữ và vì sự xúc phạm này, Quán Thế Âm nói rằng bà sẽ tái sinh thành phụ nữ 500 lần, nhưng Ngài sẽ luôn quan tâm đến bà.
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo. Người ta không thể nào tưởng tượng được sự tồn tại của một cái cây mà không có gốc nhưng nếu chỉ có gốc không thôi thì cây ấy không còn sức sống; hoặc giả có gốc, có thân cây mà không có cành lá thì cây ấy cũng như cây trong mùa đông không khỏi gây cho người ta cái ấn tượng trơ trụi tiêu điều.
Hiển Dương Thánh Giáo luận là một trong những bộ luận quan trọng của Phật giáo Đại thừa, được ngài Vô Trước biên soạn (nhưng ngày nay, đa số các nhà nghiên cứu nhận định rằng ngài Thế Thân mới là người biên soạn bộ Luận thư này) để xiển dương giáo nghĩa của Duy Thức
Người ta thường nói môn Abhidhamma rất khó học, và lại không thực tế. Rất khó học vì nó phân tích rất chi li, vi tế những vận hành, diễn tiến của tâm. Không thực tế vì nó bàn đến những vấn đề ở ngoài sự hiểu biết bình thường của con người; ở ngoài chuyện áo cơm, tiền bạc, thế sự và thế tình...
Quán Thế Âm Bồ Tát có rất nhiều nhân duyên với chúng sanh trong cõi Ta Bà này. Ngài lại đủ oai thần và phương tiện để cứu khổ, ban từ, ban bi cho muôn loài. Chúng ta đang luôn thừa hưởng được ân huệ của Ngài và đang cố gắngthực hành theo hạnh từ bi của Ngài, để làm vơi cạn nỗi khổ đau, xoa dịusầu não cho mình, và cho người lẫn chúng sinh.
Nhân mùa Vu Lan 2024, nhớ đến công ơnsinh thànhdưỡng dục của cha mẹ, và ngậm ngùi tự cài lên áo mình một bông hồng trắng khi nhớ tới câu nói của Thầy Tử Lộ: Tử Dục Dưỡng Thân, Nhi Thân Bất Tại (khi con muốn phụng dưỡng cha mẹ thì cả cha lẫn mẹ đều đã khuất núi). Nhớ lại lời dạy của cha mẹ lúc sinh thời: “Khi thọ ơn bất kể lớn nhỏ, bất kể mới đây hay đã lâu xa, vẫn phải luôn ghi nhớ trong lòng. Nếu không trả được ơn cho người làm ơn thì ít nhất cũng phải đem ơn ấy đáp đền cho bá tánh.”
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOAgồm có bảy quyển, chia thành hai mươi tám phẩm. Phẩm Phổ Môn là phẩm thứ hai mươi lăm, nhưng trong bản kinh văn xưa thì là thứ hai mươi bốn, vì trong đó thiếu một phẩm Đề-Bà-Đạt-Đa (phẩm thứ mười hai). Phẩm Phổ Môn diễn bày công đứcthần thôngdiệu dụng và cảnh giới không thể nghĩ bàn của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Đoản văn này tôi viết để tặng riêng cho người Bố yêu quý của tôi, người mà tôi chưa từng nhớ mặt nhưng chắc chắn đã gọi tiếng bố đầu đời. Bố tôi mất quá sớm, khi mới tròn hai mươi bảy tuổi đời và con thơ đang cầm bầu sữa chập chững biết đi, nên tôi không giữ được một hình ảnh nào của bố tôi trong trí óc.
Chúng ta thường nghe nói giới trẻ, nhất là gen Z, say mê công nghệ, suốt ngày dán mắt vào màn hình, thậm chí về nhà cũng ít có thời gian giao tiếp với cha mẹ. Có nhiều ông bố bà mẹ than: “Nó chỉ điện cho mình khi cần mua cái gì đó hay cần giải quyết một vấn đề, còn thì không bao giờ tâm tình”…
Vào ngày trăng tròn tháng Bảy năm Nhâm Tuất 1802 tại kinh thành Phú Xuân, mới tờ mờ sáng, sương hãy còn bay lãng đãng trên mặt nước sông Hương thì tiếng súng thần công nổ vang trời báo hiệu cho toàn dân kinh thành biết hôm nay vua mở hội hành hình nhà Tây Sơn: xử tội tướng Trần Quang Diệu, nữ tướng Bùi Thị Xuân, mẹ Trần Quang Diệu và Trần Bích Xuân, con gái của đôi tướng tài. Dân chúng từ Quy Nhơn Bình Định đến Phú Xuân ai nấy đều biết rõ đôi danh tướng Trần Quang Diệu – Bùi Thị Xuân đã bao lần xông pha chiến trường, chiến đấu dũng cảm, vào sinh ra tử từ Nam ra Bắc giúp vua Quang Trung thống nhất sơn hà.
Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Bạch Thế Tôn", những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:
Nhưng ở đây, chúng ta có thể đặt nghi vấn: Nếu nhờ chư Tăngchú nguyện mà bà mẹ Ngài Mục Kiền Liênthoát khỏi cảnh đọa lạc, thì hóa ra lý Nhân quả cũng có trường hợp ngoại lệ? Và Phật tửchúng ta chỉ cần nương nhờthần lực của chư Phật cùng Thánh chúng, dù có tạo nghiệp ác cũng không sợ sa vào khổ xứ?
Thưa Mẹ
Con đã dành trọn thời gian hiện nay để viết một quyển truyện riêng tặng mẹ vì con muốn nó là một quyển truyện thật là hay, hay nhất mà con có thể viết, và cuối cùngthì giờ đây, với một chút thúc bách của thời gian, con đã gắng viết.
"Vu Lan – nhớ Tứ Trọng Ân" - âm thanhấm cúng ấy đã trở về, báo hiệu mùa tri ân và báo ân của năm 2024 đang trở về cho tất cả người con Phật khắp năm châu.
Khoa học đã tái chứng minh những gì Đức Phật đã chứng minh:
Energy is neither created nor destroyed but transformed. (First law of thermodynamics)
Giải thích theo triết lý Phật Giáo:
Tất cả sắc tướng lẫn vô sắc tướng trong vũ trụ được cấu tạo bởi năng lượng (energy.)
Năng lượng – vô sinh, vô diệt, vô thủy, vô chung.
Theo Lý Bát Nhã: Sắc là không; không là sắc. Sắc/Không không sinh không diệt chỉ hóa thân – từ không ra sắc, từ sắc trở thành không, rồi từ khôngtrở lại sắc – theo luật nhân quả, tái sinh, hay tiến hóatự nhiên của vũ trụ luật.
Thư Ngỏ của Tỳ kheo Thích Giác Tâm
Thế danh: Trương Mậu Nam
Hiện trụ trì tại: Chùa La, thôn Cẩm Liên, xã Cẩm La, Tx Quảng Yên, T Quảng Ninh, nước Việt Nam
Do ảnh hưởng trực tiếp từ bão Yagi quá mạnh đổ bộ trực tiếp vào Quảng Ninh nên chùa con bị thiệt hại nặng nề. Trụ xứ chúng con có 9 chú tiểu là trẻ mồ côi con nhận cưu mangnuôi dưỡng, đang ở mái che tạm.
Kệ số 6. Có những người không thấy rằng tất cả chúng ta đang bước tới cái chết. Những người thấy được sẽ ngưng tất cả những cuộc tranh cãi của họ.Kệ số 7: Người ưa cái đẹp, không phòng hộ các căn, ăn uốngvô độ, lười biếng, thiếu tinh cần: họ sẽ bị Ma uy hiếp, như cây yếu trước gió.
Kệ số 8: Người sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uốngtiết độ, có lòng tin, tinh cần, Ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.
Thiện hạnh của ý là: Khi chúng ta quay kinh luân, tâm duy trì không xao lãng. Thực hành cao hơn là an trú trong thiền định về tri kiến – sự hiểu về ngã và tha bất khả phân – trong lúc quay luân. Và đây là một chỉ dẫn phi phàm! Nếu chúng ta quay kinh luân với ý nghĩ làm lợi lạc tất cả hữu tìnhchúng sinh thì chúng ta sẽ hoàn hảo an trụ nhất tâm trong hai kiểu Bồ đề tâm. Quay kinh luân dù chỉ một khoảnh khắc sẽ có lợi lạcbao la đến vậy!
Đây là một tuyển tập truyện ngắn hoàn toàn hư cấu nhưng mang tính tư tưởng và triết lý. Nói “hư cấu” nhưng đều dựa vào những sự kiện có thật trong cuộc sống vì không một đạo học, tư tưởng, triết lý hay thơ, truyện nào mà không liên quan đến cuộc sống. Tuyển tập bao gồm những chủ đề như: Tự ái của con người, diễn dịch ý chỉ của thần linh theo ý muốn của giáo sĩ, ảo tưởng về sự thành thật, nỗi buồn của Thần Chết, ảo tưởng của con người về một thế giới toàn là tu sĩ, thân phận của đàn ông khoảng nửa thế kỷ sau, cuộc sống ở Thiên Đàng ra sao. Và sau hết là một số chuyện ma để mua vui cho đời.
Bây giờ nhìn đâu cũng thấy thế giớibất an. Chiến tranh xảy ra khắp nơi trên quả địa cầu này, rồi động đất, thiên tai bão lụt, khí hậu biến đổi v.v… khiến nhân loạichúng tadần dầnđi vào ngõ cụt. Nếu chúng ta không lưu tâm tự bảo vệ chính mình bằng lòng tin nơi chư Phật và chư vị Bồ Tát, thì chúng ta vẫn mãi bị sanh tửchi phối. Ngài Honen (Pháp Nhiên) mới bảo rằng: ”Nhà Sanh Tử, do sự nghi ngờ mà chúng ta phải qua lại nơi đây nhiều lần. Thành Niết Bàn, do lòng tin mà dễ vào được”. Do vậy chúng ta nên có lòng tin chơn chánh để được chư Phật, chư vị Bồ Tátgia hộ cho trong hiện kiếp cũng như những đời sống về sau trên quả địa cầu này. Cầu Phật gia hộ cho niềm tin của chúng ta luôn kiên cố.
AI là trí tuệnhân tạo. AI là một kho kiến thức nhiều vô cùngvô tận, đã siêu xuất chứa đựng nhiều thư viện nhân loại hơn bất kỳ dữ liệu tri thức nào, và cứ mỗi ngày AI lại mang thêm nhiều công năng hữu dụng, mà một người đời thường không thể nào có nổi kho tri thức đó. Trong khi đó, Thầy Tuệ Sỹ là một nhà sưphi thường của dân tộc, với những tri kiến và hồn thơ (như dường) phong phú hơn bất kỳ nhà sư nào đã từng có của dân tộc Việt. Câu hỏi là, AI có thể biểu hiện như một Tuệ Sỹ hay không? Chúng ta có thể gặp lại một phong cách độc đáo của Tuệ Sỹ trong AI hay không? Thử nghiệm sau đây cho thấy AI không thể sáng tác được những câu đối cực kỳ thơ mộng như Thầy Tuệ Sỹ.
Bầu không khí chính trị trên thế giới hiện nay đang nóng bỏng vì khuynh hướng độc tài, cực đoan, chia rẽ, hận thù và cuồng vọng không thua kém gì bầu khí quyển của địa cầu đang nóng dần lên do khí thải nhà kính gây ra.
Cả hai đều do con người tạo ra và đều là thảm họa cho nhân loại! Nhưng thảm họa này không phải là điều không thể giải quyết được, bởi lẽ những gì do con người gây ra cũng đều có thể do con người ngăn chận và hóa giải được.
Sallie Jiko Tisdale là một cư sĩ, dạy Pháp tại Trung tâm Thiền Dharma Rain ở Portland, Oregon, Mỹ. Cô là tác giả của một số sách, bao gồm quyển gần đây: Lời Khuyên Cho Những Xác Chết Tương Lai- Advice for Future Corpses ).
Đây là lần thứ hai tôi đến Tu Viện Gaden Shartse Thubten Dhargye Ling (còn được gọi là Chùa TDL) tại Thành Phố Long Beach, Miền Nam California, Hoa Kỳ. Lần đầu tôi đến đây cách nay vài năm để làm phóng sự cho pháp sựkiến tạoMạn Đà La do chư Tăng từ Tu Viện Gaden Shartse Monastery tại Ấn Độ sang thực hiện.
Phái đoànHoằng PhápÂu Mỹ đã đến thăm Orange County và tổ chức buổi cơm chay "Gây Quỹ Xây Dựng Học Viện Phật GiáoViên Giác tại Đức Quốc" vào thứ bảy ngày 5/10/2024 tại trung tâm Sangha, 7641 Talbert Avenue, thành phố Huntington Beach....Kiều Mỹ Duyên có buổi phỏng vấnHòa Thượng Thích Như Điển và Hòa Thượng Thích Thông Triết vào thứ hai ngày 7/10/2024 trên đài truyền hình VBS 57.6 cùng cô Thu Anh, chuyên viên địa ốc.
Giữ giới là căn bản của thực hành Phật pháp. Trong Kinh AN 10.176, Đức Phật dạy gia chủ Cunda về cách giữ giới, giữ cho thanh tịnh thân, khẩu, và ý. Sau đây là bản viết lại cho dễ hiểu, dựa theo bản dịch của Thầy Thích Minh Châu và đối chiếu với các bản tiếng Anh.
Tập sách nhỏ có tựa đề là “Yếu Lược Lịch Sử Phát Triển Phật Giáo Việt Nam” chỉ nhằm phác họa lại sơ lược về sự phát triển Phật Giáo Việt Nam và một số cao Tăng, các nhà tư tưởngPhật giáo hay học giả vĩ đại mà tác giảghi nhận được, chứ không phải là một bộ sách nghiên cứuthâm sâu về lịch sử của Phật giáo Việt Nam. Phải thật tình mà nói, khi Phật giáo được truyền sang Việt Nam, giáo pháp nhà Phật hòa quyện một cách tuyệt vời với tín ngưỡng dân gian để trở nên một thứ giáo lývô cùngđặc biệt như giáo phápPhật giáoHòa Hảo chẳng hạn. Dầu bất cứ chuyện gì đã xảy ra, sự am hiểuPhật giáo vẫn luôn luôn là một vấn đề không dễ lãnh hội như những giáo pháp khác.
Trong những khóa thiền TứNiệm Xứ online và Nhận Diện & Quản LýCảm Xúc offline, sẽ giúp cho các thiền sinhvượt qua những lo lắng, sợ hãi, rối loạnlo âu và trầm cảm, và đối diện với những thử tháchtrong đời sống với chánh niệm& tỉnh giác
Mahāvyutpatti (Devanagari: महाव्यत्पत्ति, Tibetan: བེ་བྲག་ཏུ་རྱོགས་པར་བེད་པ་ཆེན་པྱོ་ Đại Danh Nghĩa Tập) có tên nguyên thủy là Vyutpatti (Danh nghĩa Tập), theo nghĩa Phạn ngữ là Đại Thuật Ngữ Học (hay Đại Từ Nguyên Học). Tuy nhiên, tựa sách có lẽ cần phải được bổ xung ý theo nghĩa Tạng ngữ vì nó được tạo ra bởi nhiều học giả và dịch giả Tây Tạng và Ấn-độ hợp sức để trước tác. Theo nghĩa Tạng văn thì tên tựa sách có thể dịch thành Đại Giải Ngộ Tường Tế, nghĩa đen là sự thấu hiểu chi tiết và cụ thể vỹ đại.
Sau đây là một thiền pháp tổng hợp và đơn giản hóa từ Kinh Pháp Cú và nhiều kinh khác, thích nghi cả cho Phật tử và không phải Phật tử. Nơi đây, người tập có thể quán sát và cảm thọ qua các pháp quán: quán như huyễn, quán vô thường, và quán vô ngã.
Ấn phẩm này tập hợp các nghiên cứu của chư Tôn đức Ni trong Phân ban Ni giới Cần Thơ, chư Tôn đức Ni Phân ban Ni giới các tỉnh thành cũng như quý học giả, nhà nghiên cứu trong cả nước về những vấn đềliên quan đếnhoạt động, sự phát triển của Ni giớiViệt Nam nói chung, Ni giới Cần Thơ nói riêng. Ấn phẩm được chia thành bốn phần: Ni giớiViệt Nam trên hành trìnhlịch sử; Ni giới Cần Thơ vươn mình cùng Giới đức - Tâm đức - Tuệ đức; Giới Luật: Khuôn vàng thước ngọc của Ni lưu; Ni giới với sự phát triển của Phật giáo
Trong chùa có thiết lập ban thờ phụng để tri ân tưởng nhớ nhà thám hiểm – nhà vi khuẩn học Alexandre Yersin (Á Lịch Sơn Đại - Da Nhĩ Sâm) đã khai phá và lập nên đồn điền cao su rộng khắp cả một vùng đất mang tên Suối (Suối Đá, Suối Cát, Suối Dầu)... Trên ban thờ mộc mạc đầy đủ hương hoa là bức tranhchân dung của "Ông Tư Yersin" vẽ trên vải lụa được đặt ở đó từ khi chùa xây dựnghoàn thành.
Kinh Đại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Đức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh. Vì thời gian có hạn nên lời Ngài dạy rất cô đọng, nhưng minh bạch, rõ ràng.
Chuyện người tu hành bị ma quỷ nhiễu hại xưa nay không phải là hiếm. Những bậc Thánh tăng còn bị làm hại huống gì phàm tăng. Tôn giả Xá-lợi-phất là bậc Thánh A-la-hán, vị Tướng quân Chánh pháp mà còn bị quỷ ma nhiễu hại thì chúng ta đang tập tu nếu có kẻ phá hoại cũng là chuyện thường tình.
Ngày lặng lẽ qua âm thầm, đêm đêm vô tình buông xuống tịch liêu. Người vẫn quay cuồng trong cuộc sống bận bịu mưu sinh, nào ai rảnh rỗi để ngồi đó mà nhìn ngày ngày đến đi, đêm đêm lần lữa.
Đêm trăng hạ huyền đẹp lạ, bầu trời không một gợn mây, trong xanh thăm thẳm. Ánh trăng lúc này không còn óng ả tơ vàng mà dường như ngả màu bạc. Ánh trăng bàng bạc phủ khắp sơn hà đại địa cho chí thành đô…
Niềm tincăn bản trong Phật giáo mà người Phật tử nên tin một cách khẳng quyết là thế giới với đầy dẫy những khổ đau phiền não gây ra bởi tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, sát, đạo, dâm, vọng... Nếu chúng ta có thể buông bỏ những thứ vừa kể trên thì khổ đau phiền não sẽ tự nhiênchấm dứt. Mục tiêutối thượng của người Phật tử là hướng về bên trong để tìm lại ông Phật nơi chính mình chứ không phải hướng ngoại cầu hình. Vì vậymục đíchtu tập của người Phật tử là phải phát triển sự tự tin vào khả năng của chính mình, khả năng tự mình có thể đạt được trí tuệgiải thoát khỏi mọi hệ lụy của khổ đau phiền não. Đạo Phậtcực lựcchống lại một niềm tin mù quáng vào sự cứu độ của tha lực, không có căn cứ.
Duy Tín Sao Văn Ý (唯信鈔文意), một quyển, do Thân LoanThánh nhânbiên soạn và được thu chép trong tập 83 của Đại chánh tạng, số 2658. Mặc dù Thân LoanThánh nhân thường giới thiệu “Duy Tín Sao” của Thánh Giác Pháp Ấn cho các đệ tử của mình, nhưng quần chúng nông thôn thiếu học thức vẫn gặp khó khăn trong việc hiểu những chú giảikinh điển trong Duy Tín Sao. Cảm nhận được điều này, Thân Loan đã trích ra những câu quan trọng, khó hiểu, và giải thích chúng một cách đơn giản, để quần chúng hiểu được ý nghĩa thực sự của “Duy Tín Sao”, và cũng nói rõ yếu nghĩa ‘niệm Phật vãng sanh’ nằm trong tín tâmchân thật.
Một phác thảo ngắn gọn về lý thuyết nghệ thuật theo quan điểm của Ấn Độ cho thấy nghệ thuật Ấn Độcho phép khả năng trải nghiệm thẩm mỹ vượt quasở thích và thành kiến của cá nhân. Để hiểu và đánh giá đầy đủ nghệ thuật Ấn Độ, người ta phải có quan điểm khách quan và sẵn sàng khám phá môi trường văn hóa và tâm lý mà nghệ thuật nơi nó được tạo ra
Điện tín từ Phụ tá đặc biệt của Tổng thống Kennedy về các vấn đềan ninhquốc gia (McGeorge Bundy) gửi Đại sứ Mỹ tại VN (Lodge). Cái chết của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, bất kể họ có khuyết điểm gì, đã gây ra cú sốc ở đây. Và có nguy cơ rằng uy tín và vị thế của tân chính phủ VNCH có thể bị tổn hạiđáng kể nếu bản ánám sát họ là theo lệnh của một hoặc nhiều thành viên cấp cao của tân chính phủ. Chứng cớ hiện ở đây rất ít và mâu thuẫn, nhưng việc khẳng định đơn giản là tự tử hiển nhiên sẽ không chấm dứtvấn đề. Chúng tôi tin rằng việc đưa ra lời giải thích nhanh chóng và đầy đủ là rất có lợi cho chế độ, và nếu cái chết không phải do tự tử, thì hãy nhấn mạnh bằng chứng cớrõ ràng với tất cả các tình tiết giảm nhẹ. HẾT TẬP III.
Khi suy nghĩ và hành động đơn giản sẽ giúp chúng ta không bị căng đầy, quá tải bởi những điều mệt nhọc, từ đó chúng ta có thể cảm nhận được niềm vui mộc mạc xung quanh, là khi ta có thể gieo trồng những nhành hoa và tự mình cảm nhận những điều đẹp đẽ. Là biết trân trọng những phút giây còn được sống, biết thương người mà không đòi hỏi, hoài nghi. Là một buổi sớm mai, ngồi bên một tách trà và nhìn cuộc đờiđiềm nhiên rỗng lặng.
Bài kệ số 3:
Nó mắng tôi, đánh tôi. Nó đã thắng tôi, đã cướp của tôi./
Ai ôm hiềm hận ấy, thì hận thù sẽ không thể nguôi./
Bài kệ số 4:
Nó mắng tôi, đánh tôi. Nó đã thắng tôi, đã cướp của tôi./
Không ôm hiềm hận ấy, thì hận thù sẽ được tự nguôi./
Bài kệ số 5:
Lấy hận thù trừ diệt hận thù, không thể có trong đời này./
Hận thù chỉ có thể bị không hận thù trừ diệt. Đó là định luật ngàn thu
For nearly 1500 years, India was the world's richest country and a Buddhist superpower. The Pharaoh Ramesses I was recorded as having an Indian doctor, testifying to the antiquity of its medical traditions, but it was only when Alexander the Great turned around on the banks of the Indus River that the West first learned of the power of the Buddhist empire of ancient India.
Nguyên tôi có 2 loại sách là Tâm ảnh lục và Pháp ảnh lục. Tâm ảnh lục là những bài báo viết từ năm 1948. Loại này đã ngưng và hủy bỏ từ lâu.
Pháp ảnh lục là loại dịch thuật kinh sách nên tôi gắn bó nhất, liên tục từ 1944 lúc mới ra trường. Vậy màđến nay chỉ có 37 cuốn, in lại lần này ! Vì không có thời gian để sửa chữa nên hoàn toàn in lại sách cũ.
Chúng ta có cuộc sống khác nhau trên những giai tầng xã hội, cung bậc tình cảm, cảnh giớitâm linh. Danh vọng hay vô danh, chức quyền hay thường dân, sung túc hay đói nghèo, khỏe mạnh hay yếu đuối... cũng có thể trắng tay, đoản mạng, đói khát, hãi hùng dưới sự tàn phá khủng khiếp của thiên tai.
Đời sống của con ngườithọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu, mà phải trải qua bao cuộc thăng trầmvinh nhục, đau thương và sợ hãi.
Có thể nói, sự phá hoại từ bên trong là sự phá hoại nguy hiểm nhất. Những người khoác áo Phật gia nhưng không chân tu đã làm diện mạo Phật Pháp bị hoen ố, khó lý giải và trở thànhdị đoan trong mắt người đời. Đó là tội ác, cũng là sự phá hủycon đường mà Phật Đà lưu lại cho thế nhân.
New Posting: Nguyệt san Chánh Pháp số 155 1 tháng 10 năm 2024: Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tửxuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hànhđúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc.
NEW POSTING: Phần II Chương 2 (tiếp theo): Chủ đích trước nhất của loạt sách này là đề nghị các bản chuyển ngữ các bài giảng của Đức Phật sang tiếng Việt, không pha lẫn quá nhiều tiếng Hán, với hy vọng mang nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đấng Thế Tônđến gần hơn với thế hệ ngày nay. Chủ đích sau đó là sắp xếp các bài thuyết giảng theo từng chủ để, khác hơn với cách sắp xếp thường thấy, chủ yếu dựa vào chiều dài của các bài giảng, hoặc gộp chung các câu và các bài giảng ngắn theo từng tập hoặc từng thể loại. Cách sắp xếp đó có thể khiến người đọc khó nắm bắt được nền tảng, nội dung và sự mạch lạc trong nền Tư tưởng và Giáo huấnsiêu việt của Đấng Thế Tôn.
Điện tín Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gửi đến tất cả các Cơ quan Ngoại giao Hoa Kỳ. Chúng ta hiện nay, dự kiến sẽ công nhận chế độ mới ở Sài Gòn vào đầu tuần tới. Tất cả các phái bộ [ngoại giao Hoa Kỳ], đặc biệt là ở Tây Bán cầu, nên chuẩn bị giải thích đầy đủ về quyết định này và phân biệtrõ ràng giữa cơ sở của việc này và sự chống đối của Hoa Kỳ đối với các cuộc đảo chính quân sự chống lại các chế độ dân chủ ở những nơi khác. Các yếu tố khác biệt là: Chế độ Diệm đã trở thành công cụ của toàn bộquyền lựccá nhân của một gia đình; Chế độ Diệm không chỉ bị quần chúngnhân dânphản đối sâu sắc mà ngày càng bị các quan chức cấp cao, dân sự và quân sự của chính họ phản đối. Ngược lại, có thể nói như sau về chính phủ của những người lính và những người dân thường lãnh đạo hiện đang nắm quyền kiểm soát: Chính phủ này nhanh chóng đảo ngược sự đàn áp của chế độ trước và có sự ủng hộrõ ràng và phổ biến của người dân; Chính sách đã tuyên bố của chính phủ là chuyển giaoquyền lực chính trị,.......
Sự hiện diệnPhật giáo Việt Nam tại Mỹ đã có hơn nửa thế kỷ, gắn liền với dòng chảy của lịch sử tỵ nạn và di dân sau chiến tranh và các biến cố chính trị. Trong suốtthời kỳ đầu, nhiều vị Tăng Ni đến Mỹ trong bối cảnh tị nạn, tuổi đã cao và gặp khó khăn trong việc hòa nhập vào xã hội mới do rào cản ngôn ngữ, văn hóa. Điều này đã dẫn đến một hình thứchoằng pháp tập trung chủ yếu vào cộng đồng người Việt.
“Kinh Chú Tâm Tỉnh Giác” là một trong hai bài kinh căn bản mà Đức Phật đã nêu lên một phép luyện tập vô cùng thiết thực, cụ thể và trực tiếp về thiền định, đó là phép thiền định chú tâm thật tỉnh giác và thật mạnh vào bốn lãnh vực thân xác, cảm giác, tâm thức và các hiện tượng tâm thần từ bên trong chúng.
Nguyễn Bá Chung cùng quê hương đại thi hào Nguyễn Trãi. Một sớm tinh mơ nào, vào cuối thu 1949, nhà thơ mở mắtchào đời nơi vùng quê Định Giàng, Đại Đức, cách chân núi Chí Linh, Hải Dương một đường chim bay. Khoảng giữa năm 1954, mới vừa 6 tuổi đã vội vã chạy theocha mẹ di cư vào Sài Gòn. Bản chấtthông minh, học hành quá xuất sắc, nên được Đại học Brandeis cấp học bổng du học tự túc Hoa Kỳ (1971) và sống định cư luôn bên Mỹ, từ đó cho đến bây giờ.
Tin nhân quả làm chúng taan tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả. Và mọi lộn xộn, thậm chí hỗn loạn của đời sống một cá nhân hay của xã hội đều là do thiếu nhận thức về nhân quả và không sống theo nhân quả.
Tựa tiếng Anh: The importance of meditation
Thiền sư: Ajahn Brahm (Brahmavaṃso)
Địa điểm: Temple Tree, Colombo, Sri Lanka
Năm: 2017
Nguồn: Buddhist Society of Western Australia
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo phápTrung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu. Làm sao mình có thể đạt được chỗ không trụ?
Điện tín từ Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân (Tướng Taylor) gửi Tư lệnh Quân Viện Giúp VN (Tướng Harkins). Từ tình hìnhhỗn loạnhiện tại ở Sài Gòn, tất cả chúng ta đều hy vọng sẽ xuất hiện một chính phủ mạnh mẽ có khả năng tiến hành chiến tranh với hiệu quả cao hơn. Tôi đang nghĩ đến những điều như thiết lập một kênh chỉ huyrõ ràng và mối quan hệ hiệu quả hơn giữa các chỉ huy chiến trường và các tỉnh trưởng. Liên quan đến những điều trên là mối quan tâm của tôi về tác độngtiêu cực có thể xảy ra của sự thay đổi trong chính quyền đối với các tỉnh trưởng. Ấn tượng của tôi là chúng ta nhìn chung hài lòng với các nhân sự này, những người hiện đang đảm nhiệm một vai trò quân sự rất quan trọng trong việc tiến hành chiến tranh. Ông có cho rằng có khả năng thay thế toàn bộ những người đương nhiệm hiện tạidựa trên mối quan hệ trước đây của họ với chính quyền Diệm không? Rõ ràng là chúng ta có lợi ích trong việc ngăn chặn việc loại bỏ những người chỉ huyhiệu quả .....
Chúng ta ở đây; chúng tatồn tại và chúng ta có quyền hiện hữu. Ngay cả những sinh vật không có tri giác như hoa cũng có quyền tồn tại. Nếu một lực tiêu cực gây sức ép với hoa, thì về phương diện hóa học, hoa sẽ tự hồi phục để tồn tại. Nhưng hơn thế nữa, con ngườichúng tabao gồm cả côn trùng, thậm chí những vi sinh như a-míp, cũng được xem là chúng sinhhữu tình. Như vậy là sinh vật có tri giác, chúng ta lại có càng nhiều cơ chế để giúp chúng tatồn tại.
Giáo lý Tịnh Độ được Đức Phật Thích Ca Mâu Nithuyết giảng trong ba bộ kinhTịnh Độ, đó là: Kinh Vô Lượng Thọ; Kinh Quán PhậtVô Lượng Thọ; và Kinh A Di Đà. Trong những kinh này, Đức Phật khuyên chúng ta hãy khao khát được tái sinh vào cõi Cực Lạc của Đức PhậtA Di Đà bằng cách độc nhất niệmdanh hiệuĐức PhậtA Di Đà.
- Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Thứ tự Kinh văn số 1648. Hán văn từ trang 399 đến trang 461 gồm có 12 quyển.
- Ngài A La Hán Ưu Ba Đề Sa (Uptissa) còn gọi là Đại Quang tạo luận nầy và vào đời nhà Lương được Ngài Tam TạngTăng Già Bà La (Samghaphala) nước Phù Nam dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán.
- Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu ViệnĐa Bảo, Úc Đại Lợi nhân lần nhập thất thứ ba tại đây.
Bắt đầu dịch luận nầy vào ngày 10 tháng 12 năm 2005.
Có những ngày Xíu thấy bình an vô sự, lòng thanh thảnvô cùng. Ở cái thế giớihữu sự, đa sự, nhiễu sự này mà sống được những phút giây vô sự quả là không dễ tí nào; khó thì khó thật đấy nhưng vẫn có thể có được. Điều này nó phụ thuộc vào phước báo của bản thân và cái thuận duyên của môi trường sống; quan trọng vẫn là ở cái nhận thức, suy nghĩ và hành động. Nói gọn hơn, bao quát hơn chút là ngay tại cái tâm mình.
Khi chúng tathức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai. Tôi không thể nhớ lại có một ngày nào mà không nghe báo cáo một chuyện khủng khiếp xảy ra ở đâu đó. Ngay cả trong thời hiện đại này cũng rõ ràng rằng cuộc sống quý giá của con người là không an toàn.
Điện tín từ Bộ Tư lệnh Quân Viện cho VN (Tướng Harkins) gửi Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân (Tướng Taylor). Mặc dù vấn đề khá rõ ràng vào đêm qua, nhưng phải đến một cuộc tấn công dữ dội vào Dinh, bởi một lực lượng vượt trội hơn nhiều, mới dẫn đến sự đầu hàng. Diệm vẫn ngoan cố đến cùng; thực tế là khi Tướng Tôn Thất Đính, với tư cách là chỉ huy chiến thuật, đã gọi điện cho Tổng thống Diệm lúc 0600H, Diệm đã yêu cầu lực lượng đảo chính đầu hàngngay lập tức. Cuộc tấn công dữ dội thực sự bắt đầu vào khoảng 04:00 giờ sáng. Vào thời điểm này, chúng ta vẫn chưa có ước tính về thương vong, ngoại trừ những người tham giabảo vệ doanh trại của Quân phòng vệ Phủ Tổng thống, tôi tin rằng thương vong là nhẹ. Ít nhất 5 xe tăng đã bị trúng đạn và bị đốt cháy trong khu vực lân cận Phủ Tổng thống. Tướng Tôn Thất Đính, phó của ông Đính là Đại tá Nguyễn Hữu Có, và Đại tá Tư lệnh Sư đoàn 5 là Đại tá Nguyễn Văn Thiệu, là những nhân vật chủ chốt ở cấp tác chiến...
Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởng và tâm nguyện của Phật.
Hoa Nghiêm tiếng Phạn là Avatamsaka, có nghĩa là đóa hoa thanh khiết tuyệt đẹp nhất trần gian, ngát hương khắp mười phương các cõi pháp giới.
Tư tưởng Hoa Nghiêm trình bày vạn pháp do tâm sanh.
Tứ niệm xứ là bốn đối tượng thiền quán để trụ tâm hay bốn cách Thiền theo Phật giáo để diệt trừảo tưởng và đạt thành giác ngộ có nguồn gốc từ thời Đức Phật. Phật giáo nguyên thủy gọi những phương pháp nầy là “nghiệp xứ” (kammatthana), là một trong những phương pháptư duyphân biệt. Có lối bốn mươi pháp Thiền như vậy được liệt kê trong Thanh Tịnh Đạo Luận (Visuddhi-Magga) bao gồmTứ Vô Lượng Tâm, Mười Bất Tịnh, Bố Vô Sắc, Mười Biến Xứ, Mười Niệm, Một Tướng và Một Tưởng. Theo Phật giáo, niệm xứ có nghĩa là dùng trí để quán sát cảnh
Niệm Phật không phải để được đức Phật rước về Tịnh độ sau khi qua đời. Niệm Phật quan trọng nhất là để thanh tịnh hoá tâm thức ở hiện tại, sống an lạc và thảnh thơi, thiết lập Tịnh Độ tại trần gian đau khổ này. Dưới con mắt thiền quán và niệm Phật nhất tâm bất loạn, thế giới Ta-bà này chính là Tịnh độ hiện tiền.
Kinh A-di-đà mà quý vị đang có trên tay còn được gọi là
Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh, Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm
Kinh, Tiểu Vô Lượng Thọ Kinh, Kinh Tiểu Bản Di-đà hay gọi
tắt là Tiểu Kinh, được dịch từ bản chữ Hán của ngài Cưuma-la-thập. Bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập tuy không sát
nguyên tác như bản của ngài Huyền Tráng (Xưng Tán Tịnh
Độ Phật Nhiếp Thụ Kinh), nhưng vì tính chất súc tích và thi
điệu tứ tự của nó đã làm cho nó trở nên phổ biến nhất và được
chọn làm tụng bản trong các ngôi chùa tu theo Tịnh Độ.
A brilliant modern translation by Bhikkhu Nyanatusita. Căn cứ theo các nhà khảo cổ và học giả Phật giáo, bộ Giải Thoát Đạo Luận được Ngài A-la-hán Upatissa (Ưu-ba-đế-sa, trùng tên với Ngài Xá-lợi-phất) sáng tác vào thế kỷ thứ nhứt Tây lịch, bằng tiếng Pàli, dưới nhan đề là Vimuttimagga. Đến thế kỷ thứ sáu, bộ Luận được Ngài Tam tạng pháp sư Sanghapala (Tăng-già-ba-la), ở nước Lương Phù Nam, dịch sang tiếng Hán, in vào Hán Tạng, dưới nhan đề là Giải Thoát Đạo Luận. Ở Tích lan, nguyên tác đã bị mất hẳn, các tu sĩPhật giáoNam tông mới lấy bản Hán văn dịch ngược lại ra tiếng Pàli, và ra Anh ngữ dưới nhan đề The Path of Freedom. Bản dịch tiếng Việt được dịch bởi Hòa thượng Thích Như Điển.
Một trong những đặc điểm của đời sốngxuất gia là du hành. Không thường ở một nơi cố định, Tỳ-kheo có thể tùy duyênvân dugiáo hóa. Đức Phật cũng tán thán hạnh du hành, không khuyến khích các Tỳ-kheo sống quá lâu tại một nơi. Tuy vậy, nếu Tỳ-kheo du hànhtrường kỳ lại bị Ngài quở trách.
Ghi chú của ban biên tập kho sử liệu. Vào ngày 2 tháng 11 năm 1963, Tổng thống Kennedy đã tổ chức một cuộc họp không chính thức tại Bạch Ốc với các cố vấn chính của ông về Việt Nam. Taylor kể lại rằng cuộc họp bắt đầu khi số phận của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu vẫn chưa được biết, nhưng Michael Forrestal (viên chức Hội ĐồngAn ninhQuốc gia) đã mang đến một bản sao của một bức điện tín nói rằng Diệm và Nhu đã chết và được cho là đã tự tử. Tướng Taylor mô tảphản ứng của Tổng thống như sau: “Kennedy bật dậy và chạy vội ra khỏi phòng với vẻ mặtkinh ngạc và thất vọng mà tôi chưa từng thấy trước đây. Ông luôn nhấn mạnh rằng đừng bao giờ để Diệm chịu đựng nhiều hơn cảnh lưu đày và Kennedy đã được thuyết phục để tin hoặc tự thuyết phục mình rằng có thể thay đổi chính phủ Diệm mà không cần đổ máu.” Theo Schlesinger, Kennedy nghi ngờ chuyện anh em nhà Ngô, với tư cách là những người Công giáo sùng tín, có thể tự tử và ông cảm thấy rằng, sau 20 năm phục vụ Nam Việt Nam, cuộc đời của Diệm khô
Khái niệm về sự tái sinh không phải là một khái niệm đặc thù của Phật Giáo mà đấy chỉ là một học thuyết chủ trương sự « đầu thai » (métempsychose / metempsychosis, rebirth), Học thuyết này phát sinh từ một chủ thuyết bí truyền (esotericism) thiếu hẳn sự minh bạch và chủ xướng một linh hồn có thể trú ngụ trong nhiều thân xác khác nhau. Đấy cũng chẳng khác gì với các trò chơi điện tử mà người chơi phải trải qua nhiều « kiếp sống » thì sau đó mới thắng được (tức đội lốt một nhân vật nào đó trong cuộc chơi và phải chơi đi chơi lại nhiều lần cho « quen tay » thì mới thắng được). Quan điểm ấy mang tính cách tự xem mình là trung tâm và vì thế là những gì hoàn toàn trái ngược lại với giáo huấn của Đức Phật.
Thư Ngỏ của Tỳ kheo Thích Giác Tâm
Thế danh: Trương Mậu Nam
Hiện trụ trì tại: Chùa La, thôn Cẩm Liên, xã Cẩm La, Tx Quảng Yên, T Quảng Ninh, nước Việt Nam
Do ảnh hưởng trực tiếp từ bão Yagi quá mạnh đổ bộ trực tiếp vào Quảng Ninh nên chùa con bị thiệt hại nặng nề. Trụ xứ chúng con có 9 chú tiểu là trẻ mồ côi con nhận cưu mangnuôi dưỡng, đang ở mái che tạm.
Đây là lần thứ hai tôi đến Tu Viện Gaden Shartse Thubten Dhargye Ling (còn được gọi là Chùa TDL) tại Thành Phố Long Beach, Miền Nam California, Hoa Kỳ. Lần đầu tôi đến đây cách nay vài năm để làm phóng sự cho pháp sựkiến tạoMạn Đà La do chư Tăng từ Tu Viện Gaden Shartse Monastery tại Ấn Độ sang thực hiện.
Phái đoànHoằng PhápÂu Mỹ đã đến thăm Orange County và tổ chức buổi cơm chay "Gây Quỹ Xây Dựng Học Viện Phật GiáoViên Giác tại Đức Quốc" vào thứ bảy ngày 5/10/2024 tại trung tâm Sangha, 7641 Talbert Avenue, thành phố Huntington Beach....Kiều Mỹ Duyên có buổi phỏng vấnHòa Thượng Thích Như Điển và Hòa Thượng Thích Thông Triết vào thứ hai ngày 7/10/2024 trên đài truyền hình VBS 57.6 cùng cô Thu Anh, chuyên viên địa ốc.
Ăn thịt chó lâu lâu lại nổi lên như một vấn đề trọng đại của đất nước, kéo theo những cuộc biểu tình, phản đối làm đau đầu chính phủ. Và người ta đã xót xa, lên án những người hành hạ chó hay ăn thịt chó. Đặc biệt trong thế giới Tây Phương và Hoa Kỳ. Mới đây trong cuộc tranh luận với Bà Harris trên đài truyền hình ABC, Ô. Trump nói rằng di dân Haiti ở Tiểu Bang Ohio đã ăn thịt thú cưng (chó mèo) khiến gây phản ứng phẫn nộ, thậm chí dọa giết khiến cộng đồng ở đây vô cùng lo sợ. Thế nhưng theo sở cảnh sát Springfield, nguồn tin trên không có gì đáng tin cậy và không có chuyện thú cưng bị hại hay làm bị thương hay hành hạ bới người dân ở đây. Đấy người ta yêu thú vật như thế đó và sẵn sàng giết người, bạo động để bảo vệ thú vật.
Trong những khóa thiền TứNiệm Xứ online và Nhận Diện & Quản LýCảm Xúc offline, sẽ giúp cho các thiền sinhvượt qua những lo lắng, sợ hãi, rối loạnlo âu và trầm cảm, và đối diện với những thử tháchtrong đời sống với chánh niệm& tỉnh giác
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính chia sẻ cùng chư Tôn đức, Pháp hữu và qúy Phật Tử lịch trình Hoằng Pháp, sinh hoạttu học với sự chia sẻ của Th Tánh Tụê cùng với sự hiện diện của chư Tôn đức tham dự trong tháng 9.
Mùa thu đã về, và như thông lệ, chùa Sắc TứKim Sơn lại hân hoan tổ chức Khóa Tu Mùa Thu, một trong bốn khóa tu Xuân - Hạ - Thu - Đông diễn ra mỗi năm. Khóa tu này sẽ kéo dài trong 3 ngày, từ 13/9/2024 đến 15/9/2024.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.