(煩惱) Phạm: Kleza. Pàli:Kilesa. Hán âm: Cát lệ xá. Cũng gọi Hoặc. Gọi chung những
tác dụng tinh thần làm cho tâm
hữu tình bấn loạn, buồn sầu,
khổ não. Để đạt
mục đích tham muốn,
thỏa mãn những
dục vọng của cái ta mà
con người có
ý thức hoặc
vô ý thức thường đắm chìm trong cảnh buồn vui nên bị
phiền não trói buộc. Trong tất cả
các loại tác dụng tâm,
giác ngộ là
mục đích cao nhất trong
Phật giáo, cho nên bất luận
tác dụng tinh thần nào làm trở ngại sự
thực hiện giác ngộ đều được gọi là
phiền não.
Phiền não tùy theo tính chất có nhiều tên gọi như:
Tùy miên (Phạm: Anuzaya), Triền (Phạm:Paryavasthàna), Cái (Phạm: Nivaraịa), Kết (Phạm:Saôyojana), Phược (Phạm: Bandhana), Lậu (Phạm: Àsrava), Thủ (Phạm: Upàdàna), Hệ (Phạm: Grantha), Sử, Cấu,
Bạo lưu, Ách,
Trần cấu,
Khách trần... Nếu phân loại thêm nữa thì rất
phức tạp, nhưng thông thường cho Tham, Sân, Si là nguồn gốc của tất cả
phiền não và chia làm 2 loại là
Căn bản phiền não (
phiền não gốc) và Chi mạt
phiền não (
phiền não ngọn).
Căn bản phiền não có 6: Tham, Sân, Si (
Vô minh),Mạn, Nghi và Kiến (
Ác kiến); trong đó, Kiến lại được chia làm 5 thứ:
Thân kiến,
Biên chấp kiến,
Tà kiến,
Kiến thủ kiến và
Giới cấm thủ kiến, gọi chung là Thập
phiền não (
Thập sử). Chi mạt
phiền não thì
tùy thuộc vào
Căn bản phiền não mà
sinh khởi, theo
luận Câu xá thì có 19 thứ gồm:
Phóng dật,
giải đãi..., còn theo luận
Duy thức thì có 20 thứ gồm:
Thất niệm,
tán loạn,
bất chính tri...
Ngoài ra còn có các
phương pháp phân loại như:
Tam lậu,
Tam kết,
Tứ bạo lưu,
Tứ thủ,
Ngũ cái,
Ngũ kết,
Lục cấu,
Thất lưu,
Thập triền..., hoặc gọi là Bát bách
phiền não (108
phiền não), hoặc vì cách tính toán khác nhau, nên có các thuyết bất đồng như
Bát vạn tứ thiên phiền não (84.000
phiền não). [X. luận Nhập
a tì đạt ma Q.thượng; luận Đại
tì bà sa Q.43, 46, 60;
luận Câu xá Q.20, 21; luận
Phật tính Q.3;
luận Thành duy thức Q.6].