(禪宗): lược xưng của
Tọa Thiền Tông (坐禪宗, Zazen-shū), còn gọi là
Phật Tâm Tông (佛心宗),
Đạt Ma Tông (達磨宗),
Vô Môn Tông (無門宗); chỉ
tông phái của
Phật Giáo Đại Thừa, lấy
Bồ Đề Đạt Ma (s: Bodhidharma, 菩提達磨, ?-495, 346-495, ?-528, ?-536) làm
sơ Tổ,
tham cứu bản nguyên của
tâm tánh với
yếu chỉ “kiến tánh
thành Phật (見性成佛, thấy tánh
thành Phật)”,
chuyên tu ngộ đạo theo
Thiền pháp của
Đạt Ma truyền thừa. Đây là một trong 13
tông phái của
Phật Giáo Trung Quốc, và cũng là một trong 13
tông phái của
Phật Giáo Nhật Bản. Từ
ngày xưa ở
Trung Quốc hệ thống của những người
chuyên tu tọa Thiền được gọi chung là
Thiền Tông; vì thế trong đó ngoài Đạt MaTông ra, còn có
Thiên Thai Tông và
Tam Luận Tông, nhưng từ giữa thời nhà Đường trở đithì chỉ có Đạt MaTông mới được gọi là
Thiền Tông mà thôi. Theo
truyền thuyết cho rằng
ngày xưa khi
đức Phật Thích Ca đang ở trên
Hội Linh Sơn,
lúc ấy ngài cầm cành hoa
Kim Ba La Hoa (金波羅華) do
chư thiên đem dâng cúng, đưa ra trước
hội chúng hơn 80.000 người.
Đại chúng hết thảy đều ngẩn ngơ
im lặng mà không thể nào hiểu được thâm ý của
đức Như Lai thế nào. Khi ấy chỉ có
một mình tôn giả Ma Ha Ca Diếp (s: Mahākāśyapa, 摩訶迦葉) mĩm cười mà thôi. Thấy vậy
đức Phật bảo với
tôn giả rằng: “Ngã hữu
chánh pháp nhãn tạng,
Niết Bàn diệu tâm,
thật tướng vô tướng,
phó chúc dữ nhữ (我有正法眼藏、涅槃妙心、實相無相、微妙法門、付囑與汝, ta có
chánh pháp nhãn tạng,
Niết Bàn diệu tâm,
thật tướng không tướng,
phó chúc cho ngươi)”, và truyền trao
chánh pháp cho vị này. Đây được
xem như là khởi nguyên của
Thiền Tông.
Câu chuyện này được ghi lại trong Phẩm
Niêm Hoa (拈華品) thứ 2 của
Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi Kinh (大梵天王問佛決疑經, 卍 Tục
Tạng Kinh Vol. 1, No. 27) và không phải là
sự thật mang tính
lịch sử. Thế nhưng ở
Trung Quốc, Thiền từ thời
Lục Tổ trở đi thì chú trọng đến
vấn đề gọi là “dĩ
tâm truyền tâm,
giáo ngoại biệt truyền (以心傳心、敎外別傳)”, nên
câu chuyện phú pháp
tương thừa của
Ca Diếp cũng được xem trọng.
Ca Diếp sau đó
truyền pháp này lại cho
A Nan (s: Ānanda, 阿難), từ
A Nan đến
Thương Na Hòa Tu (s: Śāṇakavāsa,商那和修),
Ưu Bà Cúc Đa (s: Upagupta, 優婆毱多),
Đề Đa Ca (s: Dhṛtaka, 提多迦), Di Giá Ca (s: Miccaka, 彌遮迦),
Bà Tu Mật (s: Vasumitra, 婆須蜜),
Phật Đà Nan Đề (s: Buddhanandi, 佛陀難提),
Phục Đà Mật Đa (s: Buddhamitra, 伏駄蜜多), Ba Lật Thấp Bà (s: Pārśvika, 波栗濕婆),
Phú Na Dạ Xà (s: Puṇyayaśas, 富那夜奢),
A Na Bồ Đề (s: Aśvaghoṣa, 阿那菩提, tức
Mã Minh [馬鳴]),
Ca Tỳ Ma La (s: Kapiñdjala, 迦毘摩羅),
Na Già Yên Thích Thọ Na (s: Nāgārjuna, 那伽閼刺樹那, tức
Long Thọ [龍樹]),
Ca Na Đề Bà (s: Kāṇadeva, 迦那提婆, tức
Thánh Thiên [聖天]),
La Hầu La Đa (s: Rāhulata, 羅詭羅多),
Tăng Già Nan Đề (s: Sañghānandi, 僧伽難提),
Ca Da Xá Đa (s: Gayāśata, 迦耶舍多),
Cưu Ma La Đa (s: Kumāralabdha, 鳩摩羅多),
Xà Dạ Đa (s: Gayata, 闍夜多), Bà Tu
Bàn Đầu (s: Vasubandhu, 婆修盤頭, tức
Thế Thân [世親]),
Ma Nã La (s: Manorhita, 摩拏羅),
Hạc Lặc Na (s: Haklenayaśas, 鶴勒那),
Sư Tử Bồ Tát (s: Siṁhabhikśu, 師子菩薩),
Bà Xá Tư Đa (s: Basiasita, 婆舍斯多),
Bất Như Mật Đa (s: Purjamitra, 不如蜜多),
Bát Nhã Đa La (s: Prajñātara, 般若多羅),
cho đến Bồ Đề Đạt Ma (s: Bodhidharma, 菩提達磨) như vậy là 28 vị tổ
tương thừa, được gọi là
Tây Thiên Nhị Thập Bát Tổ (西天二十八祖, Hai Tám Vị
Tổ Ấn Độ). Sau khi
Bồ Đề Đạt Ma sang miền
Đông Độ Trung Hoa thì truyền lại cho
Huệ Khả (慧可), rồi
Huệ Khả truyền thừa kế tiếp cho
Tăng Xán (僧璨),
Đạo Tín (道信),
Hoằng Nhẫn (弘忍)
cho đến Huệ Năng (慧能). Đây được gọi là
Đông Độ Lục Tổ (東土六祖,
Sáu Vị Tổ Trung Hoa).
Cụ thể, vào
trong khoảng niên hiệu
Phổ Thông (普通, 520-527) đời vua Võ Đế (武帝, tại vị 502-449) nhà Lương, Tổ
Bồ Đề Đạt Ma từ
Nam Thiên Trúc (南天竺) đến Kiến Nghiệp (建業,
Nam Kinh [南京] ngày nay), truyền tông này vào Trung Hoa; nên được gọi là
Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa.
Ban đầu,
Đại Sư đến
yết kiến vua
Lương Võ Đế, nhưng không khế hợp
cơ duyên, bèn vào
Thiếu Lâm Tự (少林寺) ở
Tung Sơn (嵩山) ngồi xoay mặt vào tường 9 năm;
vì vậy người đời gọi
Đại Sư là
Bích Quán Bà La Môn (壁觀婆羅門). Kế đến,
Thần Quang (神光, tức
Huệ Khả [慧可]) đứng ngoài tuyết lạnh chặt cánh tay dâng lên để bày
tỏ ý chí
cầu đạo,
cuối cùng được
Tổ Sư Đạt Ma truyền tâm ấn cho, làm Tổ thứ 2 của
Thiền Tông Trung Hoa.
Huệ Khả truyền cho
Tăng Xán (僧璨);
Tăng Xán truyền cho
Đạo Tín (道信) và làm cho tong này hưng thịnh. Môn hạ của
Đạo Tín có hai nhân vật
kiệt xuất là
Hoằng Nhẫn (弘忍) và
Pháp Dung (法融). Môn hạ của
Pháp Dung thì có
Trí Nghiễm (智儼),
Huệ Phương (慧方),
Pháp Trì (法持), v.v. Vì pháp hệ này trú tại
Ngưu Đầu Sơn (牛頭山) ở Kim Lăng (金陵),
thế gian gọi là
Ngưu Đầu Thiền (牛頭禪) với
yếu chỉ là “dục đắc tâm tịnh,
vô tâm dụng công (欲得心淨、無心用功, muốn được tâm tịnh,
dụng công với
vô tâm).”
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn trú tại
Hoàng Mai Sơn (黃梅山), Kì Châu (蘄州, Hồ Bắc [湖北]), xiển dương áo chỉ của
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh (s: Vajracchedikā-prajñāpāramitā-sūtra, 金剛般若波羅蜜經); có một số
môn đệ xuất sắc như Ngọc Tuyền
Thần Tú (玉泉神秀), Đại Giám
Huệ Năng (大鑑慧能),
Tung Sơn Huệ An (嵩山慧安),
Mông Sơn Đạo Minh (蒙山道明), Tư Châu
Trí Tiển (資州智侁), v.v. Trong số
đồ chúng của
Ngũ Tổ,
Thần Tú được
xem như là
thượng thủ, nên gọi là Tú
Thượng Tọa (秀上座). Sau khi
Ngũ Tổ qua đời,
Thần Tú chấn tích ở phương Bắc,
vì vậy có tên là Bắc Tú (北秀); được tôn xưng là Tổ của
Bắc Tông Thiền (北宗禪). Thiền phái này lấy
Trường An (長安),
Lạc Dương (洛陽) làm
trung tâm, xiển dương
đạo pháp và hưng thịnh
trong vòng khoảng 100 năm. Môn hạ của
Thần Tú có
Tung Sơn Phổ Tịch (嵩山普寂), Kinh Triệu
Nghĩa Phước (京兆義福), v.v.,
truyền thừa được 4, 5 đời thì tuyệt dứt.
Ngoài ra,
Tung Sơn Huệ An khai sáng Lão
An Thiền (老安禪); còn Tư Châu
Trí Tiển thì
cổ xướng Nam Tiển Thiền (南侁禪). Về
trường hợp Đại Giám
Huệ Năng, nhân một
bài kệ mà được
Ngũ Tổ ấn khả, truyền cho ý bát,
kế thừa làm
Lục Tổ. Sau đó, sư đi
lánh nạn ở phương Nam, trú tại
Tào Khê (曹溪), Thiều Dương (韶陽, Quảng Đông [廣東]), cử xướng
Thiền phong, được
tôn sùng là Tổ của
Nam Tông Thiền (南宗禪). Vì
tông phong của
Nam Tông và
Bắc Tông có khác nhau, nên có thuyết
Nam Đốn Bắc Tiệm (南頓北漸).
Đệ tử nối dòng pháp của
Huệ Năng có hơn 40 người; các nhân vật
trứ danh phải kể đến là
Nam Nhạc Hoài Nhượng (南嶽懷讓),
Thanh Nguyên Hành Tư (青原行思),
Nam Dương Huệ Trung (南陽慧忠),
Vĩnh Gia Huyền Giác (永嘉玄覺),
Hà Trạch Thần Hội (荷澤神會), v.v. Trong đó,
Hà Trạch Thần Hội thì khai sáng
Hà Trạch Tông (荷澤宗), tận lực
đề xướng pháp môn Đốn Ngộ, lấy “nhất niệm bất khởi (一念不起, một niệm không dấy khởi)” để ngồi, và “liễu kiến
bản tánh (了見本性, thấy rõ
bản tánh)” để Thiền.
Nam Nhạc Hoài Nhượng thọ
tâm ấn từ
Lục Tổ, đến trú tại
Bát Nhã Tự (般若寺), tiếp hóa
đồ chúng trong vòng 30 năm;
kế thừa dòng pháp có 9 vị và
Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一) được
xem như là bậc nhất. Về sau,
Mã Tổ cử xướng
Thiền pháp tại Cung Công Sơn (龔公山),
Giang Tây (江西),
cơ phong sắc bén, khai sáng
Thiền phong đánh hét độc đáo, được
thế gian gọi là
Hồng Châu Tông (洪州宗).
Mã Tổ chủ trương rằng những
hoạt động thường ngày như
khởi tâm động niệm, dương lông mày, chớp mắt, v.v., đều là
Phật tánh; nên có thuyết gọi là “kiến tánh thị Phật (見性是佛, thấy tánh là Phật)” hay “tánh tại
tác dụng (性在作用, tánh ở nơi
tác dụng).” Môn hạ của
Mã Tổ có hơn 100 người, có các Thiền
kiệt xuất như
Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海),
Nam Tuyền Phổ Nguyện (南泉普願),
Tây Đường Trí Tàng (西堂智藏),
Đại Mai Pháp Thường (大梅法常),
Chương Kính Hoài Huy (章敬懷暉),
Đại Châu Huệ Hải (大珠慧海), v.v. Kể từ khi
Hoài Hải sáng kiến Thiền sát, lập ra
Thanh Quy,
Thiền Tông bắt đầu
thoát ly khỏi chế độ các
Thiền tăng phải
nương náu vào chùa
Luật Tông.
Môn lưu của Bách Trượng có
Hoàng Bá Hy Vận (黃檗希運),
Quy Sơn Linh Hựu (潙山靈祐), v.v.
Đệ tử của
Hy Vận thì có
Lâm Tế Nghĩa Huyền (臨濟義玄). Sau này,
Nghĩa Huyền chủ xướng ra
Tam Huyền Tam Yếu (三玄三要),
Tứ Liệu Giản (四料簡), v.v., để tiếp hóa
đồ chúng,
cơ phong nghiêm mật;
môn đồ theo rất đông, hình thành
Lâm Tế Tông (臨濟宗). Lúc bấy giờ thuộc cuối thời nhà Đường. Đến nhà Tống, từ
Lâm Tế Nghĩa Huyền kinh qua
Hưng Hóa Tồn Tương (興化存獎),
Nam Viện Huệ Ngung (南院慧顒),
Phong Huyệt Diên Chiểu (風穴延沼),
Thủ Sơn Tỉnh Niệm (首山省念), Phần Dương Thiện Chiểu (汾陽善沼), truyền
cho đến Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓). Trong khi đó, môn hạ
Hoàng Long Huệ Nam (黃龍慧南),
Dương Kì Phương Hội (楊岐方會) lại hình thành hai phái Hoàng Long và Dương Kì, cùng
tồn tại với
Tào Động (曹洞),
Vân Môn (雲門). Riêng
Quy Sơn Linh Hựu thì trú tại Đàm Châu (潭州,
Hồ Nam [湖南]), người đến
tham học lên đến 1.500; trong đó,
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (仰山慧寂) là
nổi tiếng nhất, được gọi là
Quy Ngưỡng Tông (潙仰宗). Môn hạ của
Thanh Nguyên Hành Tư có
Thạch Đầu Hy Thiên (石頭希遷), soạn bản
Tham Đồng Khế (參同契); cùng với
Mã Tổ được gọi là hai bậc
long tượng vĩ đại.
Đệ tử của
Thạch Đầu lại có
Dược Sơn Duy Nghiễm (藥山惟儼),
Đơn Hà Thiên Nhiên (丹霞天然),
Thiên Hoàng Đạo Ngộ (天皇道悟). Hệ phái của
Dược Sơn xuất hiện Vân Nham Đàm Thịnh (雲巖曇晟),
Động Sơn Lương Giới (洞山良价),
Vân Cư Đạo Ưng (雲居道膺),
Tào Sơn Bổn Tịch (曹山本寂), v.v., hình thành nên
Tào Động Tông (曹洞宗).
Thiên Hoàng Đạo Ngộ thì truyền xuống 3 đời đến
Tuyết Phong Nghĩa Tồn (雪峰義存), chấn tích ở
Tuyết Phong Sơn (雪峰山), Phúc Châu (福州);
từ pháp có hơn 50 vị; trong số đó có
Vân Môn Văn Yển (雲門文偃) là người phát huy
Thiền phong độc diệu, hình thành nên
Vân Môn Tông (雲門宗). Bên cạnh đó, có
Huyền Sa Sư Bị (玄沙師僃), truyền xuống cho
La Hán Quế Sâm (羅漢桂琛),
Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益).
Văn Ích trú tại
Thanh Lương Tự (清涼寺), Kim Lăng (金陵), khai sáng
Pháp Nhãn Tông (法眼宗).
Hệ thống này có các
cao tăng như
Thiên Thai Đức Thiều (天台德韶),
Vĩnh Minh Diên Thọ (永明延壽),
Vĩnh An Đạo Nguyên (永安道原), v.v. Trong đó,
Đức Thiều được
xem như là
Trí Khải tái lai;
Diên Thọ thì soạn bộ
Tông Kính Lục (宗鏡錄), xem trọng giáo học; còn
Đạo Nguyên thì viết bộ
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄), làm
sáng tỏ hệ phổ của
Đạt Ma Thiền. Trừ các
tông phái đã nêu trên, theo
Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự (禪源諸詮集都序, Taishō Vol. 48, No. 2015) của
Khuê Phong Tông Mật (圭峰宗密)
cho biết, các
giáo phái Thiền Tông dưới thời nhà Đường có Hồng Châu (洪州), Hà Trạch (荷澤), Bắc Tú (北秀), Nam Tiển (南侁),
Ngưu Đầu (牛頭),
Thạch Đầu (石頭), Bảo Đường (保唐),
Tuyên Thập (宣什,
Thiền niệm Phật), Huệ Trù (惠稠),
Cầu Na (求那),
Thiên Thai (天台), v.v. Trong
Viên Giác Kinh Đại Sớ
Thích Nghĩa Sao (圓覺經大疏釋義鈔, 卍 Tục
Tạng Kinh Vol. 9, No. 245) của
Tông Mật có nêu ra 7 tông là
Bắc Tông Thiền (北宗禪),
Trí Tiển Thiền (智侁禪), Lão
An Thiền (老安禪),
Nam Nhạc Thiền (南嶽禪),
Ngưu Đầu Thiền (牛頭禪),
Nam Sơn Niệm Phật Môn Thiền (南山念佛門禪), Hà Trạch Thiền (荷澤禪), v.v. Chủ yếu, từ
Đạt Ma cho đến Huệ Năng,
trong vòng khoảng 250 năm,
Thiền phong của được cử xướng chỉ mang một phong cách
duy nhất;
Ngữ Lục các
Tổ sư thường dẫn cứ
kinh điển, nêu rõ
thể cách Phật pháp, không bị
mắc kẹt vào những
đối lập của
tông phái; cho nên có thể nói rằng đây là
thời kỳ thành lập Thiền Tông. Từ
Nam Nhạc, Thanh Nguyên
cho đến thời
Ngũ Đại cuối nhà Đường,
trong khoảng 250 năm, riêng một nhánh
Nam Tông Thiền phát triển
rực rỡ; nếu nói về mặt
tư tưởng, họ đã
kiến lập nên
tinh thần gọi là “tức tâm thị Phật (卽心是佛, ngay tâm này là Phật)”, “bình thường tâm
thị đạo (平常心是道,
tâm bình thường là đạo).” Còn về mặt
sinh hoạt thực tế,
thiết lập quy tắc Thiền viện lấy
Tăng Đường làm
trung tâm; về
phương diện hoằng truyền
lưu bố Thiền pháp, họ lấy cách
hoạt động linh hoạt để tiếp độ
học đồ, lấy
cơ dụng đánh hét để tuyên xướng
Thiền phong. Dần dà,
Ngũ Gia (五家) được
thành lập.
Thời kỳ này có thể nói là
giai đoạn phát triển của
Thiền Tông.
Trong vòng 320 năm của hai
triều đại nhà Tống,
Lâm Tế Tông lại cho ra đời hai chi phái Hoàng Long và Dương Kì; hình thành nên
hệ thống Ngũ Gia Thất Tông (五家七宗). Trong đó, Phái Hoàng Long được
Vinh Tây (榮西, Eisai) truyền vào
Nhật Bản; còn về Phái Dương Kì, sau thời
Dương Kì Phương Hội có
Ngũ Tổ Pháp Diễn (五祖法演),
Viên Ngộ Khắc Cần (圜悟克勤),
Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲), v.v., tận lực xiển dương
Thiền chỉ, tạo thành chủ lưu của Thiền. Trong khi đó,
Hoằng Trí Chánh Giác (宏智正覺) của
hệ thống Tào Động Tông cùng với
Đại Huệ Tông Cảo của
Lâm Tế Tông mỗi bên đều cử xướng
Mặc Chiếu Thiền (默照禪) và
Khán Thoại Thiền (看話禪). Chính trong
thời kỳ này, các
đạo giáo dung hợp, hình thành khuynh hướng
Tam Giáo Nhất Trí (三敎一致), Giáo Thiền Điều Hợp (敎禪調合),
Thiền Tịnh Song Tu (禪淨雙修).
Vì vậy,
Thiền Tông dần dần mất đi
tính cách độc lập,
trở thành thời kỳ thủ vệ. Từ thời nhà Nguyên, Minh
cho đến triều vua Càn Long (乾隆, tại vị 1735-1796) nhà Thanh,
trong khoảng 450 năm, là
thời kỳ suy yếu của
Thiền Tông. Trong
thời gian này tuy có
Hải Vân Ấn Giản (海雲印簡),
Vạn Tùng Hành Tú (萬松行秀), Pháp Am
Tổ Tiên (破菴祖先),
Vô Chuẩn Sư Phạm (無準師範), v.v., nhưng cũng chỉ
thể hiện tư tưởng Nho Thích Điều Hợp, Giáo Thiền
Nhất Trí mà thôi.
Thiền Tông thời
Cận Đại có
Hòa Thượng Hư Vân (虛雲, 1839-1958), thọ đến 120 tuổi,
một đời hoằng pháp không
mệt mỏi,
sáng lập tùng lâm rất nhiều, tận lực
quảng bá tông phong, là
cao tăng thuộc pháp phái của
Lục Tổ Huệ Năng.
Thiền Tông của Hàn Quốc thì có
Cửu Sơn Thiền Môn (九山禪門). Phần lớn chư vị khai tong lập phái đều sang nhà Đường
cầu pháp, rồi
trở về nước tuyên xướng
Thiền phong, tận lực
giáo hóa, hình thành 9
tông phái chính. (1) Thời
Thiện Đức Nữ Vương (善德女王, tại vị 632-647) của
Tân La (新羅), có
Pháp Lãng (法朗) sang nhà Đường, theo hầu Tứ
Tổ Đạo Tín, sau
truyền pháp ở
Hải Đông (海東). Dưới thời Huệ Cung Vương (惠恭王, tại vị 765-780), có Thần Hành (神行) sang nhà Đường
cầu pháp, tham yết Chí Không (志空),
chứng đắc tâm ấn, sau
trở về nước hoằng truyền
Bắc Tông Thiền ở Đoạn Tục Tự (斷俗寺), vùng Đơn Thành (丹城). Môn hạ của Thần Hành, từ Tuân Phạm (遵範), Huệ Ẩn (惠隱)
cho đến thời của
Trí Tiển (智侁), được Cảnh
Văn Vương (景文王, tại vị 861-875)
quy y theo, khai sáng
Hi Dương Sơn Phái (曦陽山派). (2) Vào năm thứ 5 (784) đời Tuyên Đức Vương (宣德王, tại vị 781-785), Kê Lâm
Đạo Nghĩa (雞林道義) sang nhà Đường,
thọ pháp với môn hạ của
Mã Tổ là
Tây Đường Trí Tàng và
Bách Trượng Hoài Hải,
thực hành yếu chỉ Nam Đốn, lưu lại bên đó 37 năm; sau đó
trở về nước
truyền pháp, hoằng hóa; môn hạ theo rất đông, lập ra Ca
Trí Sơn Phái (迦智山派). (3) Dưới thời của Hiến Đức Vương (憲德王, tại vị 810-826), có
Hồng Trắc (洪陟) sang nhà Đường
tham học, nối tiếp dòng pháp của
Tây Đường; sau khi về nước thì dừng chân trú tại
Nam Nhạc (南岳). Vào năm thứ 3 (828) đời Hưng Đức Vương (興德王, tại vị 827-836), sư khai sáng
Thật Tướng Tự (實相寺), cử xướng
Thiền phong; môn hạ theo
tham học lên đến hơn ngàn người, và hình thành nên
Thật Tướng Sơn Phái (實相山派). (4) Nhân vật
đồng thời với
Đạo Nghĩa sang nhà Đường
cầu pháp, có Chơn Giám
Huệ Chiểu (眞鑒慧沼), sư được
ấn khả của Thương Châu Thần Giám (滄州神鑑), môn hạ của
Mã Tổ; sau khi về nước thì
sáng lập Song Khê Tự (雙溪寺). Vào năm thứ 6 (814) đời Hiến Đức Vương,
Tịch Nhẫn Huệ Triết (寂忍惠哲) cũng sang nhà Đường,
thọ pháp của
Tây Đường, rồi
trở về nước và
hoằng pháp, độ chúng ở
Đại An Tự (大安寺) thuộc
Đồng Lí Sơn (桐裏山), Võ Châu (武州). Pháp hệ do
Huệ Chiểu và
Huệ Triết truyền thừa được gọi là
Đồng Lí Sơn Phái (桐裏山派). (5)
Vô Nhiễm (無染) sang nhà Đường
cầu pháp, được
tâm ấn của Bảo Triệt (寶徹), rồi về nước vào năm thứ 7 (846) đời Văn
Thánh Vương (文聖王, tại vị 840-858) và tận lực cổ xúy
Thiền pháp. Nhờ
đức độ của sư, Hiến An Vương (憲安王, tại vị 858-861), Cảnh
Văn Vương đều
quy y theo, nên sư
sáng lập Thánh Trú Sơn Phái (聖住山派). (6) Vào năm thứ 6 (831) đời Hưng Đức Vương, có
Thông Hiểu Phạn Nhật (通曉梵日) sang nhà Đường, theo học Thiền với
Diêm Quan Tề An (鹽官齊安), pháp từ của
Mã Tổ, được
ấn khả của vị này; sau đó
trở về nước và khai sáng
Xà Quật Sơn Phái (闍崛山派) trên
Thiên Thai Sơn (天台山). Về sau, môn nhân của Phạn Nhật là Lãng Không (朗空) cũng theo bước chân thầy sang nhà Đường,
tham học với
Thạch Sương Khánh Chư (石霜慶諸), pháp hệ của
Thanh Nguyên Hành Tư; vị này
trở về nước, trú tại
Thật Tế Tự (實際寺) ở
Nam Sơn (南山) và xiển dương
Thiền chỉ. Đây được
xem như là
truyền thừa sớm nhất của
hệ thống pháp phái Thanh Nguyên sang Hàn Quốc. (7) Song Phong Đạo Duẫn (雙峰道允) sang nhà Đường,
thọ pháp với
Nam Tuyền Phổ Nguyện (南泉普願), môn nhân của
Mã Tổ, được vị này
ấn chứng cho, và
trở về nước cùng năm với Phạn Nhật. Sau này, môn nhân của Đạo Duẫn là
Trừng Quán Chiết Trung (澄觀折中) cũng có dịp sang nhà Đường,
tham vấn Phổ Nguyện, rồi
trở về nước và trú tại Hưng Ninh
Thiền Viện (興寧禪院) thuộc
Sư Tử Sơn (師子山). Pháp hệ của Đạo Duẫn và Chiết Trung được gọi là
Sư Tử Sơn Phái (師子山派). (8) Dưới thời Cảnh
Văn Vương, có
Liễu Ngộ Thuận Chi (了悟順之) sang nhà Đường,
tham học với
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, sau
trở về nước, trú tại Thụy Vân Tự (瑞雲寺) hoằng bố
Thiền pháp. Đến năm thứ 16 (824) đời Hiến Đức Vương, Viên Giám
Huyền Dục (圓鑑玄昱) sang nhà Đường, học Thiền của
Mã Tổ với
Chương Kính Hoài Huy (章敬懷暉); sau khi
trở về nước thì được 4 đời vua Mẫn Ai (閔哀, ?-839), Thần Võ (神武, ?-839), Văn Thánh (文聖, tại vị 840-858) và Hiến An (憲安) đãi ngộ. pháp từ của sư
sáng lập ra
Phụng Lâm Tự (鳳林寺) và hình thành Phụng Lâm Sơn Phái (鳳林山派). (9) Vào
thời kỳ cuối của triều đình
Tân La, có Khánh Du (慶猷), Quýnh Vi (迥微)
liên tục sang nhà Đường
cầu pháp, được
yếu chỉ của
Vân Cư Đạo Ưng; sau khi về nước thì tận lực
cổ xướng Thiền phong, và đây chính là sơ truyền của
Tào Động Tông vào đất nước này. Đến triều đình Cao Lệ (高麗), lại có các
cao tăng như
Lợi Nghiêm (利嚴), Lệ Nghiêm (麗嚴), Khánh Phủ (慶甫), Căng Nhượng (兢讓), Xán U (璨幽), v.v.,
kế tục hoằng truyền
huyền chỉ tông môn. Trong số đó,
Lợi Nghiêm đã từng sang nhà Đường, theo làm môn hạ của
Đạo Ưng, được
ấn khả tâm truyền; sau khi
trở về nước, sư được vua
Thái Tổ (太祖, tại vị 918-943)
quy y theo,
kiến lập Quảng Chiếu Tự (廣照寺) ở
Tu Di Sơn (須彌山),
Hải Châu (須彌山). Đây chính là khai thỉ của
Tu Di Sơn Phái (須彌山派). Chín Thiền phái nêu trên được gọi chung là
Tào Khê Tông (曹溪宗). Nhờ sự
sùng kính Phật pháp của
Thái Tổ, sau này các đời vua khác
như Định Tông (定宗, tại vị 945-949), Quang Tông (光宗, tại vị 949-975), Văn Tông (文宗, tại vị 1046-1083), Tuyên Tông (宣宗, tại vị 1083-1094), Thần Tông (神宗, tại vị 1197-1204), v.v.,
liên tiếp hộ trì; nên
Thiền Tông nhất thời hưng thịnh cao độ.
Tuy nhiên, đến thời Trung Liệt Vương (忠烈王, tại vị 1274-1298, 1298-1308)
trở về sau, quốc thế
suy yếu,
Thiền Tông cũng theo đó mà bị
ảnh hưởng, dẫn đến trầm trệ. Về
Thiền Tông của
Nhật Bản, đầu tiên vào năm thứ 4 (653) niên hiệu Bạch Trĩ (白雉) đời
Hiếu Đức Thiên Hoàng (孝德天皇, Kōtoku Tennō, tại vị 645-654),
Đạo Chiêu (道昭, Dōshō) sang nhà Đường
cầu pháp. Đến năm thứ 8 (736) niên hiệu
Thiên Bình (天平),
Đạo Tuyền (道璿) của Trung Hoa sang Nhật, hoằng truyền
Bắc Tông Thiền. Trong
thời gian Tha Nga Thiên Hoàng (嵯峨天皇, Saga Tennō, tại vị 809-823) ở ngôi, có
đặc phái cung thỉnh
Nghĩa Không (義空) sang
Nhật truyền bá
Nam Tông Thiền, và bắt đầu mở ra phong thái
Thiền Tông Nhật Bản. Đến năm thứ 3 (1187), niên hiệu Văn Trị (文治),
Minh Am Vinh Tây (明庵榮西, Myōan Eisai) sang nhà Tống
cầu pháp, theo hầu
Hư Am Hoài Sưởng (虛菴懷敞), lấy pháp của Phái Hoàng Long truyền vào và khai sáng
Lâm Tế Tông Nhật Bản. Vào năm thứ 2 (1223) niên hiệu Trinh Ứng (貞應), Vĩnh Bình
Đạo Nguyên (永平道元, Eisai Dōgen) sang nhà Tống, được
ấn khả của
Thiên Đồng Như Tịnh (天童如淨), rồi
quay về nước và
trở thành Tổ của
Tào Động Tông Nhật Bản. Môn hạ của
Đạo Nguyên có
Triệt Thông Nghĩa Giới (徹通義介, Tettō Gikai), Hàn Nham Nghĩa Duẫn (寒巖義尹, Kangan Giin); cả hai cũng đã từng sang nhà Tống, sau đó về nước, tận lực cử xướng
Thiền phong và lập ra Hàn Nham Phái (寒巖派, còn gọi là
Pháp Hoàng Phái [法皇派]). Năm đầu (1235) niên hiệu Gia Trinh (嘉禎),
Viên Nhĩ Biện Viên (圓爾辨圓, Enni Benen) sang nhà Tống, đến
Kính Sơn (徑山) tham yết
Vô Chuẩn Sư Phạm (無準師範), được
tâm ấn của vị này; sau khi
trở về nước thì
sáng lập Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji) ở kinh đô Kyoto và
hoằng pháp bố giáo. Đến năm tứ 4 (1246), niên hiệu Khoan Nguyên (寬元),
Lan Khê Đạo Long (蘭溪道隆) của Trung Hoa sang Nhật, khai sáng
Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji); nhờ vậy
Thiền phong ở địa phương Quan Đông (關東, Kantō)
nhất thời cực thịnh. Vào năm thứ 4 (1267) niên hiệu Văn Vĩnh (文永),
Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明, Nampo Shōmyō) sang nhà Tống, được
Hư Đường Trí Ngu (虛堂智愚)
ấn chứng cho và
trở về bổn quốc. Hai năm sau (1269),
cao tăng Đại Hưu Chánh Niệm (大休正念) của Trung Hoa sang Nhật, trú ở hai chùa Kiến Trường (建長, Enchō) và
Viên Giác (圓覺, Enkaku), được triều đình cũng như dân chúng kính ngưỡng. Sau đó, một số
cao tăng khác sang
Nhật truyền đạo như
Nhất Sơn Nhất Ninh (一山一寧),
Tây Giản Tử Đàm (西磵子曇), Đông Lí Hoằng Hội (東里弘會), Viễn Khê Tổ Hùng (遠谿祖雄),
Linh Sơn Đạo Ẩn (靈山道隱), v.v.
Cuối cùng 24 dòng phái của
Thiền Tông Nhật Bản được hình thành; gồm (1) Phái Thiên Quang (千光派,
Vinh Tây), (2) Phái
Đạo Nguyên (道元派,
Đạo Nguyên), (3) Phái Thánh Nhất (聖一派,
Viên Nhĩ), (4) Phái
Pháp Đăng (法燈派,
Giác Tâm [覺心]), (5) Phái
Đại Giác (大覺派,
Đạo Long), (6) Phái Ngột Am (兀庵派, Phổ Ninh [普寧]), (7) Phái Đại Hưu (大休派,
Chánh Niệm), (8) Phái
Pháp Hải (法海派, Tĩnh Chiếu [靜照]), (9) Phái
Vô Học (無學派,
Tổ Nguyên [祖元]), (10) Phái
Nhất Sơn (一山派,
Nhất Sơn Nhất Ninh), (11) Phái Đại Ứng (大應派,
Nam Phố Thiệu Minh), (12) Phái Tây Giản (西磵派,
Tây Giản Tử Đàm), (13) Phái Kính Đường (鏡堂派,
Kính Đường Giác Viên [鏡堂覺圓]), (14) Phái
Phật Huệ (佛慧派,
Linh Sơn Đạo Ẩn), (15) Phái Đông Minh (東明派,
Đông Minh Huệ Nhật [東明慧日]), (16) Phái Thanh Chuyết (清拙派,
Thanh Chuyết Chánh Trừng [清拙正澄]), (17) Phái Minh Cực (明極派, Minh Cực
Sở Tuấn [明極楚俊]), (18) Phái Ngu Trung (愚中派, Ngu
Trung Châu Cập [愚中周及]), (19) Phái Trúc Tiên (竺僊派,
Trúc Tiên Phạn Tiên [竺僊梵仙]), (20) Phái
Biệt Truyền (別傳派,
Biệt Truyền Minh Dận [別傳明胤]), (21) Phái Cổ Tiên (古先派,
Cổ Tiên Ấn Nguyên [古先印元]), (22) Phái Đại Chuyết (大拙派,
Đại Chuyết Tổ Năng [大拙祖能]), (23) Phái Trung Nham (中巖派,
Trung Nham Viên Nguyệt [中巖圓月]), (24) Phái Đông Lăng (東陵派,
Đông Lăng Vĩnh Dư [東陵永璵]). Trong số đó, trừ 3 phái
Đạo Nguyên, Đông Minh, Đông Lăng thuộc về
Tào Động Tông, 21 phái khác thuộc
Lâm Tế Tông.
Ngoài ra, vào năm thứ 3 (1654) niên hiệu Thừa Ứng (承應),
Ẩn Nguyên Long Kỷ (隱元隆琦) của Trung Hoa sang Nhật, khai sáng
Hoàng Bá Tông (黃檗宗), cùng với
Tào Động,
Lâm Tế hình thành thế chân vạc của Thiền
Nhật Bản. Trong bài tựa của
Thiền Tông Chánh Mạch (禪宗正脈, 卍 Tục
Tạng Kinh Vol. 85, No. 1593) quyển 1 có đoạn rằng: “Thiền Tông
nhất tông, biến mãn
hoàn vũ,
Phật Tổ dĩ hạ, đắc kỳ truyền giả, tự
nhất đăng dĩ chí
vô tận đăng yên, ngật kim đãi
nhị thiên tự (禪宗一宗、遍滿寰宇、佛祖以下、得其傳者、自一燈以至無盡燈焉、迄今逮二千祀, một
tông phái Thiền Tông, đầy khắp
hoàn vũ, từ
Phật Tổ trở xuống, có người
truyền thừa, từ một
ngọn đèn đến
vô tận ngọn đèn vậy,
đến nay đã hai ngàn năm).”