龍樹; S: nāgārjuna; dịch âm là Na-già Át-thụ-na (那伽閼樹那), tk. 1-2;
Một trong những
luận sư vĩ đại nhất của
lịch sử Phật giáo. Người ta xem sự
xuất hiện của Sư là lần
chuyển pháp luân thứ hai của
Phật giáo (lần thứ nhất do Phật Thích-ca, lần thứ ba là sự
xuất hiện của
giáo pháp Tan-tra). Ðại thừa Ấn Ðộ xếp Sư vào »Sáu Bảo Trang của Ấn Ðộ« (năm vị khác là
Thánh Thiên [s: āryadeva],
Vô Trước [s: asaṅga],
Thế Thân [s: vasubandhu], Trần-na [s: diṅnāga, dignā-ga],
Pháp Xứng [s: dharmakīrti]), và trong tranh tượng, Sư là vị
duy nhất sau
đức Phật được trình bày với chóp trên đỉnh đầu (肉髻;
nhục kế; s: uṣnīṣa), một dấu hiệu của một Ðại nhân (s: mahāpuruṣa). Sư là người
sáng lập Trung quán tông (s: mādhyamika), sống trong thế kỉ thứ 1-2. Có rất nhiều
tác phẩm mang danh của Sư nhưng có lẽ được nhiều
tác giả khác
biên soạn. Những trứ tác được xem là quan trọng nhất và đích thân Sư viết soạn
gồm có (
Căn bản)
Trung quán luận tụng, gồm 27 chương với 400 câu kệ,
Thập nhị môn luận, Ðại
trí độ luận. Sư cũng là Tổ thứ 14 của
Thiền tông Ấn Ðộ.
Truyền thống Tan-tra cũng xếp Sư vào 84 vị
Ma-ha Tất-đạt (s: mahāsiddha).
H 40:
Long Thụ (Lạt-ma Anāgārika Gô-vin-đa phóng hoạ).
Công lớn của Sư là
hệ thống hoá các
tư tưởng được nêu lên trong
Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh (s: pnajñāpāramitā-sūtra) và
đào sâu các
tư tưởng đó. Sư phát triển một
phương pháp biện chứng (e: dialectic) rất
đặc biệt,
siêu phàm và nương vào đây chỉ rõ những nhược điểm, những điểm
sơ xuất không thống nhất trong một lí thuyết mà chính
đối thủ đưa ra. Từ sự
nhận thức rằng, một
sự thật chỉ
tồn tại bởi sự
hiện diện của cái đối nghịch, Sư luận rằng mọi sự đều
tương đối, không có gì
bất biến trường tồn nằm sau sự vật, tất cả đều là Không (s: śūn-yatā). Sư từ chối mọi
quan điểm cực đoan và đây chính là
điểm xuất phát của
tư tưởng Trung đạo (s: mādhyamāpradipadā),
giáo lí căn bản của
Trung quán tông.
Quan điểm Trung quán này được biểu hiện bằng
kệ tụng Bát bất (tám phủ nhận) đầu bản
Trung quán luận:
不生亦不滅。不常亦不斷
不一亦不異。不來亦不出
Bất sinh diệc
bất diệtBất thường diệc
bất đoạnBất nhất diệc bất dị
Bất lai diệc bất xuất.
*Không phải sinh cũng không phải diệt,
Không phải thường cũng không phải đoạn,
Không phải một cũng không phải khác,
Không phải đi cũng không phải đến.
Sư là người đầu tiên
trong lịch sử Phật giáo tạo dựng một »hệ thống«
triết học hẳn hoi, trong đó Sư
tìm cách minh chứng
thế giới hiện tượng không thật hiện hữu. Ðó thật ra là
kiến giải xuất phát từ
kinh nghiệm tu hành – theo kinh Bát-nhã. Với những
thành tựu to lớn, Sư đã đặt nền tảng đầu tiên cho
Trung quán tông và cũng gây nhiều
ảnh hưởng trong nền triết lí của các
tông phái Phật giáo khác ra
đời sau.
Long Thụ lấy thuyết
Mười hai nhân duyên làm khởi điểm, vì đối với Sư, đó là
quy luật nói lên
bản chất của
thế giới. Sư xem
bản chất đó là Không – vì trong đó không có thành hay hoại,
vô thường hay
trường cửu.
Tính chất trống không của
thế gian được
Long Thụ chỉ rõ bằng sự
tương đối của khái niệm. Các khái niệm chỉ dựa lên nhau mà có, không có khái niệm nào
tồn tại độc lập. Từ đó Sư suy ra, sự vật cũng không có thật vì mỗi sự vật đều phải dựa lên trên những sự vật khác mà
hiện hữu. Ðây là một trong những lí luận tối trọng về
tính Không chính là
Vô ngã.
Sư trình bày
quan điểm của mình trong
tác phẩm Hồi tránh luận (迴諍論; s: vigraha-vyāvartanī hoặc vigraha-vyāvartanīkārikā), thông qua một ví dụ – »Hai cha con«:
»Nếu đứa con được
sinh thành bởi người cha, và người cha chỉ mới
sinh thành với sự
hiện diện của chính đứa con này – hãy nói thử xem ai sinh ra ai? Nói thử xem: Ai trong hai người này là cha, ai là con? Cả hai đều mang dấu hiệu của cha và dấu hiệu của một người con«.
Như thế thì, trước khi đứa »con« ra đời, người ta không thể nói đến một người »cha«. Và như
vậy thì – theo Sư – trong đứa con phải có một cái gì đó dẫn khởi sự
xuất hiện của một người cha – có thể gọi là một
đặc tính trợ giúp một người nào đó
trở thành một người cha.
Trường hợp cũng
tương tự như thế quy về đứa con. Trong bản
chú giải bài luận này,
Sư bảo rằng, cả hai – cha cũng như con – đều mang những đặc tướng của cái »thành tạo« và cái »được thành tạo.« Và như vậy có nghĩa rằng, người ta chỉ nói về một sự vật nào đó quy về một sự vật khác nào đó, trong mối quan hệ với một sự vật khác và trong »một sự vật nào đó« đã có »sự vật khác nào đó.« Nói một cách khác, không có một
nguyên nhân cơ bản mà chỉ có nhưng mối kết cấu, một mạng lưới
duyên khởi. Và nếu chỉ có thể nói về một mạng lưới
duyên khởi thì cũng không thể nào
tìm thấy được một cách
tồn tại độc lập, tự sinh, tự khởi. Và như vậy người ta có thể
kết luận là: Tất cả đều trống không (s: śūnya) cách tuyệt một
tự tính (s: svabhāva), không có một
tự tính nào cả.
Theo Sư, mọi
hiện hữu đều
vô ngã vì nếu chúng có
tự tính (s: svabhāva), tự ngã, chúng phải
trường tồn bất biến, một
điều kiện mà chúng không
đạt được.
Thế giới hiện tượng chỉ gồm những sự vật chịu dưới sự
hoại diệt nên
thế giới đó chỉ có thể là Không.
Ðối với Sư,
tính Không có nghĩa là thiếu vắng một cái ngã, không phải là
không tồn tại như là một trình hiện (có thể nói: »Tất cả là
ảo ảnh không thật, nhưng có những trình
hiện có vẻ như thật«).
Vì vậy, nếu nói sự vật có hay không là đặt
vấn đề sai.
Sự thật nằm ở giữa hai khái niệm đó, trong
tính Không (s: śūnyatā).
Thế giới hiện tượng cũng phải được xem là
sự thật, ta gọi là
sự thật tương đối (
Chân lí quy ước; s: saṃvṛti-satya), nó không phải là
sự thật cuối cùng (
Chân lí tuyệt đối; s: paramārtha-satya). Trong
chân lí quy ước thì
thế giới này và cả
Phật pháp có
giá trị. Theo
chân lí tuyệt đối, tất cả chúng đều không có thật, chúng chỉ là những trình hiện. Theo Sư,
thế giới hiện tượng xuất phát từ cái dụng
thiên hình vạn trạng (đa dạng; s: prapañca), trên đó
con người »tưởng tượng« ra và từ đó ta tưởng nhầm có
một thế giới bên ngoài thật. Trong
chân lí tuyệt đối thì lại
vắng bóng cái dụng
thiên hình vạn trạng đó. Ðộc lập với cái dụng đó thì chính là Niết-bàn. Trong Niết-bàn vắng hẳn sự
đa nguyên của
vạn sự, không còn
quy luật nhân duyên nữa. Niết-bàn là niềm an vui
tự tại (s: sahajānanda). Ðối với
Long Thụ – như kinh Bát-nhã chỉ rõ – Niết-bàn và
thế giới hiện tượng thật tế chỉ là một, là
hai mặt của một cái
duy nhất. Niết-bàn không phải là một pháp có thể
chứng đắc được; chỉ cần nhận chân ra
thể tính của mọi sự, trong đó cái dụng
thiên hình vạn trạng nọ
trở lại yên nghỉ, đó là Niết-bàn.
Tên của
Long Thụ gồm từ Long (rồng, s: nāga) và Thụ (một loại cây; s: arjuna). Sư sinh ra trong một
gia đình Bà-la-môn (s: brāhmaṇa) ở
Trung Ấn (s: vidarbha) và
xuất gia lúc còn trẻ tuổi. Ðến Na-lan-đà (s: nālandā), một
trung tâm Phật học danh tiếng thuộc thành
Vương xá (s: rājagṛha), Sư
tu tập nghiên cứu kinh điển dưới sự hướng dẫn của La-hầu-la Bạt-đà-la (s: rāhulabhadra). Sau đó Sư
trở thành Pháp sư tại ngôi chùa vĩ đại này và tương truyền rằng, trong
thời gian này Sư được
Long vương đem về thuỷ cung
giáo hoá.
Vì vậy nghệ thuật Bắc Ấn và
Tây Tạng thường vẽ những con rồng trong
hào quang của Sư. Khi tuổi đã cao, Sư
trở về quê hương ở
Trung Ấn, sống trên núi
Phạm thiên (s: brahmagiri) trên cao nguyên Śrīparvata, gần sông Kṛṣṇā. Ngọn đồi với ngôi chùa bây giờ vẫn còn và được mang tên của Sư »Ðồi Long Thụ« (s: nāgārjunakoṇḍa). Các nhà
nghiên cứu lịch sử sau này đã xác định được khoảng
thời gian Sư hoằng hoá vì người ta biết rằng vị vua có quan hệ với Sư ngự trị từ năm 106-130 (Vua xứ Śāta-vāhana, tên Gautamīputra Śatakarṇin, được dịch âm Hán Việt là Kiều-đạt-di Phổ-đặc-la Khả-nhĩ-ni). Sư đã viết thơ khuyên vị vua này và những
lời khuyên đó còn được
lưu truyền trong tập Khuyến giới vương tụng.
Các
tác phẩm còn được lưu lại dưới tên Sư (trích): 1.
Căn bản trung quán luận tụng ([mūla-] madhyama-ka-kārikā), cũng được gọi là
Trung quán luận tụng, hoặc
Trung quán luận (madhyamaka-śāstra); 2.
Căn bản trung quán luận thích
vô uý chú (mūlamā-dhyamikavṛtti-akutobhayā), được gọi tắt là
Vô uý chú, chỉ còn bản Tạng ngữ; 3. Ðại
trí độ luận (mahāprajñāpāramitā-śāstra, mahāprajñāpāramito-padeśa), 100 quyển, Cưu-ma-la-thập dịch; 4.
Thập nhị môn luận (dvādaśa-nikāya-śāstra, dvā-daśadvāra-śāstra), Cưu-ma-la-thập dịch; 5.
Nhân duyên tâm luận tụng (pratītya-samutpāda-hṛdaya-kārikā), không biết người dịch; 6. Ðại thừa nhị thập tụng (mahāyāna-viṃśikā),
Thí Hộ dịch; 7.
Bảo hành vương chính luận (rājaparikathā-ratnāvalī, cũng được gọi là ratnāvalī, là Vòng
bảo châu), 1 quyển, Chân Ðế (paramārtha) dịch; 8.
Thất thập không tính luận (śūnyatā-saptati), bản Tạng ngữ vẫn còn; 9.
Thất thập không tính luận thích (śūnyatā-saptativṛtti),
chú giải Thất thập không tính luận (śūnyatā-saptati),
Nguyệt Xứng (candrakīrti) và Parahita cũng có soạn một
tác phẩm dưới tên này; 10.
Phương tiện tâm luận (upāya-hṛdaya), một
tác phẩm về Luận lí học (
nhân minh) được xem là của Sư, bản dịch Hán vẫn còn do Cát-ca-dạ dịch; 11. Tập
kinh luận (sūtrasamuccaya); có hai tập dưới tên này: một
tác phẩm có lẽ đã thất truyền của
Tịch Thiên (śāntideva) và một
tác phẩm được xem là của Sư; 12.
Hồi tránh luận (vigraha-vyāvartanī, vigra-havyāvartanīkārikā), Tì-mục Trí Tiên và Cù-đàm Lưu-chi dịch chung; 13.
Hồi tránh luận thích (vigraha-vyāvartanī-vṛtti); 14.
Long Thụ Bồ Tát khuyến giới vương tụng (ārya-nāgārjuna-bodhisattva-suhṛllekha),
Nghĩa Tịnh dịch; 15.
Quảng phá kinh (vaidalya-sūtra?),
Quảng phá luận (vaidalyaprakaraṇa?), bản dịch Hán và Tạng ngữ vẫn còn; 16.
Lục thập tụng như lí luận (yukti-ṣaṣṭhikā),
Thí Hộ dịch, cũng có bản Tạng ngữ; 17.
Thập trụ tì-bà-sa luận (daśabhūmi-vibhāṣā-śāstra), 17 quyển, Cưu-ma-la-thập dịch; 18.
Bồ-đề tâm li tướng luận (lakṣaṇavimukta-bodhihṛdaya-śāstra), 1 quyển,
Thí Hộ dịch; 19. Ðại thừa
phá hữu luận (mahāyāna-bhavabheda-śāstra), 1 quyển, Ðạt-ma Cấp-đa (dharmagupta) dịch; 20.
Tán Pháp giới tụng (dharmadhātu-stotra), 1 quyển,
Thí Hộ dịch; 21. Bồ-đề
tư lương luận (bodhisaṃbhāraka), 6 quyển, Ðạt-ma Cấp-đa (dharmagupta) dịch.