小乘; S: hīnayāna; nghĩa là »cỗ xe nhỏ«;
Nguyên là danh từ của một số
đại biểu phái Ðại thừa (s: mahāyāna)
thường dùng chỉ những người theo »Phật giáo nguyên thuỷ«.
Biểu thị này được dùng để lăng mạ,
chỉ trích. Ngày nay
ý nghĩa chê bai của danh từ này đã mất đi và nó chỉ còn có
tính chất mô tả. Nhiều nhà
nghiên cứu Phật giáo có
ý định thay thế danh từ này nhưng không đạt kết quả vì danh từ này đã khắc sâu trong
tư tưởng của nhiều
Phật tử. Các
đại biểu của
Tiểu thừa tự xem mình theo phái
Thượng toạ bộ (p: theravāda), mặc dù
Thượng toạ bộ chỉ là một trong những trường phái
Tiểu thừa, và là trường phái
duy nhất của
Tiểu thừa còn
tồn tại đến ngày nay.
Tiểu thừa cũng được gọi là
Nam tông Phật pháp vì được
thịnh hành tại các nước Nam Á như
Tích Lan (śrī laṅkā), Thái lan, Miến Ðiện (myanmar), Cam-pu-chia, Lào.
Theo
truyền thuyết,
Tiểu thừa gồm có 18
bộ phái khác nhau,
xuất phát từ Tăng-già nguyên thuỷ. Trong lần
kết tập thứ ba, Tăng-già phân ra thành hai phái:
Trưởng lão bộ (長老部; s: sthavira) và Ðại chúng bộ (大眾部; s: mahāsāṅghika). Giữa năm 280 và 240
trước Công nguyên, Ðại chúng bộ lại bị chia thành sáu phái:
Nhất thuyết bộ (一說部; s: ekavyāvahārika),
Khôi sơn trụ bộ (灰山住部; s: gokulika). Từ
Nhất thuyết bộ lại sinh ra
Thuyết xuất thế bộ (說出世部; s: lokottaravāda). Từ
Khôi sơn trụ bộ lại tách ra 3
bộ phái là Ða văn bộ (多聞部; s: bahuśrutīya),
Thuyết giả bộ (說假部; s: prajñaptivāda) và Chế-đa sơn bộ (制多山部; s: caitika). Từ
Trưởng lão bộ (s: sthavira) của
thời gian đó, khoảng năm 240
trước Công nguyên, phái
Ðộc Tử bộ (犢子部; s: vātsīputrīya) ra đời,
gồm có bốn
bộ phái nhỏ là
Pháp thượng bộ (法上部; s: dharmottarīya),
Hiền trụ bộ (賢胄部; s: bhadra-yānīya),
Chính lượng bộ (正量部; s: saṃmitīya) và
Mật lâm sơn bộ (密林山部; s: sannagarika, sandagiriya). Từ
Trưởng lão bộ (sthavira) lại
xuất phát thêm hai phái: 1.
Nhất thiết hữu bộ (一切有部; s: sarvāstivāda), từ đây lại nẩy
sinh Kinh lượng bộ (經量部; s: sautrāntika) khoảng năm 150
trước Công nguyên và 2.
Phân biệt bộ (分別部; s: vibhajyavāda).
Phân biệt bộ tự xem mình là hạt nhân
chính thống của
Trưởng lão bộ (s: sthavira). Từ
Phân biệt bộ (s: vibhajyavāda) này sinh ra các bộ khác như
Thượng toạ bộ (上座部; p: thera-vāda),
Hoá địa bộ (化地部; s: mahīśāsaka) và
Ẩm Quang bộ (飲光部; cũng gọi Ca-diếp bộ; 迦葉部; s: kāśyapīya). Từ
Hoá địa bộ (s: mahīśāsa-ka) lại sinh ra
Pháp Tạng bộ (法藏部; s: dhar-maguptaka).
Tiểu thừa được phát triển nhất giữa
thời gian Ðức Phật nhập Niết-bàn và Công nguyên. Ðại biểu phái này cho rằng mình theo sát những lời dạy nguyên thuỷ của Ðức Phật, do chính Ðức Phật nói ra.
Giới luật của
Tiểu thừa hoàn toàn dựa vào Luật tạng. Trong A-tì-đạt-ma,
Tiểu thừa dựa trên Kinh tạng để phân tích và
hệ thống hoá giáo lí của Phật.
Tiểu thừa tập trung
tuyệt đối vào
con đường đi đến
giải thoát. Các lí luận
triết học không đóng
vai trò quan trọng – chúng thậm chí được xem là trở ngại trên đường
giải thoát.
Tiểu thừa phân tích rõ
trạng thái của
đời sống con người,
bản chất sự vật, cơ cấu của
chấp ngã và chỉ ra
phương pháp giải thoát khỏi sự Khổ (s: duḥkha). Tất cả các trường phái
Tiểu thừa đều có một
quan điểm chung về sự vật đang
hiện hữu: khổ có thật, phải
giải thoát khỏi cái Khổ.
Giải thoát khỏi
Luân hồi (s, p: saṃsāra),
thoát khỏi sự
tái sinh và đạt Niết-bàn (s: nirvāṇa) là
mục đích cao nhất của
Tiểu thừa. Muốn
đạt được mục đích này,
hành giả phải
dựa vào sức mình, xa lánh
thế gian.
Vì vậy Tiểu thừa quan niệm phải sống
viễn li, sống
cuộc đời của một kẻ
tu hành. Ðối với
Tiểu thừa, cuộc sống
tại gia không thể nào đưa đến
sự giải thoát.
Hình ảnh tiêu biểu của
Tiểu thừa là A-la-hán (s: arhat), là người
dựa vào tự lực để
giải thoát.
Tiểu thừa tránh không đưa lí thuyết gì về Niết-bàn,
mục đích cuối cùng, là
kinh nghiệm của sự
giác ngộ, trong đó,
hành giả chứng được
vô ngã và
từ bỏ tham ái. Ðối với
Tiểu thừa, Phật là một nhân vật
lịch sử, được xem là một
con người và thầy dạy, không phải là
Hoá thân của một thật thể nào.
Giáo pháp cơ bản của
Tiểu thừa gồm có Tứ diệu đế,
Mười hai nhân duyên (s: pratītya-samutpāda), thuyết
Vô ngã (s: anātman) và
luật nhân quả, Nghiệp (s: karma). Phép
tu hành của
Tiểu thừa dựa trên Bát chính đạo. Theo
quan điểm của Ðại thừa,
sở dĩ phái này được gọi là »tiểu thừa« vì – ngược lại với chủ trương của Ðại thừa là nhằm đưa tất cả loài
Hữu tình đến
giác ngộ – phái
tiểu thừa chỉ quan tâm đến sự
giác ngộ của
cá nhân mình. Chủ trương này được xem là
giáo pháp sơ cấp của
đức Phật vì sau đó Ngài giảng
giáo pháp toàn vẹn hơn, đó là
giáo pháp Ðại thừa (xem thêm biểu đồ của các
bộ phái Phật giáo Ấn Ðộ cuối sách).