(補特伽羅) Phạm: pudgala. I.
Bổ đặc già la. Cũng gọi Phú đặc
già la, Phất
già la, Phúc
già la. Dịch là người,
chúng sinh, sổ thủ thú, chúng số giả. Chỉ cho chủ thể của sự
luân hồi tái sinh. Sổ thủ thú. hàm ý là nhiều lần đi lại vòng quanh trong năm đường. Một trong 16
tri kiến của
ngoại đạo. Tức là tên khác của ngã, hoặc chỉ riêng cho người.
Phật giáo chủ
trương thuyết Vô ngã nên không
thừa nhận Bổ đặc già la chân thực (
Bổ đặc già la thắng nghĩa) là chủ thể của sự
sống chết, nhưng vì
phương tiện giải nói nên tạm gọi người là
Bổ đặc già la (
Bổ đặc già la thế tục).
Tuy nhiên, trong các
bộ phái Phật giáo, thì
Độc tử bộ,
Chính lượng bộ và
Kinh lượng bộ lại
thừa nhận Bổ đặc già la là có thực. Lại có phái cho
Bổ đặc già la đồng nghĩa với người, như luận
Pháp uẩn túc quyển 2 gọi
quả vị tu hành Tứ song bát bối (bốn đôi tám bậc) là Tứ song bát chích
bổ đặc già la. [X. kinh Đại
bát nhã Q.409; kinh Đại nhật Q.1 phẩm
Trụ tâm; luận
Đại trí độ Q.35; luận
Đại thừa a tì đạt ma tạp tập Q.13;
luận Du già sư địa Q.83;
Huyền ứng âm nghĩa Q.23]. II.
Bổ đặc già la.
Kì na giáo giải nghĩa Bổ đặc già la là
vật chất, gồm đủ sắc, hương, vị, xúc, nhưng không có
ý thức.
Vật chất này được chia làm hai loại: một loại là các nguyên tử đất, nước, lửa, gió
vĩnh viễn không thể
phân chia; loại kia là thể
phức tạp do các nguyên tử cấu thành.