(恭敬) Phạm: Satkàsa, Pàli: Sakkàra. Mình tự khiêm nhường mà
tôn trọng lễ kính người khác.
Cung kính thông cả
ba nghiệp thân khẩu ý. Luận
Thập trụ tì bà sa quyển 2 (Đại 26, 19 thượng), nói:
Cung kính, nghĩa là nhớ đến
công đức và
tôn trọng người ấy. Trên đây là nói về
ý nghiệp. Cũng luận đã dẫn quyển 2 còn nói (Đại 26, 30 trung):
Cung kính, nghĩa là
tôn trọng lễ bái, đón đến đưa đi,
chắp tay đứng hầu ở gần. Đây là nói về
thân nghiệp. Cũng luận trên quyển 2 (Đại 26, 30 trung), nói: Đem pháp
Tiểu thừa giáo hóa chúng sinh, gọi là
cúng dường - đem
pháp Bích chi phật giáo hóa chúng sinh, gọi là phụng cấp - đem pháp
Đại thừa giáo hóa
chúng sinh, gọi là
cung kính. Đây gọi
khẩu nghiệp nói
pháp giáo hóa là
cung kính. Còn
cứ theo Đại đường tây vực kí quyển 2 chép, thì người
Ấn độ xưa biểu hiện lòng
tôn kính bằng chín cách: 1. Nói lời
thăm hỏi. 2. Cúi đầu. 3. Dơ tay cao mà vái. 4.
Chắp tay cúi mình. 5. Xuống gối. 6. Quì gối. 7. Đầu gối và tay đặt
sát đất. 8. Năm ngón tay đều co lại. 9. Đầu, hai khuỷu tay, hai đầu gối đều đặt
sát đất.
Tây phương yếu quyết quyển hạ chủ trương, người tu
Tịnh độ, phải tu năm thứ
cung kính: 1.
Cung kính bậc thánh có duyên. 2.
Cung kính tượng giáo có duyên. 3.
Cung kính thiện tri thức có duyên. 4.
Cung kính bạn đồng duyên. 5.
Cung kính Tam bảo. [X. luận
Phật tính Q.1 phần
Duyên khởi - luận
Đại trí độ Q.30].