(s: ṣaḍ-indriyāṇi, 六根): hay còn gọi là
Lục Tình (六情), tức 6
cơ quan cảm giác hay
năng lực nhận thức, là
Sáu Xứ trong
Mười Hai Xứ, Sáu Căn Giới trong
Mười Tám Giới. Căn (s, p: indriya, 根) có nghĩa là
cơ quan nhận thức. Sáu Căn gồm:
(1) Nhãn (s: cakṣus, p: cakkhu, 眼, mắt,
cơ quan và
năng lực thị giác);
(2) Nhĩ (s: śrotra, śrotas, p: sota, 耳, tai,
cơ quan và
năng lực thính giác);
(3) Tỷ (s: ghrāṇa, p: ghāna, 鼻, mũi,
cơ quan và
năng lực khứu giác);
(4) Thiệt (s: jihvā, p: jivhā, 舌, lưỡi,
cơ quan và
năng lực vị giác);
(5) Thân (s, p: kāya, 身,
thân thể,
cơ quan và
năng lực xúc giác); và
(6) Ý (s: manaḥ, p: mano, manas, 意, ý,
cơ quan và
năng lực tư duy).
Năm Căn đầu được gọi là
Ngũ Căn (五根), thuộc về
sắc pháp, có 2 loại:
cơ quan sinh lý là
Phù Trần Căn (浮塵根, hay Thô
Sắc Căn [粗色根]), tức 5 căn này
hiện hình trạng ra bên ngoài; còn
Ý Căn là
nơi nương tựa của tâm để
sanh khởi tâm lý, nương vào
Phù Trần Căn để có thể phát sinh
tác dụng thấy, nghe,
hiểu biết, v.v.; có tên là
Thắng Nghĩa Căn (勝義根, hay
Tịnh Sắc Căn [淨色根]). Như trong
Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經, Taishō No. 945) quyển 6 có dạy rằng: “Nhất thiết
chúng sanh,
Lục Thức tạo nghiệp, sở chiêu
ác báo, tùng
Lục Căn xuất (一切眾生、六識造業、所招惡報、從六根出, hết thảy
chúng sanh, Sáu Thức tạo nghiệp,
ác báo nhận lấy, do Sáu Căn ra).” Hay trong
Đạt Ma Đại Sư Phá Tướng Luận (達磨大師破相論, CBETA No. 1220) có
giải thích về
Lục Căn thanh tịnh rằng: “Lục
Ba La Mật giả, tức tịnh
Lục Căn dã; Hồ danh
Ba La Mật, Hán danh đạt
bỉ ngạn, dĩ
Lục Căn thanh tịnh, bất nhiễm
Lục Trần, tức thị độ
phiền não hà, chí
Bồ Đề ngạn; cố danh
Ba La Mật (六波羅蜜者、卽淨六根也、胡名波羅蜜、漢名達彼岸、以六根清淨、不染六塵、卽是度煩惱河、至菩提岸、故名六波羅蜜,
Sáu Ba La Mật tức là làm
trong sạch Sáu Căn; người
Ấn Độ gọi là
Ba La Mật, người
Trung Quốc gọi là qua
bờ bên kia; do Sáu Căn
trong sạch, không nhiễm
Sáu Trần, tức là qua sông
phiền não, đến bờ
Bồ Đề; nên được gọi là
Ba La Mật).” Hoặc trong bài
Di Sơn Phát Nguyện Văn (怡山發願文) của
Thiền Sư Di Sơn Kiểu Nhiên (怡山皎然, ?-?) nhà Đường cũng có câu: “Đệ tử
mỗ giáp, tự vi chơn tánh, uổng nhập mê lưu, tùy
sanh tử dĩ phiêu trầm, trục
sắc thanh nhi
tham nhiễm;
Thập Triền Thập Sử, tích thành
Hữu Lậu chi nhân;
Lục Căn Lục Trần, vọng tác
vô biên chi tội (弟子某甲、自違眞性、枉入迷流、隨生死以飄沉、逐色聲而貪染、十纏十使、積成有漏之因、六根六塵、妄作無邊之罪,
đệ tử …, tự sai chơn tánh, lầm nhập dòng mê, theo
sanh tử để
thăng trầm, đắm
sắc thanh mà
tham nhiễm; Mười Triền Mười Sử, tích thành
Hữu Lậu nhân sâu, Sáu Căn
Sáu Trần, lầm tạo
vô biên tội lỗi).”