Anatma or Nairatmyam (skt)—Egolessness, no-self, not self, non-ego, or the emptiness of a self—Thuyết
Vô Ngã có hai đặc tánh chính là
pháp vô ngã và nhân vô ngã—The doctrine of no-self has two main characteristics: selflessness of things (dharma-nairatmya) and selflessness of person (pudgalanairatmya)—See
Pháp Vô Ngã, and
Nhân Vô Ngã. a) Thuyết
tất định chỉ cho
lý thuyết có sự
quyết định của 'định mệnh,' hay
Thiên mệnh, hay
thượng đế.
Phật giáo chủ trương sự
vắng mặt của một
bản ngã thường hằng bất biến. Theo
Kinh Duy Ma Cật,
vô ngã có nghĩa là sự
hiểu biết chơn chánh rằng thân gồm
ngũ uẩn chứ không có cái gọi là “bản ngã
trường tồn.”
Tứ đại chỉ
hiện hữu bởi những duyên hợp. Không có
vật chất trường tồn bất biến trong thân nầy. Khi
tứ đại hết duyên tan rã thì thân nầy
lập tức biến mất. Vì
vật chất do
tứ đại cấu thành, trống rỗng, không có
thực chất, nên
con người do
ngũ uẩn kết hợp, cũng không có tự ngã
vĩnh cữu.
Con người thay đổi từng giây từng phút. Theo
giáo lý Tiểu Thừa thì “Vô Ngã” chỉ
áp dụng cho
loài người, nhưng trong
Phật giáo Đại Thừa thì
vạn hữu đều vô ngã—Not-self, No-self, Egolessness, Non-Personality, Non-self, or Non-ego—Determinism means the theory of being determined by fate, nature, or god. Buddhism believes in the absence of a permanent, unchaging self or soul—Non-existence of a permanent self. According to the Vimalakirti Sutra, the body consists of the five elements or skandhas, which together represent body and mind, and there is no such so-called “self.” Elements exist only by means of union of conditions. There is no eternal and unchangeable substance in them. When these come apart, so-called “body” immediately disappears. Since the form which is created by the four elements is empty and without self, then the human body, created by the unification of the five skandhas, must also be empty and without self. Human body is in a transforming process from second to second. In Theravada, no-self is only applied to the person; in the Mahayana, all things are regarded as without essence. b) Theo Giáo Sư Junjiro Takakusu trong
Cương Yếu Triết Học Phật giáo,
Đức Phật xem
thế giới nầy là
thế giới của khổ đau, và Ngài đã dạy những
phương pháp đối trị nó. Vậy cái gì đã làm
thế giới nầy
trở thành khổ đau?
Lý do đầu tiên như
Đức Phật đã dạy, là các pháp đều
vô ngã, nghĩa là
vạn vật,
hữu tình hay vô tình, tất cả đều không có cái mà
chúng ta có thể gọi là
bản ngã hay
thực thể.
Chúng ta thử khảo sát
con người. Một người không thể xem
tinh thần hay hồn của y là một
thực ngã. Y
hiện hữu nhưng không thể nào nắm được cái
thực thể của y, không thể
tìm thấy được
tinh thần của y, bởi vì sự
hiện hữu của
con người không gì ngoài cái 'hiện hữu
tùy thuộc vào một chuỗi
nhân duyên.'
Mọi vật hiện hữu đều là vì
nhân duyên, và nó sẽ tan biến khi những
tác dụng của chuỗi
nhân duyên ấy
chấm dứt: According to Prof. Junjiro Takakusu in The Essentials of Buddhist Philosophy, the Buddha regarded this world as a world of hardship, and taught the ways to cope with it. Then what are the reasons which make it a world of hardship? The first reason, as given by the Buddha is that all things are selfless or egoless, which means that no things, men, animals and inanimate objects , both living and not living, have what we may call their original self or real being. Let us consider man. A man does not have a core or a soul which he can consider to be his true self. A man exists, but he cannot grasp his real being, he cannot discover his own core, because the existence of a man is nothing but an “existence depending on a series of causations.” Everything that exists is there because of causations; it will disappear when the effects of the causation cease. c) Những làn sóng trên mặt nước quả là
hiện hữu, nhưng có thể gọi mỗi làn sóng đều có tự ngã hay không? Sóng chỉ
hiện hữu khi có gió lay động. Mỗi làn sóng đều có riêng
đặc tính tùy theo sự
phối hợp của những
nhân duyên, cường độ của gió và những chuyển động,
phương hướng của gió,
vân vân. Nhưng khi những
tác dụng của những
nhân duyên đó
chấm dứt, sóng sẽ không còn nữa. Cũng vậy, không thể nào có cái ngã biệt lập với
nhân duyên được: The waves on the water's surface certainly exist, but can it be said that a wave has its own self? Waves exist only while there is wind or current. Each wave has its own characteristics according to the combination of causations, the intensity of the winds and currents and their directions, etc. But when the effects of the causations cease, the waves are no more. Similarly, there cannot be a self which stands independent of causations. d) Khi
con người còn là một
hiện hữu tùy thuộc một chuỗi
nhân duyên thì , nếu y
cố gắng trì giữ lấy chính mình và nhìn
mọi vật quanh mình từ
quan điểm độc tôn ngã là một điều thật
vô lý.
Mọi người phải
từ bỏ cái ngã của mình,
cố gắng giúp đỡ kẻ khác và phải nhận hức cái
hiện hữu cộng đồng, vì không thể nào
con người hoàn toàn hiện hữu độc lập được: As long as a man is an existent depending on a series of causations, it is unreasonable for him to try to hold on to himself and to regard all things around him from the self-centered point of view. All men ought to deny their own selves and endeavor to help each other and to look for co-existence, because no man can ever be truly independent. e) Nếu
mọi vật đều
hiện hữu tùy thuộc vào một chuỗi những
nhân duyên thì cái
hiện hữu đó cũng chỉ là
tùy thuộc điều kiện mà thôi; không có một
vật chất nào trong
vũ trụ nầy có thể
trường tồn hay
tự tại. Do đó
Đức Phật dạy rằng
vô ngã là yếu tính của
vạn vật, và từ đó, đưa đến một
lý thuyết nữa là
vạn vật đều
vô thường, là điều không thể tránh: If all things owe their existence to a series of causations, their existence is a conditional one; there is no one thing in the universe that is permanent or independent. Therefore, the Buddha's theory that selflessness is the nature of all things inevitably leads to the next theory that all things are impermanent (anitya). f) Hầu hết
mọi người đều dốc hết
năng lực vào việc
gìn giữ sự
hiện hữu của mình và những
tư hữu của họ. Nhưng
thực ra, không thể nào tìm được
trung tâm hiện hữu của nó, cũng không thể nào giữ nó
đời đời được. Không vật nào là không
biến chuyển, ngay cả trong một
sát na. Không những nó bất ổn trong tương quan với
không gian, mà nó cũng bất ổn trong tương quan với
thời gian nữa. Nếu ta có thể tìm được
một thế giới không có
không gian và
thời gian,
thế giới đó mới thật là
thế giới tự do chân thật, tức là
Niết Bàn: Men in general seem to be giving all of their energy to preserving their own existence and their possessions. But in truth it is impossible to discover the core of their own existence, nor is it possible to preserve it forever. Even for one moment nothing can stay unchanged. Not only is it insecure in relation to space but it is also insecure in relation to time. If it were possible to discover a world which is spaceless and timeless, that would be a world of true freedom, i.e., Nirvana. g) Nếu như những nhà
vật lý hiện đại xác nhận,
không gian là một trong những số lượng
biến đổi và
thời gian là
tương đối thì
thế giới của
không gian thời gian nầy là cái ngục tù mà
chúng ta không thể nào thoát ra được, tức là
chúng ta đã bị
trói buộc trong vòng nhân quả rồi vậy: If, as the modern physicists assert, space is curved and time is relative, this world of space and time is our enclosed abode from which there is no escape; we are tied down in the cycles of cause and effect. h) Khi nào
con người chưa tìm được cái
thế giới không bị hạn cuộc bởi
thời gian và
không gian,
con người vẫn phải là một tạo vật khổ đau.
Xác nhận rằng
con người có
thể đạt được
cảnh giới đó,
cảnh giới không bị hạn cuộc bởi
thời gian và
không gian là sứ mệnh của
Phật Giáo: As long as men cannot discover a world which is not limited by time and space, men must be creatures of suffering. To assert that such a state, unlimited in time and space, is attainable by man is the message of Buddhism. i)
Lẽ dĩ nhiên không có gì có thể được
xem như là
không gian vô hạn và
thời gian vô cùng. Ngay cả
vật lý học ngày nay cũng nhìn nhận cái
vô tận của
thời gian và
không gian.
Tuy nhiên,
Đức Phật đã xướng thuyết về
lý tưởng Niết Bàn hay
tịch diệt, theo nguyên tắc
vô thường và
vô ngã.
Niết Bàn có nghĩa là hủy diệt
sinh tử, hủy diệt
thế giới dục vọng, hủy diệt những
điều kiện thời gian và
không gian. Sau hết,
Niết Bàn có nghĩa là
cảnh giới của
giải thoát viên mãn.
Vô ngã hay không có sự
bất biến,
vô thường hay không có sự
trường tồn là
trạng huống thật sự của sự
hiện hữu của
chúng ta.
Niết Bàn theo nghĩa
tiêu cực là hủy diệt, nhưng theo
nghĩa tích cực là tròn đầy, là
lý tưởng của
chúng ta, ấy là
sự giải thoát trọn vẹn: Of course, there is no such thing as a limitless time. Even modern physical science does not recognize infinity in time and space. However, the Buddha brought forward his ideal, Nirvana (extinction), following his theories of selflessness and impermanence. Nirvana means extinction of life and death, extinction of worldly desire, and extinction of space and time conditions. This, in the last analysis, means unfolding a world of perfect freedom. Selflessness (no substance) and impermanence (no duration) are the real state of our existence; Nirvana (negatively extinction; positively perfection) is our ideal, that is, perfect freedom, quiescence.