Một trong những vai tròphục hưngxã hội và cách mạngvăn hóa của Đức Phật, điều mà đôi khi bị các sử gia lãng quên, đó là giải phóngphụ nữ. Đức Phật phát huy một cuộc cách mạng trong tư tưởng và trong lối cảm xúc của đại chúng bằng cách công khai và can đảmtuyên bố rằng người nữ có thể đạt đến mức tiến bộtuyệt đỉnh, thành tựutrí tuệthâm sâu dẫn tới Niết bàn.
Tuyên ngôn này đã gây một biến động lớn lao trong giới tôn giáo thời bấy giờ vì đó là trực tiếp đương đầu với niềm tin đã ăn sâu vững chắc trong dân gian. Sự kiệnĐức Phậtchấp nhậnthành lậpgiáo hộiTỳ kheo ni (*), nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làmduy nhất và chưa từng thấy trong lịch sửtôn giáo cũng như các trường phái tư tưởng được biết trước và ngay thời Đức Phật.
Cho nên có thể nói rằng hàng phụ nữ trên thế giới vẫn chịu một món nợ trường cửu đối với Đức Phật vì Ngài đã nâng cao họ từ địa vịthấp kém và nhục nhã nhất trong xã hội lên hàng danh dự này.
Thế nhưng, cũng chính sự việc thành lậpgiáo hộiTỳ kheo ni mà người nữ xuất gia giữa thời đạitiến bộ hiện nay lại miễn cưỡng trong niềm hạnh phúc lớn lao đó, vì họ ngờ vựcĐức Phật chưa thực sự triệt để trong việc nâng caovị trí của họ ngang hàngdanh dự với nam giới, đã chế ra tám điều cần phảicung kính. Tám điều kiện ấy có thực sự quan trọng làm tăng ích cho giáo hộiTỳ kheo nitồn tại hay chỉ có tính khả thi trong hoàn cảnhxã hội đương thời?
Tưởng cần nhắc lại sự việc thành lậpgiáo hộiTỳ kheo ni và nguyên nhânĐức Phật chế ra tám điều kiệncần phải cung kỉnh. Sau khi vua Suddhodana (Tịnh Phạn) băng hà, bà Mahà Pajàpati Gotami (Ma Ha Ba Xà Ba Đề - Kiều Đàm Di) nhàm chán sự giả tạm của kiếp phù du, quyết địnhtrở về nương tựa đời sốngxuất giagiải thoát. Một lần, khi Đức Phật về lại kinh thành Kapilavattu (Ca Tỳ La Vệ) để giảng hòa một cuộc tranh chấpdữ dội giữa hai dân tộc Sakyan và Koliyan, đang giành quyền sử dụng nước của dòng sông Rohini.
Sau khi cuộc cãi vã cay đắng đã được dàn xếp ổn thỏa và hai bên dịu giọng, như thường lệ, Đức Thế Tôn mở lời thuyết giảnggiáo pháp, và sau thời pháp đó một số đông người trai trẻ Sakyan xin gia nhập vào giáo hội chư Tỳ kheo. Các bà vợ của những vị ấy, do bà Mahà Pajàpati Gotami hướng dẫn đến chỗ Đức Phật khẩn khoản xin được xuất gia: “Bạch Đức Thế Tôn, thật là một đại hạnh cho nữ giới nếu hàng phụ nữ chúng con được chấp nhậngia nhập vào Tăng đoàn để khép mình trong khuôn khổ của giáo pháp và giới luật mà Ngài công bố”. Đức Phật không sẵn sàng khích lệ thỉnh nguyện của bà Gotami và trả lời: “Đủ rồi, này Gotami, Như Lai không thể làm vừa lòng bà và chấp nhận như vậy”.
Lần thứ nhì, rồi lần thứ ba, bà Gotami lặp lại lời thỉnh cầu, nhưng mỗi lần đều bị từ chối. Sau đó Đức Thế Tônlần hồi sang thành Vesali (Phệ Xá Ly) và ngự trong một đền thờ trên đỉnh núi. Bà Gotami vẫn không nao núng ngã lòng vì những đợt thỉnh nguyện bất thành, mà bền gancam chịu mọi khổ nhọc và đương đầu nghịch cảnh, quyết định theo chân Đức Thế Tôn đến Vesali cùng với một số đông mệnh phụ phu nhân có niềm tin nơi bà (có nơi nói cùng với 500 người nữ giòng họ Xá Di).
Cắt bỏ chùm tóc đẹp thuở nào, vứt bỏ nữ trang lộng lẫy, tự khoác lên mình tấm y thô thiển, các bà cam chịu khổ nhọc đi bộ, trải qua đoạn đường dài 150 dặm đến Vesali, mình mẩy lấm lem bụi bặm, y phục rách rưới tả tơi, chân cẳng sưng vù đau nhức. Thế mà, ba lần kiên nhẫn nhờ thầy thị giảA Nan tha thiết trình bày nguyện vọng, Đức Phật vẫn một mực chối từ.
Song, dưới sự nài nỉ nồng nhiệt của Tôn giả A Nan, sự tinh tế chọn điểm tế nhị là vấn đềbiết ơn đối với Di mẫu Gotami và đặc biệt là gợi mở khả năng của người nữ có thể chứng nhậpbốn quả Thánh nên Đức Phật đã thuận lòng.
Tuy nhiên, với trí tuệ nhìn xa và hiểu rộng, Đức Thế Tôn có thể thấy những hiểm họa và những khuyết điểm không thể tránh trong việc điều hành song song hai giáo hộiTăng già cùng một lúc. Do đó, Ngài ban hành tám điều qui định cho giáo hộiTỳ kheo ni nhằm giữ gìn và bảo vệ tương lai cho cả hai giáo hội.
1 Một Tỳ kheo ni, dầu có trăm tuổi hạ khi gặp thầy Tỳ kheo mới thọ giớiCụ túc cũng phải chào hỏi, đảnh lễ và thực hành tất cả những bổn phận thích nghi đối với vị Tỳ kheo.
2- Một Tỳ kheo ni không được khiển trách hay nặng lời đối với một vị Tỳ kheo trong bất kỳ trường hợp nào.
3- Tỳ kheo ni không được ngăn Tỳ kheo xét tội, thuyết giới, tự tứhay nói lỗi của Tỳ kheo. Trái lại, Tỳ kheo được quyền cử tội Tỳ kheo ni.
4- Muốn thọ trìCụ túc giới phải thông qua hai bộ Tăng: Tỳ kheo ni và Tỳ kheo
5- Nếu Tỳ kheo niphạm tộihữu dư (Tăng tàn) thì phải đến trước hai bộ Tăng thực hành pháp Ý hỷ (Ma na đỏa) trong thời gian nửa tháng.
6- Nửa tháng phải đến bên Tỳ kheo tăng cần cầudạy bảo.
7- Không được an cư kiết hạ ở địa phương nào không có Tỳ kheo ở.
8- Khi an cư xong, phải đến Tỳ kheo tăng cầu ba sự tự tứ: thấy, nghe và nghi.
Tôn giả A Nan trao truyền lại tám điều giới pháp ấy cho bà Mahà Pajàpati Gotami. Bà vui mừng khôn xiết, hoan hỷlãnh thọ và nguyện kính giữ trọn đời không vi phạm. Sau khi giáo hộiTỳ kheo nithành lập dưới sự lãnh đạo của bà Gotami - Đại Ái Đạo, từ các nẻo đường cuộc sống, mọi tầng lớp trong xã hội đến gia nhập vào giáo hội và công trìnhnỗ lựctiến tớimục tiêugiải thoáthoàn toàn của các bà đã để lại trong văn họcPhật giáo những trang vẻ vang chói lọi bằng khúc ca khải hoàn, Therigàthà (những Thánh thi của chư Tỳ kheo ni).
Không còn nghi ngờgì nữa về sự ra đời và tồn tạiđến nay của giáo hộiTỳ kheo ni khắp nơi trên thế giới. Chúng ta thấy được tuệ giác gì nơi Đức Phật khi năm lần bảy lượt Ngài mới tán thành việc thành lậpgiáo hộiTỳ kheo ni và đặt chế tám điều kiện trước khi cho ra đời thêm một giáo hội nữa? Sự kiệnĐức Phậtthông hiểu tiềm năng sâu ẩn và khả năng hoàn mãn những thành tựu vĩ đại và cao thâm của hàng phụ nữ không làm cho Ngài mù quáng không thấy những khuyết điểm về kết cấu tâm sinh lý của người nữ.
Khuynh hướng nhẹ dạ yếu mềm của người nữ dễ dàng rơi vào tội lỗi, dễ bị khuyến dụ đi trên con đường kém đạo Đức. Chính điểm đặc thù ấy là một trở ngại lớn lao cho phẩm hạnh cốt yếu của người sống độc thân, vốn dĩ rất cần thiết cho sự điều hành suôn sẻ của một cộng đồng. Đó là thiên tánh. Đức Phật vạch rõ yếu kém và khuyết điểm của hàng phụ nữ không phải để chế nhạo hay cười khinh, mà Ngài nhắm đến mục tiêu cao quý là giúp họ nhận định những khó khăn gây trở ngại cho những nỗ lựcthành tựumục tiêu của mình và khuyến khích họ thận trọng canh phòng các cuộc tấn công của những khát vọng, các cuộc đột kích của những cám dỗ.
Đức Phật không vì sự trở ngại đó mà không tạo điều kiện cho họ vượt lên ngang hàng với vị trí mà nam giới có thể tới, chứng đắc quả giải thoát. Song, thái độdo dự trước khi chấp nhận người nữ vào giáo pháp là hồi chuông cảnh báocon đườngtiến bộ của họ đầy dẫy sự hiểm nguy và ảnh hưởng đến sự tồn vinh Phật pháp.
Rõ ràng trong thiên tánh người nữ đã không thể so sánh với người nam, mặc dù dù khả năng tiến bộ và thành tựumục tiêuNiết bàn có ngang nhau. Nhưng làm sao để người nữ luôn khắc ghi sâu vào lòng bài học tự mình uốn nắntâm tánh, diệt trừbản ngã mãnh liệt để thành đạtmục tiêutối hậu là một công trình vĩ đại, là thành trì phải được bảo vệkiên cố hơn người nam tiến tu gấp nhiều lần. Làm sao để người nữ xuất gia luôn thấy rằng việc thành lập cho giáo hộiTỳ kheo nisở dĩthành tựu là từ sự có mặt vững chãi trước đó khoảng 20 năm của giáo hộiTỳ kheo (Căn bản tạp sự - Q.37, Kinh Trường A Hàm) làm điểm tựa.
Làm thế nào để Tỳ kheo ni hiểu rằng sự thành lậpgiáo hội của họ từ giai đoạn sơ khai đã mang theo với nó một vài yếu tố hiểm nguy, và nếu không có những phương sáchdự phòng, trong tương lai có thể xảy ra những bất trắc khó lường. Vì thế, Đức Phậtban hành ra tám điều giới hay tám điều kiệnbảo vệ. Chính tám điều giới này tạo điều kiện để điều hànhtốt đẹp hai cơ quan trong tinh thầntrang nghiêm và thích đáng với bản tánhtự nhiên. Nó giữ chư Ni trong vị tríthích hợp với tâm tánh người nữ. Cũng chính tám điều giới này đã hỗ trợ trạng thái điều hòa và thuận thảo, đem lại tình giao hảothích nghi giữa Tỳ kheo và Tỳ kheo ni.
Người nữ học giới ngày nay lẽ nào không thấy được giá trịthiết thực tám điều giới làm khuôn phép tiến tu và điều kiệncần thiết cho sự tồn tạigiáo hộiTỳ kheo ni mà lại không muốn tuân thủ, cho là lỗi thời? Lẽ nào Tỳ kheo tăng ngày nay không đáng cung kính? Tăng thì luôn luôn thanh tịnh và hòa hợp, vì Tăng là chỉ số gồm có 4 vị Tỳ kheo trở lên. Nếu cho rằng Tăng không đáng cung kính vì thiếu sự thanh tịnh và hòa hợp, giáo giới Ni chúng sẽ không hợp căn cơ, không làm cho Ni chúngvui thích mà không cầu giáo thọ hay không đến Đại Tăngcầu thọcụ túc giới thì nhất địnhkhông tồn tại tánh Tỳ kheo ni.
Có thể vì một vài cá nhânTỳ kheo nào đó bê bối không đủ phạm hạnh khiến chư Ni bất nhẫn không muốn cung kính, nhưng đừng vì thế mà quên rằng việc cầu giáo thọ hay cầu thọđại giới là cầu với Tăng chứ không phải cầu với cá nhân. Song, cho dù cá nhân vị Tỳ kheo đó có như thế nào đi nữa thì đó cũng thuộc phạm vi của giáo hội chư Tỳ kheo, Tỳ kheo ni phải luôn nhớ trong tám điều không thể vượt qua đó đã ghi rõ không được khiển trách hay nặng lời đối với Tỳ kheo, không được chê bai nói rằng: Thầy phá giới, phá kiến, phá oai nghi (Luật Tứ Phần, Ngũ Phần, Ma HaTăng Kỳ - Q.3). Đủ thấy, tám điều giới pháp là linh hồn của giáo hộiTỳ kheo ni không thể không bảo trọng, như trong Luật Tứ Phần - Tỳ kheo ni ghi : “Như vậy đó A Nan! Ta nay đã nói tám kỉnh pháp suốt đờitôn trọng không được trái phạm, nếu người nữ nào thực hành được thì tức là được thọ giới. Cũng ví như có người muốn qua dòng nước lớn, phải bắc cầu mà đi qua”.
Chiếc cầu lợi ích qua dòng sông sanh tử đó ai muốn bỏ vì thấy ràng buộc thì tùy. Nhưng hãy nên nhớ một điều nếu không có tám phápcung kính đó thì chắc chắn không có giáo hộiTỳ kheo ni hình thành và cũng không có ai là thật tánhTỳ kheo ni.
Vấn đề sự xuất hiệnTỳ kheo ni đã làm chánh pháp mất đi một nửa có liên quan gì đến Bát kỉnh pháp? Chúng ta có thể lý giải điều này là do sự song hành vận động của hai giáo hội là điều kiệnthuận lợi cho hai hệ phái vốn còn mang nhiễm tính “cọ xát”. Sự qua lại thuận tiện gần như “hợp thức hóa” giữa Tăng và Ni, tính yếu mếm cần được chở che của Tỳ kheo ni, sự phô trương đức tính tùng bách hiên ngangnâng đỡ của hàng Tỳ kheo đã là nội dung chính yếu cho ngọn lửa ái nhiễm bốc cháy. Tất nhiên chánh pháp có đổi sang tượng pháp là do người tu chứng ngộ ít dần chứ không thể đổ thừa do sự xuất hiện của Tỳ kheo ni.
Nhưng xét kỹ nguyên nhân không chứng nhậpNiết bàn là hành giả không phát huy được định tuệ. Định tuệ có từ giới. Khả năng hư hại giới pháp của các thầy Tỳ kheo không gì khác hơn là nữ sắc, mà trong đó Tỳ kheo ni là khả năng nhiều nhất. Vì thế, Bát kỉnh pháp đối với Tỳ kheo ni là điều nhất định không thể vượt qua, để duy trì một nửa chánh pháp còn lại, để giữ gìn sự thanh khiết và thánh thiện giữa hai giáo hộihiện tại và tương lai.
Tóm lại, có thể nói tám giới trọng yếu đó là nền tảng vững chắc làm nền để xây dựng kiến trúc đồ sộ và công trìnhsinh hoạt chảy trôi suôn sẻ của hai giáo hội.
HT .Thích Minh Thông
Nguồn: Báo Giác Ngộ, số Xuân 2002 (*) Bây giờ gọi là Ni bộ, danh từ Giáo hội chỉ sử dụng chung cho cả hai bộ.
12-22-2002 04:15:33
Đây là một sự canh tân mới lạ phi thường vì nó chấp nhận cho hàng phụ nữđặc quyền tiếp thụ một bản chất cao quý, một sức mạnhkiên cốvững chắc trong nền đạo lý, một khả năng thấm nhuầntrí tuệthâm sâungang hàng với nam giới. Và hơn 25 thế kỷ đã trôi qua, mặc dù nhiều hệ thốngtôn giáo khác đã phát triển cực thịnh, nhưng vẫn chưa thấy có thêm một tôn giáo nào thành lập một giáo hội cho hàng nữ tu sĩ.
Sau những ngày Miến Điện nghỉ Tết, nhóm thiện nguyện Ánh Sáng Từ Bi do Sư Cô Tn Như Hiếu điều hành đã tiếp tục dấn thân cứu trợ. Hôm nay 22. April 2025 chúng con xin tiếp tục tường trình hình ảnh cứu trợ động đất Myanmar đợt 5. Cũng như 4 đợt cứu trợ vừa qua, lần này chúng con cũng kết hợp cùng với chư vị Bhante, chư Tăng Ni VN tại Myanmar (Nhóm thiện nguyện Ánh Sáng Từ Bi, Quỹ Phụng Sự Tâm An, Quỹ Từ Tâm, nhóm Sư Cô Thích nữ Như Hiếu- Suriyavati)
Xin tường trình Lộ trình đi cứu trợ miền động đất Myanmar.
Kính gửi : Chư tôn Hòa thượng Trưởng lão,Chư Hòa thượng,Chư Thượng tọa, Đại đức Tăng ni,Quý Phật tử trong vả ngoài nước : THÔNG BẠCH ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PHẬT LỊCH 2569 của HĐGPTƯ Chánh thư ký Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống,Tỳ kheo Thích Đức Thắng
Khởi sự với lòng từ mong muốn đem nguồn nước của đức “Đại Bi” khơi nguồn nơi khô cằn sỏi đá và thiếu nguồn nước vào mùa khô ở Đăk Nông, từ ngày 19 tháng Giêng năm Ất Tỵ (19/2/2025) chúng con đã đi tiền trạm, khảo sát các trường học/ khu dân cư cần giếng nước sạch ở Đăk Nông. Sau khi tiến hành khảo sát đợt 1 vào ngày 19/2/2025 và đợt 2 vào ngày 17/3/2025, chúng con đã chọn lọc trong số các trường đã khảo sát và quyết định tặng 18 giếng nước/công trình lọc nước phèn/máy phát điện cho 20 trường học thuộc tỉnh Đăk Nông (có 4 trường trong cùng khuôn viên đất ở 2 địa điểm sẽ sử dụng chung công trình được tặng).
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.