MOONLIGHT SONATA 14 VÀ THIỀN TRĂNG
Hạnh Chi
Trăng 14 lẻn nhẹ vào thiền đường. Mắt khép hờ mà hành giả vẫn thấy rõ. Nhưng trăng ngây thơ, tưởng sẽ đùa như trẻ nhỏ khi vờn lên vạt áo tràng nâu làm hành giả giật mình, để trăng khúc khích cười.
Thôi được, giả như không thấy mà tạo niềm vui thì có sao đâu, nhất là niềm vui này lại tặng ánh trăng, đối tượng tri kỷ thường cùng tọa thiền những đêm tĩnh lặng.
Đêm nay 14 nên trăng tỏ. Vạt áo nâu loang loáng ánh trăng tưởng như đang muốn lao xao múa hát. Trăng và áo đồng lõa, lay động những ngón tay đang đặt lên nhau. Hương từ bụi dạ lý bên cửa sổ cũng nhập cuộc, cùng “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”. Tất cả chợt quyện vào nhau: Hành giả, trăng, hương dạ lý, cùng vỗ đôi cánh nâu, nhịp nhàng theo một cung bực.
Cung bực gì? Ở đâu vọng tới vậy?
Ranh giới giữa mộng và thực bỗng như cánh gió, bay lên, theo bước âm thanh mời gọi.
Đây rồi. Người thiếu nữ tên Countess Giulietta Guicciardi đứng bên hồ
Beethoven đã phá vỡ những quy luật cổ điển về thể loại Sonata, khi ông không dành những cảm xúc sâu thẳm ở phần đầu, mà lại cuốn hút người nghe vào biển sóng dồn dập của nhịp điệu đô-thăng-thứ ở những trường canh cuối, nghiền nát bao đau thương tột cùng chảy tan thành lệ; rồi từng giọt, từng giọt rỏ xuống nhân gian, tạo thành những tiết tấu bất hủ trong “Moonlight Sonata 14” mà đến nay, đã hơn 200 năm, có ai dám tự nhận bước qua?!
À, thì ra tương ngộ là đây. Thiền trăng 14 và Moonlight Sonata 14.
Nếu gọi đầy đủ, thì tên của tác phẩm vượt thời gian, không gian này phải được xướng lên là “Moonlight Sonata No.14 Quasi Una Fantasia”. Tiếng Ý, Quasi Una Fantasia là Almost A Fantasy, là Hầu Như Ảo Vọng.
Có lẽ cái tên không nhất thiết phải dài đến thế, nếu thời đó các nhạc sỹ có thể đặt tựa cho mỗi bản nhạc như bây giờ. Nhưng ở thế kỷ mà nền âm nhạc cổ điển được trân quý như âm thanh của chốn cung đình thì tên tác phẩm thường đặt theo thể loại (Sonata, Etude, Prelude, Symphony …) và tiếp theo là số thứ tự; đôi khi, thêm vài nét đặc thù theo cảm xúc của tác giả khi sáng tác. Đó là trường hợp Moonlight Sonata No.14 có thêm ba chữ “Quasi Una Fantasia”
Thiên tài thường đi trước thời gian, những kẻ đồng thời mấy ai nhận biết! Nên khi Countess Giulietta Guicciardi nghe được, hiểu được, chia xẻ được giòng nhạc lạ lùng này thì Beethoven sửng sốt, cảm động, bàng hoàng, tưởng như chỉ là ảo vọng.
Nhưng nàng có thật.
Nàng đứng đó, nghiêng đầu, uống từng giọt lệ rơi xuống từ mỗi cung bực. Những trường canh nhẹ như tơ lướt theo cánh buồm căng gió. Trăng nhấp nhô, vỡ vụn trên mặt hồ khi âm thanh chuyển dần vào bóng tối của những nhánh cây khô chĩa ra từ ven bờ.
Có phải đây là thông điệp về Khổ đau đã có mặt. Sự thật đầu tiên trong Tứ Diệu Đế tất nhiên có mặt, vì trong mỗi phút giây của sự sống đều có lực đẩy của sự chết, trong gần gũi đã có chia xa, trong tôi, em sẽ biến mất!
Nhận ra điều đó chính là sự thật thứ hai, là nguyên nhân của khổ đau.
Hình ảnh cánh buồm chao đảo bật lên, cùng với âm thanh diễn tả sự quằn quại của sức gió, rồi lắng xuống, lắng xuống, khi trăng ẩn vào mây. Nơi ấy đã sẵn sự thật thứ ba. Đó là sự chấm dứt khổ đau.
Tới đây, tuyệt chiêu của ma lực âm thanh vỡ ra, rách bung cánh buồm không người, đang lững lờ trôi dần vào hải đảo tự thân. Cuối cùng chỉ là trở về bản thể bằng sự thật thứ tư, là con đường đi tới sự chấm dứt khổ đau.
Cùng với Tứ Diệu Đế, những nốt cuối của Moonlight Sonata No.14 lặng lẽ rụng rơi, trả bàn phím trở về thân gỗ mục.
Như Beethoven và Countess bàng hoàng lạc nhau.
Như trăng 14 ngủ yên trong mây nên trăng khuyết.
Như dạ lý quên đánh thức gió nên hương chẳng bay xa.
Tất cả đều phải trở về sự lắng trong, thinh lặng và Cô Đơn Tuyệt Đối.
Đó là bi thương cùng cực, mà cũng là hạnh phúc vô bờ của kiếp nhân sinh và vạn hữu.
Dường như hành giả vừa bước qua một khung cửa hẹp.
Rất hẹp.
Chỉ vừa lọt đủ một chữ “KHÔNG”
Hạnh Chi
(Thiền đường Trăng Rằm, một đêm trăng)