Nguyên tác: Quảng Hóa – Lý Bỉnh Nam
Việt dịch: Thích Tâm Anh
Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn
Làm sao tránh kiếp đao binh
1.
Cội gốc đưa đến chiến tranh
Chúng ta phải hiểu rõ
rằng, hết thảy nỗi thống khổ của chiến tranh từ đâu mà có? Không có điều gì là
không có nhân quả. Quá khứ tạo nhân bát khổ, thì hiện tại phải chịu quả bát
khổ. Hiểu được quan hệ của nhân quả thì biết ngay kiếp can qua cũng là một loại
quả báo. Nhưng có một số người không tin vạn pháp đều có lý nhân quả. Bởi không
học Phật, cho nên họ không tin lý nhân quả. Không tin nhân quả, vậy can qua
nguyên nhân do đâu? Trí tuệ của phàm phu chỉ biết được hiện tại. Cách nhìn của
phàm phu thế gian và cách nhìn của Thánh nhân căn bản không giống nhau. Cách
nhìn của phàm phu chia làm hai loại: thứ nhất, họ cho rằng kiếp can qua là do
bọn xâm lược chủ nghĩa đến quốc gây ra, muốn chinh phục thế giới mà gây nên
chiến tranh. Cách nhìn thứ hai, họ cho rằng do bọn dã tâm trong nước không giữ
bổn phận, nhiễu loạn trị an nội bộ, tạo phản dẫn đến đánh nhau, nên đã xảy ra
kiếp nạn can qua. Phàm phu thường tình cho hai điều này chính là nguyên nhân
gây nên chiến tranh. Thật ra, đây hoàn toàn không phải là nguyên nhân chính,
chẳng qua chỉ là một trợ duyên mà thôi. Kiếp can qua là duyên, vậy thì nhân của
nó ở đâu? Điều này không phải là cái mà kẻ thường tình có thể hiểu được, phải
là bậc Thánh trí tuệ siêu xuất mới có thể thông tỏ.
2.
Trí tuệ bậc thánh có thể thấy được quá khứ
Phật Pháp vô biên. Chỉ có Phật giáo mới có thể nói rõ được nguyên
nhân vì sao xảy ra chiến tranh. Chúng ta đưa ra một ví dụ: Gieo hạt giống dưa
xuống đất, đó gọi là nhân. Sau hạt giống nảy mầm, lớn lên ra trái, gọi đó là
quả. Trợ duyên chính là điều kiện sinh trưởng. Giống như sau khi gieo hạt giống
xuống, phải tưới nước, bón phân, có ánh sáng mặt trời mới sinh ra quả. Cho nên,
chắc chắn có nhân, có duyên mới có quả. Như vậy, xem ra rõ ràng hơn rất nhiều.
Thấy quả thì biết ngay nhân, giống như thấy dưa thì biết ngay dưa là từ hạt
giống dưa mà có. Hiện tại, sở dĩ bị quả báo chiến tranh, là do đời trước tạo
nhân chiến tranh. Quý vị phải biết, quả báo của chiến tranh là chết chóc, thì
nhân của nó chắc chắn phải là nhân giết chóc. Lại thêm trợ duyên của bọn dã tâm
và chủ nghĩa đế quốc, nên đã xảy ra quả báo chiến tranh. Nhưng rất tiếc, phàm
phu không biết được nhân này, chỉ có Phật, Bồ tát mới hiểu rõ được. Điều này
không phải nói dóc hay suy đoán. Phật, Bồ tát có thiên nhãn thông, cho nên thấy
rất rõ nhân quả của chiến tranh, thấy được chúng sinh từ xưa đến nay luôn tạo
nghiệp sát, không ai là không sát sinh. Và sát sinh được phân làm hai: một là
trực tiếp giết, hai là gián tiếp giết. Tạo hai nghiệp sát này, lâu này gặp
duyên tất kết thành quả chiến tranh. Vậy thì, thế nào là trực tiếp giết và gián
tiếp giết? Đồ tể trực tiếp giết heo, dê, bò gọi là trực tiếp giết. Vì ngày nào
chúng ta cũng ăn thịt nên đồ tể mới giết. Vì chúng ta họ mới giết, nên gọi là
gián tiếp giết. Hai loại này đều là nhân sát.
3.
Thủ phạm giết chính
Mọi người đều cho rằng, tội của người giết nặng còn tội của người
ăn nhẹ, điều này không đúng. Luật pháp chính phủ, phạm tội cũng chia làm hai
loại, đó là chủ phạm và tòng phạm.
Chủ phạm chính là tự tay mình làm, tòng phạm là hùa theo. Vậy thì
người trực tiếp giết là chủ phạm hay là người ăn là chủ phạm? Điều này không
nhất định. Thí như lúc đồ tể giết heo đi bán, lúc này đồ tể chính là chủ phạm,
người mua thịt là tòng phạm. Nhưng thịt không đủ bán, người mua thịt nhiều quá,
đồ tể bèn giết thêm, lúc này người mua thịt trở thành chủ phạm, và đồ tể là
tòng phạm. Cho nên, có nhân như thế nào thì mỗi người tự chịu quả báo như thế
ấy. Người thời nay không tin lý nhân quả báo ứng bằng người xưa. Trước đây,
không những dân lành sợ nhân quả, mà ngay cả kẻ đồ tể cũng sợ nhân quả báo ứng,
nên lúc sắp giết heo, miệng họ luôn nói thế này: “Heo này! Heo này! Mày đừng
hận tao, mày là món ăn của thế gian, họ không ăn tao không giết, mày hãy đòi nợ
người ăn thịt ấy!”. Bạn xem, chẳng phải người giết heo cũng sợ heo đến đòi mạng
sao? Và rốt cuộc heo đòi nợ người ăn hay là đòi nợ người giết? Tục ngữ có câu
nói rất hay: “Oan có gia trái có chủ”. Cho nên ăn có quả báo của ăn, giết có
quả báo của giết.
4.
Tình cảnh của chiến tranh
Nói đến đây, chúng ta đã hiểu rõ được nguyên do đưa đến chiến tranh. Vậy thì
rốt cuộc chiến tranh đáng sợ ra sao? Có người đã từng sống trong chiến tranh,
nhưng thời gian qua lâu cũng quên mất. Có người chưa từng chứng kiến, không
biết sự đáng sợ của chiến tranh là gì, cho nên nay chia tình huống của
chiến tranh làm bốn loại để thuyết minh.
Thứ
nhất: giết người
Thời xưa lúc đánh nhau, nhân dân sống chết cùng với binh lính. Một
khi đối phương chiếm thành thì nhân dân vô tội cũng bị giết như binh lính. Việc
“đổ thành bi thảm” chính là như thế.
Có người sẽ nói: “Thời xưa đã qua rồi, bây giờ không còn chuyện
“làm cỏ cả thành” nữa”. Nên biết chiến tranh hiện tại là chiến tranh “quy mô
lớn”, còn ghê gớm, bi thảm hơn thời xưa nhiều. Bây giờ nước A chế bom nguyên tử
thì nước B cũng chế bom nguyên tử. Vậy thì thử nghĩ, mục đích của việc chế tạo bom
nguyên tử là để dùng vào việc gì? Có phải cất bom mãi trong kho không? Giả như
một trái bom từ trên không rơi xuống thì ai có thể bảo đảm chắc chắn mình không
bị chết trong khói lửa?
Thứ
hai: phóng hỏa
Từ xưa đến nay, hễ có chiến tranh là có lửa cháy. Thời nay có đủ
thứ vũ khí chuyên dùng để đốt phá đối phương như bom dầu, bom cháy... Một khi
phát cháy, nếu không chết người thì cũng đốt hết nhà cửa, tài sản.
Thứ ba: nhà tan
Mọi người vì muốn tránh thương vong chiến tranh nên phải bỏ chạy, cho
nên nhà tan cửa nát.
Thứ tư: loạn lạc
Pháo hỏa ầm ầm bên mình, mọi người đều vội vàng bỏ chạy. Tay dắt
con, tay bế cháu, ùn ùn chật cả bến xe, đường xá. Xe chạy rồi, tai nghe tiếng
con khóc cũng chẳng biết làm gì. Cha mẹ, vợ chồng, anh em đều ly tán. Tình
trạng chiến tranh là như thế.
Hiện tại, tuy chiến tranh còn chưa xảy ra, nhưng nhân chiến tranh
đã tạo quá lâu rồi, một mai gặp duyên tất sẽ bạo phát. Và khi duyên chiến tranh
còn chưa đến, tạm thời cũng có biện pháp cứu vãn. Nhưng phần nhiều người ta
không tin nhân quả, nên thương cũng chẳng giúp được gì. Người xưa nói: “Hòa khí
đưa đến an lành, hung ác dẫn đến tai ương”. Nghĩa là: Hòa khí sẽ an lành, tốt;
hung ác mang tai họa, xấu. Oan hồn chắc chắn sẽ đến đòi mạng. Những lời của
người đồ tể như đã nói trên, bạn thử nghĩ xem, muốn đòi nợ người ăn thịt, bởi
nợ nó quá lâu, nó phải đòi. Đòi nợ gì? Đó chính là kiếp can qua.
Nói đến đây e mọi người còn chưa tin, đưa ra thêm một sự thật nữa
để chứng minh: đời nhà Tống, có một cao tăng sau khi nhập định, quán sát biết
được huyện An Dương sắp xảy ra chiến tranh. Vào thời vua Tống Huy Tông, Kim
binh phương Bắc đánh xuống phía Nam. Đến đâu Kim Binh cũng tàn sát, đốt phá tan
hoang, nhất là huyện An Dương, tỉnh Hà Nam bị tai họa tổn hại nặng nề
nhất.
Bấy giờ, ở An Dương có một vị cao tăng nhập định quán sát được
việc nhân quả. Người An Dương không biết tai nạn thảm hại như thế nguyên nhân
do đâu, nhưng chắc chắn là phải có duyên cớ, liền đi thỉnh vấn vị cao tăng ấy.
Cao tăng bèn nói với mọi người: “Bởi quá khứ người An Dương tạo nghiệp sát
nhiều hơn những nơi khác, nên đời nay bị quả báo chiến tranh nặng hơn các nơi
khác. Nhưng sự báo ứng của nghiệp sát này chưa hết, tai hại của chiến tranh vẫn
còn tiếp tục xảy ra. Quý vị mau mau hồi tâm chuyển ý giới sát ăn chay, mới có
thể giảm nhẹ quả báo ác trong tương lai!”. Nhưng người An Dương đều không tin
lời của cao tăng, vẫn cứ sát sinh như cũ. Sau này, mấy năm liên tục, binh lửa
liên miên, người An Dương đều bị sát hại thảm khốc. Về sau mới tin lời của vị
cao tăng này là đúng, nhưng đã quá trễ. Công án này đã chứng minh cho sát sinh
là nhân, chiến tranh là quả.
5.
Thứ tự của giới sát
Giới sát là biện pháp
căn bản để dập tắt chiến tranh. Hiện tại, kiếp can qua đã bày ra trước mắt.
Chiến tranh là do nhân sát hại mà ra. Chúng ta cần phải dứt ngay nhân sát,
nghĩa là “giới sát” để tránh nỗi đau khổ bị chiến tranh cho tương lai. Đây là
biện pháp căn bản.
Lại nữa, chiến tranh là “cộng nghiệp”, nhưng cũng có “biệt nghiệp”
trong cộng nghiệp. Nghĩa là, tất cả mọi người đều tạo nghiệp sát, chỉ có ta
không sát thì ta sẽ không bị quả báo khổ chung với mọi người. Nhưng chúng ta
thường nghe nói: “Tôi không làm đồ tể, tôi cũng không sát sinh, nhưng bắt tôi
không ăn thịt thì không thể được, phải làm thế nào?”. Bạn không sát sinh, rất
tốt! Vậy tôi sẽ bày cho bạn một cách. Bởi vì tai nạn chiến tranh có ba tầng
bậc, công đức giới sát cũng có ba tầng bậc. Công đức bậc thượng sẽ dứt trừ tai
nạn bậc thượng, công đức bậc trung sẽ dứt trừ tai nạn bậc trung, công đức bậc
hạ sẽ dứt trừ tai nạn bậc hạ.
Công đức bậc thượng là trường trai. Nếu không làm được cũng cần
phải thấy quả sợ nhân. Công đức bậc trung là tháng 6, tháng 12, mỗi tháng đều
phải ăn chay. Vậy nếu vẫn không làm được thì làm công đức bậc hạ. Công đức bậc
hạ là mỗi tháng ăn chay 10 ngày, 6 ngày và các ngày vía của chư Phật, Bồ tát,
ít nhất cũng phải ăn “tam tịnh nhục”.
Thế nào gọi là tam tịnh nhục? Tam tịnh nhục là không thấy giết,
không nghe tiếng kêu, không phải giết cho mình ăn. Có một tiệm cơm chay treo câu
đối rất lý thú. Câu trên: “Một ngày ăn chay, thiên hạ giết nhau ta không bị”.
Câu dưới: “Nợ có ai hay đội sừng mang lông xưa nay trả”. Nghĩa là: Ăn chay một
ngày, ngày nay hàng vạn chúng sinh bị giết không có ta trong đó, đòi nợ trả nợ
nào có mấy ai hay! Bạn xem hai sừng trên đầu trâu bò, từ xưa đến nay đều là đòi
rồi trả, trả rồi đòi. Chúng ta thử nghĩ có đáng sợ không? Chí thành khuyên quý
vị, để tiêu diệt tai kiếp chiến tranh đáng sợ khi còn chưa đến, hãy mau ăn
chay, hãy mau giới sát!
Nên biết:
“Xưa nay
trong một bát canh
Oán
sâu như bể hận thành non cao
Muốn
hay nguồn gốc binh đao
Lắng
nghe lò mổ tiếng gào đêm thanh”.
Đây
là lời nói thật!
6.
Nhân quả có thể thay đổi định luật nhân quả
a. Định
luật nhân quả không mất
Chắc chắn có người sẽ nghĩ: “Nhân quả mà thay đổi được thì không
hợp với lý nhân quả trong đạo Phật”. Đạo Phật nói có nhân có quả, lý nhân quả
không bao giờ mất, tại sao lại nói nhân quả có thể thay đổi? Đúng, đạo lý nhân
quả không bao giờ mất. Trong kinh cũng có một bài kệ rằng: “Cho dù trăm ngàn
kiếp, nghiệp tạo ra hãy còn. Lúc gặp phải nhân duyên, quả báo phải nhận chịu”.
Nghĩa là: Giả sử có trải qua trăm ngàn kiếp đi nữa, một thời gian lâu dài như
thế, thì những nghiệp tốt xấu mà mỗi người ra tạo cũng không mất. Nên biết, giữa
nhân và quả còn có cái duyên, khi nhân gặp duyên thì mình vẫn phải chịu quả
báo.
b. Định
luật nhân quả không thể đánh đổi
Chắc chắn có người sẽ nghĩ: “Nếu đời trước tạo ác quá nhiều, hôm
nay làm nhiều việc thiện để bù lại e cũng không được”. Đúng, không được. Bởi vì
định luật nhân quả là không thể đánh đổi. Thiện có thiện báo, ác có ác báo, đây
là định luật tất nhiên. Giống như trên một mảnh đất, cùng một lúc gieo hai
giống dưa và đậu. Sau này dưa nhất định ra dưa, đậu nhất định ra đậu. Dưa không
thể ra đậu, đậu cũng không thể ra dưa. Nhưng hiện tại lại nói nhân quả có thể
thay đổi, là thay đổi thế nào?
7.Biết
nhân, dứt duyên, quả thay đổi
Phải hiểu rõ sự lý.
Quý vị nên biết: nhân là nhân, duyên là duyên, quả là quả. Chia
làm ba đoạn như thế để thuyết minh. Nhân nhờ duyên mới ra quả. Điều mà hiện tại
muốn nói là duyên. Thế nào gọi là duyên? Chúng ta thử nghĩ, chiến tranh có xảy
ra không? Chắc chắn quý vị sẽ trả lời: không xảy ra. Đó là duyên của chiến
tranh chưa đến. Lúc mà duyên chưa thành thục thì mới có thể thay đổi nhân quả.
Nếu đoạn được duyên chiến tranh khi còn chưa thành thục thì có thể thay đổi
được quả báo chiến tranh. Nhưng một khi duyên chiến tranh đã chín muồi thì
không có cách gì cứu được, bởi quá khứ cộng nghiệp tạo duyên đã chín mùi. Dù
bạn có thần thông quảng đại cũng không cách gì giải quyết nổi.
a. Phải
vận dụng phương pháp
Vậy thì khi duyên chiến
tranh còn chưa chín muồi, phải dùng cách gì để cứu vãn? Phải dùng phương pháp
“tăng thượng duyên” tiêu diệt, như bác sĩ trị bệnh “tùy bệnh cho thuốc” vậy.
Nếu bệnh nhân bị sốt thì phải cho thuốc giải nhiệt, bệnh nhân mắc chứng hàn thì
phải cho Ôn Bổ Tể. Cho nên, đối bệnh cho thuốc đúng là lương dược. Giả như bệnh
nhân bị sốt lại cho thuốc bổ, bị mắc chứng hàn lại cho thuốc giải nhiệt. Bác sĩ
như thế là đã giết người ta mất rồi. Nên biết quả báo bị chiến tranh là đời
trước đã tạo nhân sát, cho nên phải chịu quả báo bị giết. Hiện tại, chỉ cần dứt
nhân sát thì không có duyên sát; không có duyên sát thì không có quả báo bị
sát. Như thế sẽ không có chiến tranh.
Vấn đề dứt duyên, nếu mọi người vẫn còn chưa hiểu, ngay đây sẽ đưa
ra một câu chuyện để dẫn chứng:
Ngày xưa, ở làng nọ có một ngôi chùa, có một pháp sư giảng kinh ở
đó. Trong hội chúng có một người đã từng tạo đại ác nghiệp. Sau khi nghe kinh
xong bèn hỏi pháp sư rằng: “Ngày xưa con sát sinh hại mạng, đã tạo đại ác
nghiệp. Bây giờ phải làm thế nào?”. Pháp sư dạy rằng: “Phải chân thành phát lồ
sám hối. Hiện tại quả còn chưa đến, đoạn duyên có thể kịp”. Nhưng người này chỉ
biết có nhân và quả, không hiểu lý duyên sinh. Pháp sư bèn phương tiện khéo
léo, đưa cho anh ta một bọc giống cỏ gai, bảo anh ta vãi trên hai luống đất
trống phía Đông Tây sau chùa, và nói: “Hạt gai vãi trên luống đất phía Đông,
chỉ vãi tro, không tưới nước. Hạt gai vãi trên luống đất phía Tây ngày nào cũng
tưới nước”. Pháp sư lại dặn dò: “Cứ mỗi 5 ngày đi chân trần dẫm tới dẫm lui
trên luống một lần, hai luống Đông Tây cũng đều như thế!”.
Người này lần đầu dẫm trên cả hai luống, nhưng không thấy có cảm
giác gì. Pháp sư lại bảo anh ta: “Luống phía Tây vẫn cứ tưới nước mỗi ngày, còn
luống phía Đông vẫn như cũ, không tưới”. Cách 5 ngày sau, cũng chân trần hai
bên đều dẫm. Lại cách 5 ngày nữa, người này cũng vẫn như thế dẫm tới dẫm lui.
Lúc này, anh ta bỗng thấy những hạt gai ở luống đất phía Tây đã nứt mầm. Lại
qua 5 ngày sau, thấy mầm đã lớn hơn 3 tấc và đã ra hoa vàng, anh ta vẫn cứ dẫm
tới dẫm lui. Lại qua 5 tuần sau nữa, trên luống phía Tây không thể đi chân đất
được nữa, vì gai chích không đi được. Pháp sư bèn hỏi: “Lúc đi trên luống đất
phía Đông con có cảm giác thế nào?”. Người ấy trả lời: “Không có cảm giác gì!”.
Pháp sư lại hỏi: “Cả hai luống đất đều vãi giống gai, tại sao luống đất phía
Đông dẫm được, mà luống phía Tây không dẫm lên được?”. Lúc này, anh ta mới vỡ
lẽ. Thì ra, luống đất phía Đông chỉ vãi tro không tưới nước, vì đoạn mất duyên
nên mất tác dụng. Còn luống đất phái Tây ngày ngày đều tưới nước. Tăng thượng
duyên nước này đã sinh ra sức mạnh. Cho nên, rõ ràng là cùng gieo giống, nhưng
luống phía Đông không nảy mầm mà luống phía Tây lại rất xanh tốt. Đây chính là
lý nhân quả có thể chuyển đổi. Có duyên thì sinh, không duyên thì diệt.
b. Tầng
cấp thứ tự đoạn duyên
Phải dùng cách gì để đoạn duyên? Thứ tự đoạn duyên có thể chia làm
thượng, trung, hạ ba cấp công phu. Công phu bậc hạ là bắt đầu từ hôm nay không
sát sinh nữa, ăn tam tịnh nhục – ăn thịt không thấy giết, không nghe tiếng kêu,
không phải giết cho mình ăn. Công phu bậc trung là không những không sát sinh
mà còn trường trai, làm được như thế là đã bằng với A-la-hán tự lợi. Công phu
bậc thượng là không những không sát, trường trai mà còn tiến thêm một bước là
phóng sinh cứu mạng. Hạng người này đã bằng với Bồ tát lợi tha. Ba cấp công đức
trên có thể tùy duyên lượng sức mà làm. Bây giờ chúng ta phân biệt thêm như
sau:
* Công phu bậc hạ đoạn duyên giới sát, dễ hành, nghĩa là tùy duyên
tiêu nghiệp cũ, không tạo thêm nghiệp mới.
Chúng ta giải thích công phu bậc hạ dễ hành trước. Phải hành từ
đoạn duyên giới sát. Cổ đức có hai câu kệ rằng: “Tùy duyên tiêu nghiệp cũ,
không tạo thêm nghiệp mới”. Nghĩa là: Có thịt thì ăn, không thịt thì thôi. Tùy
duyên thì sẽ tiêu trừ tội cũ, nhất thiết không nên vì thèm thịt mà lại sát sinh
hại mạng, tạo thêm nghiệp mới để rồi bị tai ương.
Trong Đại Tạng Kinh có bộ luận Bà-sa. Trong đó có câu rằng: “Nếu trì trai giữ
giới trong một ngày đêm, thì trong các đời tới, chắc chắn không bị gặp ác báo
chiến tranh”. Bạn xem, công đức trì trai giữ giới chỉ có một ngày đêm mà lại
lớn như vậy, huống hồ gì công đức trường trai không sát cả đời, chẳng lẽ không
lớn sao? Nói đến đây, có lẽ có người sẽ hỏi: “Nghe thầy nói không sát sinh
tránh được ác báo cho đời sau, nếu mong đời này không bị có được không?”. Câu
trả lời của tôi là được. Có một câu chuyện có thể làm chứng:
Ngày xưa, có một người đáp thuyền đi xa. Trên thuyền, thấy trong thùng của chủ
thuyền có hai con cá đang bơi lội rất vô tư, có thể đến trưa sẽ bị giết thịt.
Người ấy mới nói với chủ thuyền: “Anh bán hai con cá này cho tôi đi!”. “Được!”
– Chủ thuyền nói – “Nhưng đắt lắm, hai con giá 300 đồng. Lúc nào anh muốn ăn,
tôi sẽ làm thịt nấu nướng cho!”. Người ấy bèn lấy ra 300 đồng đưa cho chủ
thuyền để mua hai con cá. Nhất thời không đành lòng ăn thịt chúng nên nói: “Hôm
nay tôi không thích ăn cá, xin ông đừng nấu!”. Cách một ngày sau, chủ thuyền
lại hỏi: “Hôm nay nấu cá cho anh nha?”. Người ấy bèn trả lời: “Đừng! Đừng! Hôm
nay tôi ăn chay!”. Thật ra, anh ấy không có ăn chay, chẳng qua là anh ta thấy
hai con cá bơi lội trong thùng dễ thương quá, cho nên không nỡ ăn thịt chúng.
Giết chúng càng cảm thấy tội, cho nên mới nói dối mình ăn chay. Cuối cùng, anh
ta thả cá xuống sông, trả tự do cho chúng.
Lại cách một ngày sau, thuyền đang giong buồm trên sông, bỗng
cuồng phong nổi dậy, sóng cao ngút trời, cả thuyền đều sợ khiếp vía. Đang lúc
quỳ lạy cầu cứu cứu mạng, bỗng nhiên từ trong mây ló ra hai chữ “giả chay”. Mọi
người ai cũng thấy rất rõ. Có người hỏi lớn: “Trên thuyền chúng ta người nào
giả ăn chay? Ai?”. Hỏi đến mấy lần như thế. Người ấy nghĩ: “Mình giả ăn chay,
nhất định đã xúc phạm luật trời. Nếu giấu không nói, như thế không phải đã hại
mọi người sao?”. Nên lập tức lớn giọng trả lời: “Là tôi! Là tôi!”. Mọi người
đều nói: “Ngươi nhảy xuống đi!”. Rồi đẩy anh ta xuống nước. Lúc đó cũng kỳ lạ,
không biết từ đâu trôi đến một miếng ván. Người bị đẩy xuống sông ấy lại an
nhiên bám chặt tấm ván một cách vô sự. Một trận gió lớn đẩy anh vào bờ và được
người cứu sống. Nhìn lại chiếc thuyền kia không chịu nổi sóng to gió lớn đã lật
úp, toàn bộ người trên thuyền đều bị chìm nghỉm làm mồi cho cá. Chúng ta thử
nghĩ xem, người giả ăn chay này, chỉ khởi lên một niệm từ tâm đã cứu sống được
mình.
* Công phu bậc trung, đoạn duyên kiêm ăn chay, hơi khó hành.
Lại nói công đức công phu bậc trung. Không chỉ phải giữ giới sát
đồng thời còn phải ăn chay, thực hành có khó hơn công đức bậc hạ một chút. Bởi
lúc sinh ra, con người đã có thói quen ăn thịt, nên bỏ ăn thịt rất khó. Không
đoạn được phải làm sao? Điều này cần phải quán tưởng mấy điều sau đây:
a. Lo sợ gặp phải chiến tranh
Xin hỏi mọi người có sợ chiến tranh xảy ra không? Nếu sợ, lúc đặt
chén thịt trước mặt, mình nên quán: “Lúc con vật này bị người giết, nó sợ sệt
thế nào thì giống như chiến tranh đến vậy. Vì muốn để tránh chiến tranh, tôi
dứt khoát không ăn chén thịt này”. Đây là quán tưởng bước đầu.
b.
Sợ bị bắt trói khi giặc cướp đến
Quán tưởng bước hai:
Một mai chiến loạn xảy ra, giặc đến, nhân dân bị bắt, bị trói thật là đáng sợ.
Lúc này nên quán tưởng: “Chén thịt này, con vật lúc bị người mua bắt trói dắt
đi đáng thương biết bao. Vì để tránh sự bắt trói của giặc giã, tôi dứt khoát
không ăn chén thịt này”.
c. Gia đình bị bắt trói, ly tán
Quán tưởng bước thứ ba: Mỗi gia đình đều đầy đủ lục thân quyến
thuộc: cha mẹ, vợ chồng, anh em. Một khi bị giặc bắt trói dắt đi, sự bi thương
gia đình ly tán, đau khổ biết bao. Lúc này nên quán: “Sau khi con vật bị người
bắt trói dắt đi, hình ảnh tội nghiệp kêu gào của quyến thuộc của nó, chén thịt
này tôi không nỡ ăn”.
d. Chính mình bị giết
Quán tưởng bước thứ bốn: Giả sử thân ta khi sắp bị người khác
giết, bản thân mỗi người có muốn hay không? Lúc này nên quán tưởng: “Sự đổ máu
của con vật khi bị giết, cho đến nỗi đau khổ khi bị hầm nấu, bằm xắt chiên
nướng… Để tránh thân mình khỏi bị như thế, chén thịt này tôi thật không dám ăn
nữa”.
Nếu quán được bốn bước này, không những không muốn ăn thịt mà còn
tiến thêm một bước, là phát lồ sám hối những hành vi bất chánh trong quá khứ,
đồng thời về sau phát nguyện trường trai.
* Công phu bậc thượng đoạn duyên phóng sinh. Khó mà dễ.
a. Vượt hơn xây tháp 7 tầng
Lại nói công đức bậc thượng. Ngoài đoạn duyên cần phải từ tâm
phóng sinh. Nhà Phật có câu: “Cứu một chúng sinh phước hơn xây tháp 7 tầng”.
Vậy xem ra, thì biết công đức cứu một chúng sinh to lớn nhường nào. Bởi tâm
niệm của Phật lúc nào cũng muốn cứu độ chúng sinh, cho nên cứu một mạng chúng
sinh, công đức lớn như báo đáp ân Phật. Tôi tin có người tất sẽ nghĩ: “Súc sinh
tại sao lại có thể so sánh với người?”.
b. Tất cả chúng sinh đều là quyến thuộc quá khứ, đều là Phật tương lai
Chúng ta nên biết,
chúng sinh trong sáu đường đều là cha mẹ, vợ chồng, anh em của chúng ta. Sáu
đường là: trời, người, A-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. Bản tính của
chúng sinh trong sáu đường này, xưa nay vốn thanh tịnh sáng suốt. Do từ vô thỉ,
bị vô minh che đậy nên điên đảo mê lầm. Sống rồi chết, chết rồi sống trong sáu
nẻo. Một lần đầu thai là một lần có cha mẹ, lục thân quyến thuộc khác. Từ vô
lượng kiếp đến nay, quyến thuộc cha mẹ nhiều đến nỗi không thể tính đếm. Vì
phàm phu, hễ đầu thai là bị mê cách ấm, tự mình không thấy ra được. Không thấy
ra được thì làm sao biết? Nên biết lời này chính đức Phật nói ra. Đức Thích Ca
Mâu Ni là bậc Thánh nhân, trí tuệ thấu biết sáng suốt, Phật nhãn thấy rất rõ
ràng. Ngài nói: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, chúng sinh một khi gặp
được Phật pháp, tín giữ phụng hành tức được thành Phật”. Cho nên nói: Tất cả là
cha mẹ quá khứ cũng là chư Phật tương lai. Nếu giải thoát tính mạng cho chúng
thì bạn chính là Bồ tát. Nên biết, không làm Bồ tát không thể thành Phật.
“Nhân tuy
đáng sợ
Không
duyên không sinh
Hạt
gai tuyệt nước
Không
thành cây gai”.
Bài kệ này ý nói: Nhiều
ác nghiệp đã tạo trong quá khứ, cố nhiên là đáng sợ. Nhưng nếu không có tăng
thượng duyên thì không thể sinh ra quả ác, giống như câu chuyện trên đã nói.
Pháp sư dạy người ấy gieo giống cỏ gai trên hai luống phía Đông Tây sau chùa.
Gai dụ cho quả ác, đạp phải tất bị rách da chảy máu. Nếu không tưới nước, thì
khó mong sinh trưởng thành gai, đạp chân lên cũng không bị rách da chảy máu. Ý
này muốn nói: quá khứ tuy đã tạo rất nhiều ác nghiệp sát sinh hại mạng, chỉ cần
đời nay giới sát hộ sinh thì sẽ giảm nhẹ ác quả. Cho nên, thành tâm khuyên chư
vị, mọi người hãy nhanh quy Phật, mau mau chuyển đổi nhân quả!
8.
Nguyên nhân của an lành và tai nạn
a.
Hòa khí đưa đến an lành
Quý vị nên biết, sát sinh đứng đầu muôn ác. Không những tàn bạo
hung ác, mà còn là vô nhân tính. Tục ngữ nói: “Tam tài: trời, đất, người cùng
chung một dòng mạch”. Nghĩa là: Lòng người ví như lòng trời đất. Tâm ác là
người ác, tâm thiện là người thiện. Lòng người hung bạo thì trời đất cũng biến
thành hung bạo, lòng người hòa khí thì trời đất cũng trở nên hòa khí. Nhưng
lòng người thiện ác, làm sao thấy được? Rất dễ. Tâm lành thì sẽ hiện ra ở tướng
làm những việc lành, tâm ác thì sẽ làm những việc ác. Trời đất hòa bình chính
là hòa khí, trời đất bất hòa chính là hung bạo. Người tốt, trời đất tốt chính
là an lành; người ác, trời đất xấu liền trở thành tai ương. Nhưng an lành và
tai ương hoàn toàn không phải tự nhiên mà có. Vậy thì an lành từ đâu đến? An
lành nhờ hòa khí mà có. Người xưa có câu tục ngữ rằng: “Hòa khí dẫn đến an
lành”. Ý là: hòa ái, từ bi đến cùng cực, lòng từ trong lòng đạt đến đỉnh điểm.
Không những không hại người mà ngay cả động vật cũng không có ý giết hại, thì
ngay đó có hòa khí.
Ví dụ: Chu văn Vương thời xưa là một đức vua nhân từ. Ngài “thị dân như
thương” – thấy mỗi người dân đều đáng thương như chính mình bị thương, chính
mình bị đại thống khổ. Lòng Ngài không những chỉ thương người sống như thế, mà
ngay cả những hài cốt người chết Ngài cũng không nỡ thấy chúng bị nắng gió mưa
sa. Có một lần, Chu Văn Vương ra ngoài thành thị sát, thấy hài cốt tử thi tứ
tán bày đầy mặt đất, Văn Vương lập tức mệnh lệnh lượm nhặt hết chôn cất đàng
hoàng. Chu Văn Vương từ bi thế đấy! Ngài không những chỉ yêu thương bảo bọc
người sống, ngay cả người chết Ngài cũng yêu thương. Cho nên, Ngài đáng là một
Thánh vương nhân từ.
Lại nói đến 72 vị đệ tử của Khổng Tử, trong đó có một người họ Cao
tên Sài. Ngài là một đại hiền nhân. Lòng từ bi thương xót của Cao Sài không
những chỉ đối với động vật, ngay cả với thực vật Ngài cũng từ bi, yêu thương
bảo vệ.
Thời niên thiếu, Cao Sài thường lên núi đốn củi, thấy cây cối mùa Đông rụng lá
rồi nứt những chồi non, Ngài không đành lòng đốn, chỉ đốn chặt những cây, nhánh
khô. Cho nên nói: Cao Sài “chồi non không chặt”, đến nay vẫn còn lưu danh thiên
cổ. Chư vị nghĩ coi, từ tâm của Văn Vương và Cao Sài có phải hòa khí không?
Đương nhiên là hòa khí. Hòa khí đưa đến an lành. Cho nên, có Văn Vương và Cao
Sài thời đó là thiên hạ thái bình, nhân dân an lạc, hòa khí cát tường.
b. Hung ác
chiêu ương
Quý vị nghe đến đây thì
biết ngay hòa khí đưa đến an lành là rất tốt, và loại tương phản của nó là “tàn
nhẫn chiêu ương”. Nghĩa câu này thế nào? Ví như một người mang lòng hiểm ác.
Người này nhất định sẽ mắc tai họa. Nếu một gia đình hung ác, gia đình này sẽ
mắc tai ương. Một quốc gia nham hiểm, thì nhân dân phải bị tang thương. Hung ác
nghĩa là gì? Hung ác là hung bạo. Hung bạo quá độ tất sẽ sát hại chúng sinh.
Ban đầu chỉ giết hại những động vật nhỏ; động vật nhỏ giết thành thói quen thì
sẽ giết động vật vừa; giết được động vật vừa rồi thì cũng giết được động vật
lớn. Tay nhúng máu nhiều rồi nên sau này, ngay cả người cũng dám giết. Như vậy,
cấp độ giết càng lúc càng lớn. Tiếp đó, giết luôn cả cha mẹ, thầy tổ. Đây chính
là điềm báo trước thiên hạ đại loạn, gọi đó là “hung bạo chiêu ương”. Nhưng
thiên hạ có người trí cũng có kẻ ngu. Người trí thì nhất cử nhất động đều thấy
được quả báo trong tương lai, người ngu thì không những không biết quả báo mà
cho dù có nhắc đi nhắc lại với họ cả ngàn lần, rằng: anh gieo nhân bất chánh
này, về sau sẽ phải gặt ác báo, anh ta cũng không nghe. Cho nên, trong kinh có
câu rằng: “Bồ tát sợ nhân, phàm phu sợ quả”. Nghĩa là: Người trí thấy nhân,
biết ngay quả sau này, nên không dám làm ác. Còn phàm phu không biết sự ghê gớm
của việc gieo nhân ác, nên cứ tạo ác, đến khi bị quả báo thì có sợ cũng không
kịp nữa.
9.
Tri cơ kỳ thần
Không những nhà Phật nói “tri cơ kỳ thần”, mà Thánh nhân xưa cũng nói “tri cơ kỳ thần”. Cơ là động cơ, thần là sáng suốt. Nghĩa là giống như người trí vừa nói ở trên, nhất cử nhất động đều biết ngay hậu quả của sự việc như thế nào. Lại cũng như người thông minh, giả sử thấy bậc đá dưới thềm nổi lên ẩm thấp thì biết ngay trong vòng ba ngày sẽ có mưa; thấy trăng có quần đen thì biết ngay sắp có gió. Chưa mưa mà biết sẽ mưa, chưa gió mà biết gió nổi, đó chính là “tri cơ kỳ thần”. Vậy có người sẽ hỏi: “Biết trước những việc chưa đến phỏng có ích gì?”. Nếu biết trước được những việc chưa xảy ra, họ chính là người có “tính dự kiến”. Nắm chắc được tính dự kiến là điều rất tốt. Giống như trước khi gió chưa nổi lên, lo thu hoạch hết lương thực; trời chưa mưa chuẩn bị trước đồ che mưa. Những việc dẫn đến tai ương chuẩn bị tốt trước. Nếu như gặp đói kém hoặc mưa bão lâu ngày thì cũng có thể tránh được khủng hoảng tạm thời.
10.
Phòng vi đổ tiệm
Nghĩa của câu này là:
Một việc không luận là lớn hay nhỏ, lúc mới phát sinh phải dự phòng ngay, không
để nó bành lớn, đó gọi là phòng vi. Đỗ tiệm nghĩa là chặn đứng, không để nó
sinh trưởng. Người xưa có câu: “Từng giọt nước nhỏ cũng thành sông, đóm lửa như
sao thiêu ngàn mẫu”. Ý nói là: “Từng giọt nước nhỏ, tích ít thành nhiều, lâu
ngày cũng trở thành sông lớn; một đóm lửa nhỏ như sao băng, có ngày cũng thiêu
rụi cả thảo nguyên bạt ngàn”. Cho nên, không thể coi thường tuy chỉ là giọt
nước nhỏ, cũng không thể lơ là dù chỉ là đóm lửa như sao băng. Một điểm xin chư
vị ráng chú ý là: hiện nay, quả thật các nước đang ôm ấp chiến tranh. Nếu không
tin, hãy coi nước A có bom nguyên tử, nước B cũng có bom nguyên tử. Họ phát
minh ra vũ khí hiện đại rốt cuộc để dùng vào việc gì? Chính là để dùng vào việc
giết người hàng loạt. Đây là điềm báo trước tai ương.
Có lẽ có người sẽ nói: “Vậy thì có liên quan gì?”. Hiện tại, chiến
tranh còn chưa đến mà! Thưa quý vị: xin đừng nói thế! Phải chú ý: Giống như
những giọt nước nhỏ, cần phải chặn đứng nó ngay; phòng bị đóm lửa nhỏ như sao
có ngày thiêu rụi, cần phải dập tắt nó trước, như vậy mới không xảy ra đại
hoạn.
Nghe đến đây, e rằng có người sẽ nói: “Đệ tử Phật các ông có cách
gì chặn đứng được đại thế chiến không?”. Điều này, chúng tôi không dám khoác
lác, cũng không thể ngăn chặn được đại thế chiến, vì đại chiến thế giới là
chiêu cảm bởi cộng nghiệp của chúng sinh, phải chịu quả báo chung. Nhưng chúng
tôi có thể dự phòng cá nhân không bị quả báo, cũng chính là lý biệt nghiệp
trong cộng nghiệp như đã nói ở trên. Bởi không tạo nhân sát hại thì tất nhiên
không bị quả báo sát hại, đây chính là chặn đứng khởi nguyên của nó. Vậy những
nhân sát sinh đã tạo trước đây thì phải làm sao? Bắt đầu từ hôm nay, bạn phải
dứt tuyệt đối nhân sát, đó chính là dứt tuyệt đối duyên tạo tội sát, đó chính
là biện pháp tốt nhất.
11.
Triết nhân phóng sinh
Người đời thường nói:
Phật giáo các ông đương nhiên phải nói giới sát phóng sinh. Nên biết, trên thực
tế hoàn toàn không phải như thế. Không chỉ riêng Phật giáo đề xướng giới sát
phóng sinh, ngay cả chư Thánh hiền ngày xưa của Trung Quốc cũng đã nói rất
nhiều đạo lý về giới sát phóng sinh. Nếu chư vị không tin, tôi sẽ đưa ra câu
chuyện lịch sử để chứng minh.
Giản Tử tết nguyên đán thả chim
Thời đại hưng thịnh nhất ở Trung Quốc là thời nhà Chu, xuất hiện
rất nhiều hiền nhân. Vào thời Ngũ Bá Thất Hùng, chư hầu lúc đó, mỗi mồng 1 tết
hàng năm đều bắt rất nhiều chim Ngói về ăn nhậu say sưa.
Bấy giờ, Triệu Giản Tử có một lúc mua hết chim Ngói về thả. Có
người kiến nghị rằng: “Ngài định kỳ vào mồng 1 tết như vậy chỉ là biện pháp một
ngày phóng sinh, chưa triệt để”. Triệu Giản Tử nghe xong thấy rất có lý, bèn
lập tức hạ lệnh cấm bắt chim Ngói, triệt để nghiêm cấm bất kỳ ai giết hại chim
Ngói, đồng thời còn khuyến khích khen thưởng phóng sinh.
12.
Tai tường cấm tể
Thời xưa, nếu thiên tai
hạn hán thì phải cầu mưa. Muốn cầu mưa thì không được sát sinh, cấm chỉ giết
chóc. Thời đó cũng biết sát sinh là hung bạo. Nếu sát sinh thì cầu mưa sẽ không
linh, cho nên cần phải cấm chỉ sát hại sinh vật cho đến khi cầu được mưa mới
thôi. Và pháp luật nhà Đường có một quy định: vào tháng giêng, tháng 5, tháng
9, đây là những tháng trường trai của Phật giáo nên không được sát sinh, và
ngày thập trai mỗi tháng cũng không được sát sinh. Trong thời gian đó mà sát
sinh là phạm tội. Nhưng cấm chỉ sát sinh xem ra vẫn còn tiêu cực, phải tiến
thêm một bước tích cực nữa là phóng sinh.
Vua Càn Nguyên triều Đường nước ta là một đức vua nhân từ. Ngài
cũng đề xướng giới sát phóng sinh. Nhưng cá phóng sinh phải thả ở đâu? Thế là
Ngài liền nghĩ ra một cách, ra lệnh cho tất cả các địa phương đều đào ao phóng
sinh. Cả nước tổng cộng có đến 81 nơi đào ao phóng sinh. Mỗi ao phóng sinh đều
khắc bia. Văn khắc bia đều là các nhà học giả thư pháp nổi tiếng viết, như danh
nhân Nhan Chân Khanh...
Hiện tại, văn bia của họ vẫn lưu truyền
tại thế.
Hoàng đế Chân Tông giữa năm Thiên Hy thời nhà Tống, cũng là một vị
vua nhân từ. Sau loạn Vương An Thạch, Ngài liền ra Thánh chỉ triệu lệnh trong
dân chúng, mỗi huyện đào một ao phóng sinh. Ví như Tây Hồ của tỉnh Chiết Giang,
hiện tại chính là ao phóng sinh lớn nhất của quốc gia. Nhưng rất tiếc, bây giờ
biến thành ao sát sinh nuôi cá để câu giải trí. Nhìn trên lịch sử, hai triều
Đường, Tống có thể nói, là hai thời đại phóng sinh thịnh vượng nhất.
13.
Trọng trách sát quả mỗi người phải mang
Nghe đến đây có người sẽ nói: “Chưa đến nỗi! Từ lâu tôi đâu có sát
sinh. Trên nhân quả, tôi không bị quả báo sát sinh”. Thưa bạn! Xin bạn khoan
vội mừng. Nói rằng: “Tôi không bị quả báo sát sinh. Nên biết, nghiệp sát của
mỗi người trùng trùng lớp lớp, quả thật khó tính biết hết. Bạn nói bạn không
sát sinh, bây giờ tôi sẽ tính thử giúp bạn. Vừa ra khỏi bào thai, mẹ bạn sợ
không đủ sữa bú đã giết mấy con gà để tẩm bổ, rồi đầy tháng lại khách khứa cũng
sát sinh. Đến khi lớn lên, đính hôn lại sát sinh. Ngày cưới lại càng đại sát
sinh. Ngày xưa lúc đi học, mời thầy giáo cũng phải sát sinh. Về sau, ra đời tạo
lập sự nghiệp cũng phải sát sinh mời khách. Đến 40, 50 tuổi lúc mừng thọ cũng
sát sinh. Một năm bốn mùa ăn tết ăn lễ, như tiết Thanh minh tháng 3, tết Đoan
ngọ tháng năm, tiết Trung nguyên tháng 7, tiết Trùng dương tháng 9, tất cả đều
phải sát sinh cúng tế. Đột ngột khách đến cũng phải sát sinh đãi khách, rồi lại
lúc bệnh tật, lạt miệng ăn không ngon lập tức sát sinh để đổi món. Bệnh lành
cũng phải sát sinh, làm vịt tiềm để bồi dưỡng. Bệnh lành rồi đáp tạ bác sĩ cũng
sát sinh. Và con người có sống tất có chết. Ngày đám ma ấy, lại càng đại sát
hơn”… Chư vị thử nghĩ, vậy có đúng không? Mười mấy điều kiện nêu trên, cho dù
một người không sát sinh đi nữa thì cũng là sát sinh nhiều. Người mà một ngày
không có thịt không chịu ăn cơm thì lại càng sát nhiều hơn. Những người như thế
lại càng không thể nói hết.
Đời nay, chúng ta làm người sát sinh tạo nghiệp. Đời trước làm
người cũng sát sinh tạo nghiệp. Thậm chí, có rất nhiều đời trước đã tạo sát
nghiệp trùng trùng vô tận. Giết một sinh mạng là đã kết một oan trái. Oan hồn
ấy lúc nào cũng ở bên bạn đợi thời cơ đòi mạng. Không những oan nghiệp bên
ngoài đang đòi nợ, mà sát nghiệp của chính mình trồng trong thức thứ 8, bất cứ
lúc nào cũng có thể manh tâm hiện hành, cũng chính là hạt giống tạo tộïi, lúc
nào cũng muốn dẫn bạn đi chịu báo. Chư vị nên biết, nếu hòa khí thì dẫn đến an
lành. Còn hung bạo, hiểm ác tất phải chịu tai ương. Nếu ngày nào cũng sát sinh,
đại sát sinh là an lành hay hung bạo? Những oan hồn bị giết, ngày ngày muốn đòi
mạng là an lành hay tai ương? Xin mọi người hãy tự nghĩ xem!
Có thể sẽ có người nói: “Nghe thầy nói như vậy tôi rất lo sợ, vậy
phải làm sao?”. Thưa bạn, bạn cũng không nên quá lo. Hiện tại, họa hoạn còn
chưa tới, tai ương cũng chưa bắt đầu. Chỉ cần từ nay trở đi không sát sinh nữa.
Giống như đóm lửa nhỏ bị tưới nước lên phải bị tắt ngay không thể cháy lan
được. Vậy thì oan hồn đến đòi mạng phải làm sao? Bạn phải tin rằng: Phật pháp vô
biên, tự có sức mạnh không thể nghĩ bàn để siêu độ chúng. Vì bạt độ khiến nó
chuyển thân làm người hoặc làm trời, nhờ thế nó không đến đòi nợ bạn nữa. Tôi
nói như vậy chắc chắn có người sẽ hỏi: “Thầy nói giới sát chặn được nguồn loạn
thì tôi có thể tin được. Nhưng nhà Phật các thầy nói, kinh Phật có thể siêu độ
người chết thì tôi không tin”. Nếu mọi người không tin, tôi sẽ đưa ra hai sự
thật để chứng minh cho rõ:
Đại sư Liên Trì là tổ sư của tông Tịnh độ. Trong Trúc Song Tùy Bút
của Ngài, có ghi một đoạn công án thế này: Có một tiểu thư họ Tào được gả làm
vợ cho một thanh niên họ Văn. Trong nhà họ Văn nuôi rất nhiều bồ câu. Một hôm,
không biết từ đâu xuất hiện một con rắn rất lớn muốn bắt bồ câu. Lúc đó cô tỳ
nữ thấy được, bèn chọi một viên đá lớn vào đầu, con rắn chết ngay lập tức. Ai
ngờ con rắn sau khi chết, oan hồn không chịu đi. Hai hôm sau, hồn rắn nhập vào
tỳ nữ nói mấy câu điên điên khùng khùng: “Trả mạng cho tôi! Trả mạng cho tôi!”.
Tiểu thư họ Tào thấy vậy rất sợ. Đàn ông con trai trong nhà đều đi vắng hết,
Tào tiểu thư bèn chạy về nhà mẹ dẫn cha qua nhà chồng, mắng lớn vào tỳ nữ: “Mày
náo loạn cái gì ở đây?”. “Không phải tôi náo loạn, tôi muốn tỳ nữ trả mạng cho
tôi, vì hai hôm trước tôi muốn ăn thịt bồ câu, nó không cho tôi ăn, lại còn
đánh chết tôi, cho nên tôi muốn đòi mạng nó!”. “Mày là rắn, muốn ăn bồ câu. Mày
là một mạng, nó cũng là một mạng. Cứu mạng nó, giết mạng mày, một mạng đổi một
mạng cũng đáng. Mày là súc sinh, nó cũng là súc sinh, mày đòi nó là được rồi,
sao mày bắt người đền mạng cho mày, điều này không thỏa đáng!”. “Tôi không phải
là rắn, tôi là võ tướng Kinh Châu của Lương Võ Đế sau triều Tấn, vì đánh nhau
với Hầu Cảnh chết ở sa trường, tại sao ông nói tôi là rắn?”. “Hầu Cảnh là
chuyện của sáu đời trước, bây giờ đã là đời Minh rồi. Ông đã biến thành rắn mà
không biết, còn muốn tạo thêm tội nghiệp, thật là đáng thương quá! Thân người
đã mất còn không biết, hiện nay đang là thân rắn cũng không hay, oán chỉ được
giải không được kết thêm!”. “Tôi đã biến thành rắn, bây giờ phải làm sao? Xin
ông hảo tâm, hảo ý cứu tôi!”. “Ông là người thời Lương Võ Đế. Ông có biết
chuyện Lương Võ Đế vì siêu độ cho hoàng hậu Hy Thị bị làm thân rắn mà viết cuốn
Lương Hoàng Bảo Sám không?”. “Biết! Biết!”. “Bộ Lương Hoàng Bảo Sám rất vĩ đại.
Vậy thì tôi tụng bộ Lương Hoàng Bảo Sám để siêu độ cho ông được không?”. “Tốt
lắm! Tốt lắm! Cảm ơn ông lắm!”.
Ông già họ Tào liền kiền thành cung kính lễ bái tụng bộ Lương
Hoàng Bảo Sám, vừa tụng kinh xong, tỳ nữ lập tức tỉnh ngay. Quý vị thấy, Phật
pháp vô biên, thật là bất khả tư nghì!
Sau đây, sẽ kể thêm một sự thật nữa để chứng minh:
Giữa năm Canh Thần đời Sùng Trinh nhà Minh, tể tướng họ Hạ ở Giang Hạ. Có một
buổi tối, cập thuyền ở cửa sông Tầm Ngư Chủy. Đêm hôm đó, Hạ tể tướng nằm mộng,
thấy thần miếu đến nói với ông rằng: “Tôi là Tống đại vương, thần sông Cửu
Giang. Đời trước cùng Hạ tể tướng và pháp sư Tam Muội, ba người là huynh đệ,
thầy trò. Pháp sư Tam Muội đời nay là quốc sư, Ngài thì làm tể tướng, còn tôi
do một niệm tham rượu thịt, cho nên đọa lạc làm thần sông. Khách thương buôn
qua lại toàn dùng rượu thịt cúng tế tôi, đời sau chắc chắn tôi sẽ bị đọa lạc
trong ba đường khổ. Pháp sư Tam Muội là người đạo hạnh cao thâm, từng siêu độ
những người bị đọa lạc rất nhiều. Tối mai thuyền của pháp sư sẽ dừng ở đây, xin
Ngài ngày mai hãy khoan đi, nán lại thêm một ngày nữa, giúp tôi thỉnh pháp sư
Tam Muội cầu siêu bạt độ cho tôi, lạy Phật sám hối cho tôi, khiến tôi tiêu trừ
nghiệp chướng, thoát ly tội báo! Trông cậy hết nơi Ngài! Trông cậy hết nơi
Ngài!”.
Hạ tể tướng trong mộng nghe ông ta nói một hơi, đồng ý giúp ông ta
thỉnh pháp sư Tam Muội làm đàn tràng bạt độ. Hôm sau, thuyền của pháp sư Tam
Muội quả nhiên đến thật. Hạ tể tướng bèn kể hết tự sự nguyên nhân ham rượu thịt
quá khứ của thần miếu và việc thần miếu muốn cầu siêu độ. Pháp sư Tam Muội bèn
tức tốc kiến lập Thủy đạo tràng, trai tăng cúng phúng cho thần miếu. Đang lúc
siêu độ, bỗng nhiên vị tăng đầu bếp nói: “Thần sông cũ nhờ công đức này đã được
thoát khổ. Hiện tại, thần sông mới đến cũng đã quy y Tam bảo Phật Pháp Tăng và
thọ trì ngũ giới. Từ nay trở đi, cúng thần miếu phải dùng đồ chay, không nhận
rượu thịt nữa! Trong đó có một quái nhân, không tin lời vị thần mới nhậm chức,
liền nhập vào người vị tăng đầu bếp, vội vàng đi chuẩn bị rượu thịt đến miếu
thần cúng. Lúc người ấy trong tay đang cầm hương định lạy xuống, bỗng trượt
chân té ngữa, đồng thời tự vả vào mồm mình nói: “Tôi đã quy y pháp sư Tam Muội,
không nhận thức ăn mặn. Hôm trước đã nhờ vị tăng đầu bếp nói rồi, sao lại phá
giới tôi? Sau này nhất định phải chú ý đó! Không được sát sinh cúng tôi nữa!”.
Người ấy sau khi tỉnh lại, lập tức cầu xin sám hối. Từ đó về sau, không bao giờ
dám nghĩ, nói bậy nữa.
Thưa quý vị! Hai câu chuyện trên, đã chứng minh được sức mạnh của
Phật pháp to lớn như thế. Tuy quả đã chín muồi, nhưng chỉ cần thành khẩn sám
hối cũng có thể làm nó thay đổi, huống gì hiện tại quả còn chưa thành thục. Bắt
đầu từ nay giới sát, lập chí làm một con người mới, cải đổi lỗi xưa, tu tập quy
chánh.
Hai câu đầu của bài kệ này:
“Tâm như lò lửa
Tội như phiến băng
Buông xuống đồ đao
Tức khắc thành Phật”.
Đây là nói về lý. Ngày xưa, lúc Phật Thích Ca còn tại thế. Có một người đồ tể, trong tay cầm con dao mổ bò dính đầy máu, đến đạo tràng nghe Phật thuyết pháp. Người đồ tể sau khi nghe pháp, lập tức tâm khai ý giải, miệng vừa nói rất có lý, tay vừa quăng con dao đi. Lúc đó, lập tức chứng được quả vị. Sau này, cuối cùng cũng thành Phật. Cho nên, thành tâm khuyên quý vị: Bây giờ, chiến tranh còn chưa đến, mọi người hãy nhanh nhanh tu sửa, hãy mau mau giới sát phóng sinh. Hiện tại, chúng ta đã nhận thức rõ ràng, bị quả báo chiến tranh là do nhân sát đã tạo trong quá khứ, cho nên phải bị quả báo chết chóc. Bây giờ phải dứt ngay nhân sát thì không có duyên sát; không có duyên sát thì không có quả báo bị sát, và sẽ không xảy ra chiến tranh.