Đạo Phật Không Phải Là Sự Sùng Bái Cá Nhân - Buddhism Is Not A Cult Of Personality

02/12/20234:36 SA(Xem: 1975)
Đạo Phật Không Phải Là Sự Sùng Bái Cá Nhân - Buddhism Is Not A Cult Of Personality

ĐẠO PHẬT KHÔNG PHẢI LÀ SỰ SÙNG BÁI CÁ NHÂN
BUDDHISM IS NOT A CULT OF PERSONALITY
Tỳ Kheo Ni Pháp Hỷ

Đạo Phật – Buddha sāsana con đường giác ngộ, mặc dù bắt đầu từ đức Phật, người truyền bá những thông điệp mang tính ‘cách mạng’, đổi mới giữa những xã hội đã bị tín điềuniềm tin sai lầm dẫn dắt. Thái tử Tất Đạt Đa (Prince Siddhattha) đã rời hoàng cung, rời vị trí của một ông hoàng – người có nhiều khả năng thừa kế quyền lựcđịa vị cao nhất của thế tục – để xuất gia tìm đạo, trở thành Sa môn Gotama. Sau 6 năm tu theo các trường phái thiền định & khổ hạnh ép xác, được tôn trọng, được chia sẻ vị trí lãnh đạo của các giáo phái tu hành của thời đó, nhưng Sa môn Gotama đã cảm thấy đó không phải là những gì mà mình tìm kiếm.(ref. MN 26, DN 14, SN 6.1). Đạo sĩ Gotama đã từ bỏ những thứ đó, tự khám phá một lối đi riêng cho con đường phát triển tâm thức của mình.

Sau này người tuyên bố đó là con đường Trung Đạo tránh hai cực đoanlợi dưỡng vô độkhổ hạnh ép xác – vốn là nhưng pháp không đưa đến an lạc, tịnh chỉ, ly thamđoạn diệt các phiền não nghiệp chướng sâu dày. Con đường thiền định và thanh lọc tâm của người dẫn người thực hành đến nhận thức đúng đắn (Chánh kiếnchánh tư duy), đến các trạng thái cao thượng và vi diệu hơn để có thể điều tiết cảm xúc, suy nghĩ, nói năng và hành động – tương tác một cách thiện lành, biết buông bỏ những thứ thô thiểnchướng ngại, để thành tựu các trạng thái an lạchoàn mỹ hơn. Và rốt ráo, để thấy ra những sự thật vi diệu trong đời sống, tâm tánh an nhiên, thái độ trung dung tự tại giữa những đổi thay và diễn biến của thế gian vô thường.

Những ai đi trên con đường này đều có cơ hội để vượt ra ngoài ‘cái tôi’ bé nhỏ, cái ‘của tôi’ bất toàn, và ‘bản chất’ vốn không có tự tánh, nhưng bị chấp lầm, bị bám víu vào khiến khổ đau, xung đột triền miên. Những người ít nhiều có được những thành tựu trên con đường xuất trần, tu tập giới (sīla), định (samādhi) và phát triển trí tuệ (paññā), trở thành những nhân cách đáng được kính trọng, nể phục, và tỏa sáng. Tuy nhiên, nếu họ tiếp tục đi đúng đường, thì họ không dừng lại thỏa mãnđồng hóa với những thành tựu đó – và không trở thành một hiện tượng tôn sùng, để cho sự sùng bái cá nhân làm cho mờ mắt và đắm nhiễm trong danh vọng & quyền lực. Từ ngàn xưa các vị thánh A-la-hán đã biết được điều này.[i] Một người có các khả năng, thành công, có khả năng ảnh hưởng lớn lên nhiều người, đem lại lợi ích và niềm cảm hứng cho nhiều người thì được gọi là bậc chân nhân – Sappurisa trong Phật giáo. (Ref. AN iv. 8.38)

Một người có khả năng đem lại niềm tin và nguồn cảm hứng cho người khác – nhân cách của họ được hình thành từ những nỗ lực sống lành mạnh, sống coa ý nghĩa, có năng lựcý chí tiến thủ, biết yêu thuwong, quan tâm và chăm sóc đến mọi người. Bậc chân nhân (Sappurisa) khi làm phước thì làm với tâm trượng phu, làm với sự kính trọng,[ii]vv

Khi là một người lãnh đạo, bậc chân nhân có những phẩm chất được miêu tả trong trong kinh Phúng Tụng Saṅgīti Sutta (D 33), và kinh Das’uttara Sutta (D 34) và kinh Dhammaññū Sutta (A 7.64) cho biết thuật ngữ về Chân Nhân là người có bảy phẩm chất:

(1) là người biết Pháp [giáo pháp & chân lý] (dhammaññū);

(2) là người biết ý nghĩa và mục đích của pháp (atthaññū);

(3) là người biết chính mình [bản chất của bản ngã] (attaññū);

(4) là người biết chừng mực (mattaññū);

(5) là người biết thời gian thích hợp (kālaññū);

(6) là người biết hội chúng [biết mình đang ở trong hội nào] (parisaññū); và

(7) là người biết những khác biệt giữa các cá nhân (puggalaññū or puggala,parovaraññū).

 

Trong khi đó, sự sùng bái cá nhân là kết quả của một nỗ lực tạo ra một hình tượng lý tưởng, một vị anh hùng của thời đại – một vị lãnh đạo tài ba, anh dũng, sáng chói với hào quang mà chủ yếu là do ca ngợi & tưng bốc thái quá. Khi đám đông cần một hình tượng để noi theo, để làm một điểm trụ cho niềm tin để cùng hướng về một sự thay đổi, nổi loạn, hay gìn giữ một truyền thống (thế quyền hay giáo quyền), truyền thông liền xây dựng một hình tượng có những phẩm chất đáng mong muốn như vậy. Trong lịch sử đã xuất hiện những kiểu hình đó: như là lòng yêu nước thương nòi, và qua các phương tiện đại chúng, họ tuyên truyền, đưa đẩy phong trào lên tầm cao và rộng như mít tinh, biểu tình, vv, lấy hình tượng một người như là vị lãnh đạo vô song, vô đối để khơi dậy lòng nhiệt huyết của quần chúng tham dự.

Các chiến dịch truyền thông và gặp gỡ lãnh đạo cao cấp, những ‘bữa tối’ với nhân vật nổi tiếng này nổi bật kia, vv đem lại cảm giác hí hửng, thỏa mãn tính ham danh cho các ‘tín đồ’. Người ta, nhất là đám đông hay thể hiện, thích chạy theo ‘mode’ và đu theo trend.

Theo Britannica (https://www.britannica.com/topic/cult-of-personality)

Chủ nghĩa sùng bái cá nhân là một hệ thống được tạo ra có chủ đích, của nghệ thuật, biểu tượng, và nghi lễ được tập trung trên các tổ chức gần như tôn giáo được thể chế hóa, làm nổi bật một cá nhân – thường là người sáng lập hay người lãnh đạo lỗi lạc của tổ chức đó. Từ thế kỷ 20, chủ nghĩa sùng bái cá nhân thường hay được sử dụng để chỉ những lãnh đạo giáo phái/chính trị có sức lôi cuốn. Thường thì các vị lãnh đạo chính trị này được ‘truyền thông định hướng’ để tăng trưởng quyền lực của họ, khuếch trương lý tưởng của họ, và hợp thức hóa luật lệ của chính phủ có liên quan đến họ. Vì mối liên kết giữa cái sự sùng bái cá nhân lãnh đạo trong các hệ thống tập quyền, như chủ nghĩa phát xít ở Đức, và CNCS ở các nước liên bang  Xô Viết, hay Bắc Hàn, mà từ này (personality cults) đã được hiểu rất tiêu cực.

Đại Đế Alexander
Tượng Đại Đế Alexander

Trong lịch sử nhân loại đã có những hiện tượng như vậy, Đại Đế Alexander là một ví dụ. Trong lịch sử cổ đại, thường hiện tượng sùng bái cá nhân đến từ các niềm tin mang tính tôn giáo đa thần cho phép việc giới thiệu thêm các vị thần mới vào trong tín ngưỡng của họ. Thường thì các vị thần này được xem như là con cháu hay có quan hệ huyết thống với các vị thần tiền bối, như vậy hàng hậu bối cũng được thần thánh hóa như là một cách hợp thức hóa trong các triều đại. Như vậy các nhà cai trị Ptolemaic của Ai Cập sau khi bị chinh phục bởi đại đế Alexander đã thiết lập một sự sùng bái cá nhân xoay quanh cả hai: vị hoàng đế vĩ đại này để biện minh cho việc họ cai trị hoàn toàn con dân Ai Cập và giữ mối liên hệ mật thiết với Hy Lạp và vùng Địa Trung Hải. Sự sùng bái cá nhân Alexander the Great đã thịnh hành trong thời đại La Mã -Hy lạp  cổ đại đến nỗi người ta không tôn vinh ông thì cũng kính ngưỡng ông như một vị anh hùng cảu mọi thời đại, và các nhà điêu khắc, nghệ thuật gia viết về ông, tạo hình ông là cực kỳ phổ biến.

Một người nữa được thần thánh hóa và tôn vinh là Augustus

AugustusTượng của Augustus mặc tấm choàng Toga, làm bằng đá cẩm thạch vào thế kỷ thứ 1 sau công nguyên. Statue of Augustus dressed in a toga, marble, 1st century CE; at the Archaeological Ensemble of Mérida in Extremadura, Spain.

Các triều đại của các hoàng đế Roman cũng duy trì sự sùng bái cá nhân qua các triều đại, và tôn vinh các vị hoàng đế cai trị trước  như thần thánh. Thông lệ này được bắt đầu từ  Augustus, vị hoàng đế đầu tiên của các triều đại Roman, được tiếp nối bởi nền cộng hòa do người con nuôi Julius Caesar, người được phong thần sau khi đã chết. Còn Augustus tụ gọi mình là “con của thần thánh” để hợp thức hóa việc củng cố quyền lực của mình trong triều đại Roman. Tượng của ông và các thành viên hoàng gia được đặt khắp nơi trên đất hoàng gia. Và những nghi lễ mang tính sùng bái cá nhân được nhà nước bảo trợ là một phần quan trọng trong sự chuyển giao từ nền Cộng Hòa đến Công Quốc – cái tích hợp các thể lệ cảu cộng hòa kết hợp với quyền lực của chế độ quân chủ. Giáo phái có các đền thờ và các linh mục, và đã có những nghi lễ mà các thành viên hoàng gia cần hiện diện khi phong thánh các vị hoàng đế.

Điều này cũng tương tự trong các triều đạiĐông Phương, nhất là Trung Hoa, xem vua như “Thiên Tử” – con trời, có định mệnh cai trị và thống lãnh thiên hạ.

Thái Tử Tất Đật Đa (Siddhattha) đã từ bỏ tất cả những danh lợi, quyền lực thế gian, ngay cả như một vị Chuyển Luân Thánh Vương (cakkavattī) cũng đã được ngài từ bỏ để tu hành, và cuối cùng thành một vị Phật. Ngay cả trước khi nhập đại Niết Bàn, xả bỏ thân người, từ giã thế giới này, ngài cũng khôgn chỉ định ai thay thế mình để lãnh đạo Sangha – tăng đoàn. Thay vào đó đức Phật đã dạy rằng hãy lấy Pháp và Luật (Dhamma- Vinaya) làm thầy, làm các tiêu chí hướng dẫn những người theo con đường giác ngộ mà ngài đã phát hiện.

Ngài tuyên bố mỗi người hãy là nơi nương tựa vũng vàng, là hải đảo/ ngọn đèn cho chính mình, không ai khác có thể cướp đi cái quyền tự quyết đó. Trong DN 26, ngài dạy:

—Này các Tỷ kheo, hãy sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy Chánh pháp làm ngọn đèn, lấy Chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một gì khác!

Này các Tỷ kheo, thế nào là một Tỷ kheo sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy Chánh pháp làm ngọn đèn, lấy Chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một gì khác?

Này các Tỷ kheo, ở đây Tỷ kheo sống quán thân trên tự thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để có thể diệt trừ tham ưu ở đời, trên các cảm thọ … trên các tâm … sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để có thể diệt trừ tham ưu ở đời. Này các Tỷ kheo, như vậy là Tỷ kheo sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa mình, không nương tựa một ai khác, lấy Chánh pháp làm ngọn đèn, lấy Chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một gì khác.

Này các Tỷ kheo, hãy đi lại trong giới hạn được phép của mình, trong giới hạn Tổ phụ các Ngươi truyền lại. Này các Tỷ kheo, nếu các Ngươi đi lại trong giới hạn được phép của mình, trong giới hạn Tổ phụ các Ngươi truyền lại, thì Ma vương sẽ không có cơ hội để xâm nhập, không có cơ hội để nhắm vào đối tượng. Này các Tỷ kheo, chính nhờ nhiếp trì các thiện pháp làm nhân duyêncông đức này được tăng thịnh.

  • (Trường Bộ Kinh, 26. Kinh Chuyển luân Thánh vương Sư tử hống)

 



[i] Bhikkhuni vagga Samyutta nikaya: “Kiṁ nu sattoti paccesi,māra diṭṭhigataṁ nu te;Suddhasaṅkhārapuñjoyaṁ,nayidha sattupalabbhati.

Yathā hi aṅgasambhārā,hoti saddo ratho iti;Evaṁ khandhesu santesu,hoti sattoti sammuti. 

Dukkhameva hi sambhoti,dukkhaṁ tiṭṭhati veti ca;Nāññatra dukkhā sambhoti,nāññaṁ dukkhā nirujjhatī”ti.

[ii] AN. XV. 5. 148—Này các Tỷ-kheo, có năm loại bố thí này xứng bậc Chân nhân. Thế nào là năm?

Bố thílòng tin, bố thíkính trọng, bố thí đúng thời, bố thí với tâm không gượng ép, bố thí không làm thương tổn mình và người.

Này các Tỷ-kheo, sau khi bố thí với lòng tin chỗ nào, chỗ nào, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả: Người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn, đẹp trai, dễ ngó, có thành tínthành tựu dung sắc thù thắng như hoa sen.

Và này các Tỷ-kheo, sau khi bố thícung kính, chỗ nào, chỗ nào, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả: Người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn; và các con trai, các bà vợ, các người nô tỳ, các người đưa tin, các người làm công, những người ấy đều sẵn sàng vâng theo người ấy, họ lóng tai và phục vụ với tâm hiểu biết.

Và này các Tỷ-kheo, sau khi bố thí đúng thời, chỗ nào, chỗ nào, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả: Người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn; và các vật dụng đến với người ấy đúng thời và sung túc.

Và này các Tỷ-kheo, sau khi bố thí với tâm không gượng ép, chỗ nào, chỗ nào, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả: Người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn, và hướng tâm thụ hưởng đầy đủ năm dục công đức.

Và này các Tỷ-kheo, sau khi bố thí không làm thương tổn mình và người, chỗ nào, chỗ nào, quả dị thục của sự bố thí ấy đem lại kết quả: Người ấy được giàu sang, đại phú, tài sản sung mãn; và không một tai nạn nào từ đâu đến, đến với tài sản của người ấy, hoặc từ lửa, từ nước, từ vua, từ ăn trộm, từ các người thù địch hay từ các người thừa tự.

 

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
09/12/2016(Xem: 10372)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.