TINH TÚY CAM LỒ SÂU SẮC
Các Giai Đoạn Quán Tưởng Thiết Yếu
Cho Thực Hành Sơ Khởi Tâm Yếu Cõi Giới Bao La (Longchen Nyingtik)
Jamyang Khyentse Wangpo[1] soạn | Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ
Namo gurubhyaḥ!
Đây là một hướng dẫn để thường xuyên thực hành những giai đoạn của các thực hành sơ khởi Dzogchen Longchen Nyingtik[2].
Trước tiên, lúc bình minh khi đến lúc cần thức dậy, hãy tưởng tượng rằng Bổn Sư của con xuất hiện trên bầu trời phía trước con trong hình tướng Orgyen Dorje Chang, Kim Cương Trì xứ Oddiyana. Ngài được vây quanh bởi tập hội Không Hành nam và nữ; tất cả đều chơi trống cầm tay Damaru, thứ dội vang âm thanh của Chân ngôn, đánh thức con khỏi giấc ngủ.
Khi thức dậy, hãy quán tưởng thân con trong hình tướng của vị Tôn và môi trường xung quanh con là một cõi Tịnh độ. Hãy thấy rằng đạo sư trong tim con đi theo kinh mạch trung ương lên không gian phía trên đỉnh đầu con và duy trì ở đó, đầy hoan hỷ.
Sau đó, với thân con trong tư thế chuẩn xác, hãy thở ra hơi thở cũ chín lần và nghỉ ngơi một chút, để tâm con an trú trong trạng thái tự nhiên. Khi con như thế trở thành một bình chứa thích hợp để thiền định, hãy thực hành sự gia trì khẩu bắt đầu bằng, “OM AH HUM. Từ chữ RAM xuất hiện lửa cháy thiêu dụi lưỡi con …”. Nếu muốn thực hành tỉ mỉ hơn, con có thể trì tụng Gọi Thầy Từ Phương Xa bắt đầu bằng, “Ngài là vị mà lòng từ ái / Đem đến đại lạc …”.
Trong phần hành trì thực sự của các thực hành sơ khởi, có những thực hành sơ khởi (bên ngoài) thông thường và thực hành sơ khởi (bên trong) đặc biệt.
I. Các Thực Hành Sơ Khởi Thông Thường
Có sáu giai đoạn quán chiếu trong các thực hành sơ khởi thông thường; tất cả đều có thể được thực hành cùng nhau, lần lượt. Khi tụng, “Từ bông sen sùng kính bừng nở trong trái tim con …”, hãy quán chiếu như sau.
Về cơ bản, có tám tự do, điều là sự đối lập với tám trạng thái mà trong đó không có cơ hội tham gia vào thực hành Giáo Pháp. Tiếp theo, đặc biệt hơn, có mười thuận duyên. Cùng nhau, mười tám tự do và thuận duyên này mô tả một thân người quý báu, thứ đem đến lợi lạc không thể nghĩ bàn nhưng cũng cực kỳ hiếm có, như sự quán chiếu về nguyên nhân, những tương đồng và thống kê con số chứng minh.
Con hiện đang sở hữu một thân người quý báu như vậy, nhưng thậm chí thế giới bên ngoài này, thứ xuất hiện thật rắn chắc và thật ổn định, rốt ráo cũng sẽ bị phá hủy bởi bảy đám cháy lớn và một trận lụt lớn, chẳng để lại thứ gì, ngay cả tro bụi. Và về chúng sinh sống trong thế giới này, không có dù chỉ một vị sinh ra mà không chết đi. Vì thế, cái chết chắc chắn cũng sẽ xảy đến với con – và không có gì đảm bảo rằng nó sẽ không đến ngay tối nay!
Vào thời điểm con chết, ngoài Giáo Pháp hoàn toàn thanh tịnh, chẳng gì có thể đem đến bất kỳ lợi lạc nào; và khi con chết, tương lai của con sẽ được quyết định hoàn toàn bởi những hành động quá khứ của con.
Là kết quả của các hành động gây hại của con, con sẽ tái sinh trong ba cõi thấp hơn, nơi mà con phải đối mặt với khổ khổ chẳng thể chịu đựng. Thậm chí nếu con đã tích lũy những thiện hạnh không hoàn hảo[3] và tái sinh trong ba cõi cao hơn, vẫn chưa thể vượt khỏi khổ đau vì thay đổi [hành khổ] hay khổ đau tràn khắp của sự tồn tại có điều kiện [hoại khổ].
Do đó, con phải làm bất cứ điều gì cần thiết ngay bây giờ để thoát khỏi đại dương lớn lao của khổ đau, tức luân hồi.
Về điều này, con cần nương tựa một thiện tri thức tâm linh đủ phẩm tính của Đại thừa, vị mà con cần làm hài lòng theo ba cách[4]. Con cần làm hay tránh bất cứ điều gì Ngài chỉ dạy con và cẩn thận không rơi vào tầm ảnh hưởng của các bạn hữu ngây ngô hay những vị hành xử theo các cách thức gây hại.
Nhận ra rằng chỉ Giáo Pháp mới làm lợi lạc vào lúc chết và trong tương lai, hãy thực hành Giáo Pháp càng nhiều càng tốt trong mỗi một ngày.
Để thực hành như vậy, hãy thấy rằng đạo sư và Tam Bảo quan tâm đến con và phát khởi một nhận thức xả ly mạnh mẽ.
II. Các Thực Hành Sơ Khởi Đặc Biệt
Thứ hai, các thực hành sơ khởi đặc biệt có sáu phần.
Đầu tiên trong số đó là quy y.
1. Quy Y
Về điều này, con cần áp dụng thái độ của một vị vĩ đại và thấy rằng con đang quy y đạo sư và Tam Bảo để giải thoát bản thân và mọi hữu tình chúng sinh khác khỏi khổ đau khủng khiếp của luân hồi.
Hãy thấy rằng toàn bộ vùng đất nơi con đang ngồi là một cõi thiêng đẹp đẽ, làm hài lòng tâm trí. Trên mặt đất trải ngọc có cây như ý với năm nhánh chính, sum suê lá, hoa và quả, những tràng ngọc báu và chuông nhỏ. Nó trùm khắp toàn bộ không gian. Ở trung tâm, trên tòa ngọc được nâng đỡ bởi sư tử và chỗ ngồi làm từ hoa sen nhiều màu, mặt trời và mặt trăng, là hiện thân của tất cả chư Phật – Bổn Sư của con – trong hình tướng Orgyen Dorje Chang (Kim Cương Trì xứ Oddiyana), màu xanh dương[5] và cầm chày kim cương cùng chuông. Ngài hợp nhất với vị phối ngẫu Yeshe Tsogyal, vị màu trắng và cầm dao cong cùng cốc sọ. Hai vị được điểm tô bằng trang sức lụa và xương.
Đạo Sư an trụ trong tư thế kim cương. Phía trên đầu Ngài là chư đạo sư của truyền thừa Đại Viên Mãn Dzogchen, vị này an tọa phía trên vị kia. Chư vị được vây quanh bởi chư đạo sư gốc và truyền thừa, chư Bổn tôn của nhiều đàn tràng [Mandala] khác nhau liên quan đến sáu bộ Mật điển vĩ đại và vô số chư Không Hành nam và nữ của ba phạm vi[6].
Trên nhánh phía trước là Phật Thích Ca Mâu Ni và tất cả những vị Phật khác của ba thời, trong hình tướng Hóa thân. Trên nhánh bên phải là Tăng đoàn Đại thừa, bao gồm Tám Trưởng Tử. Trên nhánh bên trái là Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cùng tập hội Tăng đoàn Thanh Văn cao quý. Trên nhánh đằng sau là Pháp Bảo dưới dạng những chồng sách, màu đỏ, từ đó tự phát ra âm thanh nguyên âm và phụ âm. Trong không gian ở giữa, có một đại dương tập hội lớn lao những vị bảo vệ bị trói buộc bởi lời thề và theo nghiệp, tràn ngập toàn bộ không gian, không để lại bất kỳ lỗ hổng nào.
Hãy xem cách mà tất cả những vị này có vô lượng phẩm tính của trí, bi và dũng và thực sự hiện diện là những đấng dẫn dắt vĩ đại, vị quan tâm đến con và dẫn dắt con trên con đường giác ngộ.
Con ở phía trước chư vị với cha của con bên phải và mẹ của con bên trái. Phía trước con là tất cả chúng sinh, những vị từng làm hại con; và trong toàn bộ vùng xung quanh là tất cả hữu tình chúng sinh của sáu cõi. Tất cả các con bày tỏ sự kính trọng bằng thân khi chắp tay lại; bằng khẩu, các con đều tụng đoạn kệ quy y; và bằng ý, con nghĩ như sau:
“Từ nay đến khi chứng ngộ tâm yếu giác ngộ, chúng con xem đạo sư là đấng dẫn dắt, chư Bổn tôn và Phật là thầy; Giáo Pháp là con đường; và Không Hành Nữ, Hộ Pháp cùng những thành viên Tăng đoàn là vị đồng hành trên con đường. Chúng con nương tựa chư vị. Chúng con cúng dường mọi thứ lên chư vị. Chúng con chẳng còn chốn nương tựa hay hy vọng nào khác. Bất kể chúng con làm gì, xin hãy chăm sóc chúng con”.
Với ý nghĩ mong mỏi mãnh liệt như vậy, hãy thấy rằng con quy y. Thực hành như vậy càng nhiều càng tốt.
Cuối cùng, những tia sáng phóng ra từ tim của các cội nguồn quy y, thâm nhập thân và tâm con và mọi chúng sinh khác. Điều này tịnh hóa phiền não chướng và sở tri chướng cùng những tập khí thói quen của con. Hãy thấy rằng thọ mạng của con được kéo dài, công đức của con tăng trưởng và các phẩm tính về nghiên cứu và chứng ngộ của con ngày càng phát triển. Hãy an trú trong thiền định một lúc trong trạng thái thoát khỏi bất kỳ bám chấp tinh thần nào.
2. Phát Bồ Đề Tâm
Đầu tiên, hãy rèn luyện tâm con trong bốn phẩm tính vô lượng [Tứ Vô Lượng Tâm]. Hãy bắt đầu bằng việc phát khởi xả, trong đó chẳng có sự tham luyến nào với gia đình và bạn bè thân thiết hay thù hận với kẻ thù. Điều này đến từ việc thấy cách mà, theo thời gian từ vô thủy, trong tất cả hữu tình chúng sinh, vô số như hư không, những vị đã từng là kẻ thù của con, cũng đã từng là bạn con và những vị đã từng thân thiết với con thì lúc khác cũng chống đối con. Mọi chuyện xảy ra như vậy trong quá khứ, vì thế cũng xảy ra như vậy ở hiện tại và trong tương lai; con không thể thực sự nói xem ai là bạn và ai là thù. Sau đấy, hãy phát khởi từ, bằng cách thấy cách mà họ đều đã từng là mẹ và cha từ ái của chính con và mong rằng họ có thể tìm được hạnh phúc để đền đáp lại tất cả sự tử tế mà họ đã dành cho con và bi, bằng cách mong rằng họ không bao giờ đau khổ. Cuối cùng, hãy trưởng dưỡng hỷ, tức là sự hân hoan mà con cảm thấy trước viễn cảnh về việc mọi chúng sinh duy trì liên tục trong trạng thái hạnh phúc viên mãn này, thoát khỏi mọi khổ đau.
Sau đấy, hãy xem những đối tượng quy y là nhân chứng và phát khởi Bồ đề tâm nguyện, bằng cách nghĩ rằng:
“Để mọi chúng sinh có thể được thiết lập trong hạnh phúc vĩnh cửu của sự giải thoát viên mãn, con sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết để đảm bảo rằng con đạt được trạng thái quý báu của sự giác ngộ viên mãn”.
Tiếp đó, hãy phát triển Bồ đề tâm hạnh, nghĩ rằng:
“Vì lý do đó, đã rèn luyện trong những cơn sóng bao la của thực hành Bồ Tát, được đại diện bởi con đường sâu sắc này, con sẽ dấn thân với sự tinh tấn cho đến khi không còn dù chỉ một hữu tình chúng sinh trụ trong luân hồi”.
Không để tâm con lạc khỏi những quán chiếu này, hãy tụng các đoạn kệ phát Bồ đề tâm ba lần hoặc càng nhiều càng tốt.
Nếu con không thể tiến hành tất cả những điều này như một thực hành thường lệ, đơn giản phát Bồ đề tâm nguyện và hạnh là đủ.
Nếu con muốn thực hành tỉ mỉ hơn, ở điểm này, con có thể rèn luyện tâm trong việc quân bình hay hoán chuyển bản thân và chúng sinh khác. Đặc biệt, con có thể tiến hành thực hành Tonglen, bằng cách gửi đi hạnh phúc khi con thở ra và nhận về khổ đau khi con hít vào.
Con cũng có thể thiền định về Bồ đề tâm tuyệt đối – sự hợp nhất của yên bình (thiền chỉ samatha) và sáng suốt (thiền quán vipasyana) – được thôi thúc bởi sự chắc chắn liên quan đến vô ngã của bản thân và các hiện tượng.
Cuối cùng, con và mọi hữu tình chúng sinh tan vào các đối tượng quy y; chư vị sau đó tan vào đạo sư ở trung tâm. Đến lượt mình, Ngài tan vào cõi giới nguyên sơ của sự đơn giản Pháp thân và con an trú trong thiền định.
3. Thiền Định & Trì Tụng Kim Cương Tát Đỏa
Khi tụng, “AH! Con trong hình thức bình thường. Trên đỉnh đầu của con …”, hãy quán tưởng như sau.
Con duy trì trong thân tướng bình phàm. Trên đỉnh đầu con là một bông sen tám cánh, với cuống hoa rộng xấp xỉ bốn ngón tay được nhét vào ‘huyệt Phạm Thiên’ của con. Ở giữa là đĩa mặt trăng tròn màu trắng (rộng như bao phấn vàng của bông hoa), trên đó có chủng tự HUM màu trắng. Lập tức, HUM biến thành Đạo Sư Kim Cương Tát Đỏa, thân Ngài sáng ngời và tỏa hào quang. Ngài an bình, mỉm cười và có mọi tướng tốt cũng như vẻ đẹp.
Năm y lụa điểm tô thân Ngài: một thượng y lụa trắng, một hạ y nhiều màu, dải buộc đầu, khăn lụa xanh dương treo xuống dưới từ sau đầu và ‘ống tay áo như đang múa’ như trong một số bức tranh cổ xưa. Ngài cũng được trang hoàng bằng tám trang sức ngọc: vương miện ngọc báu, khuyên tai, chuỗi hạt ngắn, vòng tay, vòng chân, dây thắt lưng, chuỗi hạt dài – thứ dài tới dưới rốn và chuỗi hạt ngắn hơn – thứ dài đến vú của Ngài.
Bên tay phải, Ngài cầm một chày kim cương ở tim. Tay trái Ngài cầm chuông ở hông. Ngài hợp nhất với vị phối ngẫu Vajragarva (Dorje Nyemma)[7], vị có màu trắng và cầm dao cùng cốc sọ. Hai vị đều ngồi, Ngài trong tư thế kim cương trong khi vị phối ngẫu trong tư thế liên hoa.
Khi con đã quán tưởng hình tướng chư vị theo cách này, với sự mong mỏi và lòng sùng mộ mãnh liệt, hãy nghĩ rằng, “Xin hãy tịnh hóa tất cả ác hạnh và che chướng trong dòng tâm thức con! Hãy chăm sóc con!”. Điều này tạo thành sức mạnh của sự hỗ trợ.
Cảm thấy sự hối hận và ăn năn sâu sắc về các ác hạnh mà con đã phạm phải trong quá khứ là sức mạnh hối lỗi.
Hứa nguyện rằng từ khoảnh khắc này trở đi, con sẽ không tái phạm dù phải đánh đổi tính mạng là sức mạnh của sự xác quyết.
Cuối cùng, như một phương thuốc cho điều con đã phạm phải trong quá khứ, hãy quán tưởng một đĩa mặt trăng trong tim của Đức Kim Cương Tát Đỏa và ở giữa là chủng tự HUM, vây quanh là chuỗi những chữ màu trắng tạo thành Chân ngôn trăm âm. Các chữ này quay theo chiều kim đồng hồ và thanh mảnh như thể được vẽ bằng một sợi tóc. Hãy tụng Chân ngôn một lúc như thể con đang đọc nó.
Cam lồ trắng của đại lạc bắt đầu tuôn chảy từ vòng chú, đồng hành cùng với những tia sáng. Vô số cam lồ chảy qua thân của chư Tôn Yab-Yum, tuôn ra từ nơi hợp nhất của hai vị và sau đấy, cuộn xoáy quanh cuống bông sen, nó thâm nhập thân con qua huyệt Phạm Thiên.
Giống như rác rưởi và chất bẩn được đẩy ra bởi sự dâng trào dữ dội của một trận lũ lớn, mọi bệnh tật của con (dưới dạng mủ và máu), mọi thế lực gây hại (dưới dạng côn trùng) và mọi hành động gây hại và che chướng (dưới dạng mồ hôi, bồ hóng và hơi nước) phun ra qua các lỗ chân lông trên da và hai lỗ phía dưới của con. Chúng đều chảy vào miệng mở rộng của Tử Thần, kẻ sống ở chín tầng dưới mặt đất và xuất hiện dưới dạng một con bò đực đỏ. Khi chúng đến được bụng hắn, hãy thấy rằng cái chết phi thời đã được đẩy lùi.
Trì tụng Chân ngôn trăm âm – tốt nhất thì càng nhiều càng tốt; hoặc, ở mức độ trung bình là một trăm lần; hoặc ít nhất là hai mươi mốt lần – là sức mạnh của hành động như một sự đối trị.
Với đầy đủ những điểm trọng yếu của cả bốn sức mạnh này, hãy tiến hành thực hành.
Kế đó, hãy tưởng tượng rằng bốn luân xa của con ngập tràn cam lồ trắng; các hành động gây hại và che chướng liên quan đến cả ba cửa, cùng với những tập khí thói quen, đều được tịnh hóa. Trí tuệ của hỷ lạc và tính Không và bốn niềm hoan hỷ khởi lên trong tâm con, đến mức thân và tâm con chìm trong hỷ lạc vô cấu nhiễm. Cuối cùng, hãy dâng lời hứa nguyện sám hối, bằng cách phát khởi lòng sùng mộ và mong mỏi mãnh liệt một lần nữa và thưa rằng, “Hỡi Đấng Bảo Hộ …” và v.v. Đạo Sư Kim Cương Tát Đỏa hài lòng trước thỉnh cầu bảo hộ và tịnh hóa hành động gây hại và vi phạm của con. Ngài mỉm cười hoan hỷ khi chấp thuận, nói rằng, “Này nam/nữ tử của gia đình giác ngộ, các lỗi lầm và tội chướng của con đã được tịnh hóa hoàn toàn”. Như thế, Ngài tan thành ánh sáng, điều về tinh túy là đại lạc và tính Không.
Tiếp đấy, Ngài tan vào con và con lập tức biến thành Kim Cương Tát Đỏa hợp nhất với vị phối ngẫu, với hình tướng, màu sắc, Pháp khí cầm tay và y phục đều hoàn toàn viên mãn – xuất hiện nhưng rỗng rang, như hình phản chiếu trên gương. Tại tim, ở giữa một đĩa mặt trăng là chủng tự gốc HUM, vây quanh ở bốn phía là các chủng tự OM, VAJRA, SA và TVA, từ đó phóng ra vô số ánh sáng trắng. Chúng dâng cúng dường lên tất cả những vị tôn quý; nhờ đó, ân phước gia trì và các thành tựu của chư vị tan trở về con. Và sau đó, phóng ra một lần nữa, những tia sáng tịnh hóa hành động gây hại và che chướng của mọi chúng sinh.
Môi trường chuyển thành cõi Akanishtha – Abhirati [Hiện Hỷ] và cư dân – mọi chúng sinh của tam giới – trở thành Kim Cương Tát Đỏa của năm gia đình. Hãy thấy rằng họ đều đang trì tụng Chân ngôn cùng với con. Trì tụng tâm chú OM VAJRA SATTVA HUM càng nhiều càng tốt giúp tịnh hóa những che chướng nhờ giai đoạn phát triển đặc biệt (Kyerim[8]).
Cuối cùng, khi mọi ý nghĩ về vị Tôn hay Chân ngôn đã tan hòa vào trạng thái tịnh quang tự nhiên, hãy an trú trong trạng thái của giác tính và tính Không; trong đó, mọi quan niệm về ‘thứ gì đó cần được tịnh hóa’ hay ‘thứ gì đó tịnh hóa’ từ nguyên sơ vốn chẳng thực sự tồn tại. Điều này được biết đến là nhìn vào diện mạo của Kim Cương Tát Đỏa rốt ráo và đó là phương pháp thù thắng để tịnh hóa các che chướng dựa trên giai đoạn hoàn thiện rốt ráo (Dzogrim).
4. Cúng Dường Mandala
Hãy quán tưởng ruộng công đức trên bầu trời trước con, như trong thực hành quy y.
Trên đĩa Mandala sạch được làm từ kim loại quý hay chất liệu nào đó khác và được xức nước thơm và Bajung[9], hãy sắp xếp ba mươi bảy hay bảy tụ hoa. Hoặc là, nếu con không tiến hành như một thực hành hàng ngày, đơn giản quán tưởng điều này cũng được phép.
Bất kể con làm theo cách nào, hãy bắt đầu bằng cúng dường Mandala Hóa thân thông thường của vũ trụ tỷ phần được tạo thành từ một nghìn lần một triệu thế giới; mỗi vũ trụ bao gồm bốn lục địa, Núi Tu Di và các cõi của chư thiên và hoàn toàn tràn ngập những của cải dồi dào của môi trường và các cư dân. Hãy đặc biệt chú tâm để liên tục cúng dường thân thể, tài sản và bất kỳ công đức nào con đã tích lũy.
Trong không gian phía trên, vô số mây cúng phẩm khởi lên như là sự hiển bày của các thân và trí tuệ trong cõi giới Akanishtha-Ghanavyuha. Đây là Mandala Báo thân phi phàm.
Trong phạm vi trên đó, trên nền tảng không sinh nguyên sơ của Mandala Pháp thân đặc biệt, hãy sắp xếp các tụ đại diện cho ‘giác tính đạt đến sự thuần thục trọn vẹn’[10], khía cạnh xuất hiện của tịnh quang không ngơi nghỉ.
Hãy dâng tất cả với sự hiểu về bản tính không thể nghĩ bàn của sự thực, điều có thể hiển bày như các cõi giới thậm chí bên trong những hạt vi trần của cõi khác và về số lượng thì sánh ngang với những hạt vi trần này.
Với lòng sùng mộ mong mỏi, hãy cầu nguyện như sau:
“Cùng với tất cả hữu tình chúng sinh này, nguyện con hoàn thành những tích lũy công đức và trí tuệ, tịnh hóa phiền não và sở tri chướng, phát triển các phẩm tính về kinh nghiệm và chứng ngộ trong dòng tâm thức và rốt ráo tận hưởng vô số cõi của tam thân”.
Với ý nghĩ về lòng sùng mộ mãnh liệt như vậy, hãy cúng dường Mandala càng nhiều càng tốt.
5. Tích Lũy Của Vị Kusali: Chod
Trong khoảnh khắc, hãy quán tưởng ruộng công đức như trước và bên dưới đó, tất cả hữu tình chúng sinh của sáu cõi, được dẫn dắt bởi những vị làm hại con.
Khi tụng “PHAT! Từ bỏ bám luyến thân xác, thiên ma bị tiêu diệt …”, hãy quán tưởng như sau.
Từ bỏ sự tham luyến khiến con trưởng dưỡng thân thể của mình với thái độ bám chấp, hãy quán tưởng tinh túy thần thức của con dưới dạng một giọt trắng, lớn bằng hạt đậu, thứ phóng ra qua đỉnh đầu con và biến thành Không Hành Nữ trí tuệ Krodhakali. Bà được điểm tô bằng lụa và năm trang sức xương. Một cái đầu lợn nái nhô lên từ đỉnh đầu Bà. Tay phải Bà vung dao cong trong không trung, cắt sọ khỏi thân thể già cỗi, bị ruồng bỏ của con ở chỗ lông mày. Sọ lớn thêm như vũ trụ tỷ phần và được đặt trên lò làm từ ba sọ, mỗi sọ lớn bằng Núi Tu Di. Phần còn lại của thân con sau đấy được cắt thành các mảnh và đặt trong cốc sọ.
Bên dưới là nét thẳng đứng của một chữ A, từ đó, lửa trí tuệ bắt đầu cháy dữ dội. Trên đấy là một chủng tự HAM trắng, lật ngược, từ đó, cam lồ bắt đầu tuôn chảy vào cốc sọ, làm tan chảy và đun sôi những thứ bên trong.
Tụng OM tịnh hóa những thứ bên trong cốc sọ, đẩy ra mọi bất tịnh dưới dạng hơi nước màu tía. AH nhân thêm những thứ bên trong thanh tịnh, tạo ra số lượng cam lồ trí tuệ chẳng thể tưởng tượng. Nhờ HUM, cam lồ trí tuệ duy trì tinh túy, nhưng chuyển thành những đám mây lớn của bánh xe kho tàng hư không, thứ khởi lên như là bất cứ điều gì đáng mong mỏi hay thích thú. Hãy lặp lại ba chủng tự OM AH HUM nhiều lần.
Sau đấy, từ tim con phóng ra vô số thiên nữ cúng dường, những vị dâng phần đầu tiên lên chư Tôn của ruộng công đức, đem đến cho chư vị hỷ lạc và hài lòng vô cấu nhiễm. Cùng với mọi hữu tình chúng sinh, con hoàn thành hai sự tích lũy, tịnh hóa hai che chướng và thọ nhận hai kiểu thành tựu (Siddhi).
Phần thừa sau đó được trao cho các chúng sinh của sáu cõi. Những kẻ gây hại được tập hợp lại, đặc biệt, nhận phần của họ như các đống thịt, máu và xương và bất cứ điều gì họ muốn. Khi họ tận hưởng điều con trao cho họ, các món nợ nghiệp của con được tiêu trừ và bản tính ác độc và hận thù của họ được xoa dịu. Thân con trở thành thân cầu vồng vô cấu nhiễm và tâm con được nghỉ ngơi, thoát khỏi quan niệm, trong Pháp thân.
Cuối cùng, mọi ý niệm về chủ thể và khách thể được đại diện bởi sự cúng dường, các vị thọ nhận cúng dường và v.v. được tịnh hóa vào cõi giới của Đại Viên Mãn tịnh quang, trạng thái căn bản của tâm, thứ chẳng tồn tại cố hữu. Hãy an trú trong trạng thái tự nhiên và không tạo tác này, thoát khỏi mọi dấu vết về ba phạm vi quan niệm (của chủ thể, khách thể và hành động).
6. Đạo Sư Du Già
i. Quán Tưởng Các Đối Tượng Quy Y
Khi con tụng những đoạn kệ bắt đầu bằng, “Emaho! Nhận thức, tự nhiên hoàn hảo, v.v.”, hãy quán tưởng như sau.
Bất cứ nơi nào hư không bao trùm, nhận thức bao trùm và toàn bộ phạm vi nhận thức của con là một cõi Tịnh độ. Khi cách thức bình phàm mà con nhận thức tan vào hư không, cõi thiêng của sự thanh tịnh vô biên tự khởi lên, tự nhiên hoàn hảo, là Cung điện Akanishtha Liên Hoa Quang vĩ đại, rõ ràng thù thắng về sự thiết kế, trang trí và cấu trúc vô lượng.
Con ở trung tâm nơi đó. Về tinh túy, con là Yeshe Tsogyal, nhưng con xuất hiện trong hình tướng Kim Cương Du Già Nữ, màu đỏ, tay phải cầm dao cong và tay trái cầm cốc sọ chứa đầy máu. Ở khuỷu tay trái, Bà ấy cầm chĩa ba Khatvanga. Bà đang đứng trên một bông sen, mặt trời và xác chết, với chân phải duỗi và chân trái hơi co. Bà được điểm tô bằng trang sức lụa và xương, nhìn âu yếm, với ba mắt, vào tim của đạo sư.
Trên bầu trời phía trước con, ngang với đỉnh đầu con, là một bông sen nhiều màu với một trăm nghìn cánh. An tọa ở đó, trên đĩa mặt trời và trăng rộng như bao phấn của hoa sen, là Bổn Sư của con, hiện thân của mọi đối tượng quy y. Ngài xuất hiện trong hình tướng Orgyen Tsokye Dorje (Hồ Sinh Kim Cương xứ Oddiyana), màu trắng ánh đỏ và trẻ trung như cậu bé tám tuổi. Hai mắt Ngài mở to, nhìn chằm chằm. Trên thân, Ngài đắp hạ y kim cương màu trắng và trên đó, thành các lớp, một y đỏ, một áo Mật thừa xanh sậm, một khăn choàng tu sĩ đỏ được trang hoàng bằng hình hoa vàng và một áo choàng không tay nâu sẫm từ gấm lụa. Ngài có một mặt và hai tay. Bên tay phải, Ngài cầm một chày kim cương năm chấu ở tim; và bên trái, để trong tư thế bình thản, Ngài cầm cốc sọ mà ở giữa là một bình trường thọ chứa đầy cam lồ trí tuệ bất tử. Đặt trong tay trái Ngài là Khatvanga ba nhánh đại diện cho vị phối ngẫu Mandarava. Trên đầu, Ngài đội mũ liên hoa năm cánh. Phẫn nộ và mỉm cười, Ngài sáng ngời huy hoàng với các tướng tốt và vẻ đẹp. Ngài ngồi với hai chân trong tư thế vương giả.
Ngài được bao bọc hoàn toàn trong một phạm vi cầu vồng và lưới hào quang ngũ sắc; bên trong và từ đó cuộn xoáy những khối ánh sáng cầu vồng. Sau đó, khởi lên như là sự hiển bày của tâm trí tuệ Bổn Sư của con là tám Trì Minh của Ấn Độ, tám mươi tư chúa tể của chư Yogin, chư đại thành tựu giả của Tây Tạng, chẳng hạn như hai mươi lăm đệ tử và hơn thế nữa. Có những vị ở cấp độ Trì Minh, thành tựu giả và học giả từ Ấn Độ và Tây Tạng. Có vô số chư Bổn tôn an bình và phẫn nộ liên quan đến sáu bộ Mật điển vĩ đại và một tập hội Không Hành nam và nữ của ba nơi, chư Hộ Pháp, chư vị bảo vệ, chư Tôn tài bảo và chủ kho tàng. Cùng nhau, chư vị xuất hiện như mây cuồn cuộn; tất cả hợp nhất tịnh quang và tính Không như bóng trăng trên nước hay cầu vồng. Hãy quán tưởng chư vị theo cách mà nhận thức bình phàm của con tự động ngừng lại.
Khi con triệu thỉnh chư Tôn bằng Lời Cầu Nguyện Bảy Dòng, cảm thấy sự mong mỏi và sùng mộ mãnh liệt, Đức Padma Totreng xứ Oddiyana và một tập hội như đại dương chư Tôn chiến thắng của Tam Gốc đến từ cõi Hóa thân của Núi Vinh Quang ở Camaradvipa (Ngayab Ling) phía Tây Nam. Chư vị giáng hạ như một đống hạt mè lớn bung ra khỏi vỏ và hòa nhập bất khả phân với chư vị Thệ Nguyện Tôn.
ii. Thực Hành Bảy Nhánh
Bằng tâm, hãy tạo ra hàng trăm, hàng nghìn và cuối cùng là vô số hóa hiện của thân con, rồi dâng lễ lạy cùng với tất cả chúng sinh tam giới, bày tỏ sự kính trọng lớn lao nhờ thân, khẩu và ý.
Hãy dâng các cúng phẩm thực sự, được chuẩn bị, cũng như những gì được tạo ra trong sự tưởng tượng của con, thứ mà con có thể tưởng tượng là hóa ra, cho đến khi chúng tràn ngập toàn bộ hư không, giống như những đám mây cúng dường của Bồ Tát Phổ Hiền.
Hãy sám hối, với sự ăn năn và hối hận mãnh liệt, mọi hành động gây hại và vi phạm mà con đã tích lũy bằng thân, khẩu hay ý trong vô số đời trong luân hồi. Hãy thấy rằng chúng cùng nhau tạo thành một đống đen trên lưỡi con. Hãy sám hối chúng và thề không tái phạm. Sau đó, như một sự đối trị, những tia sáng phóng ra từ thân, khẩu và ý giác ngộ của chư Tôn trong ruộng công đức, chạm vào đống đó và tịnh hóa nó như một vết bẩn được rửa sạch hoàn toàn.
Hãy tùy hỷ, không chút cảm giác ghen tị hay đố kỵ, với tất cả cội nguồn công đức tuyệt đối và tương đối của luân hồi, Niết Bàn hay con đường.
Hãy khẩn cầu chư Phật và Bồ Tát khắp mười phương chuyển Pháp luân tam thừa của chư Thanh Văn, Duyên Giác Phật và Bồ Tát.
Hãy cầu nguyện và thỉnh cầu rằng chư vị không nhập Niết Bàn cho đến khi luân hồi trống rỗng.
Hãy hồi hướng mọi nguyên nhân thiện lành tích lũy khắp quá khứ, hiện tại và vị lai, đại diện bởi công đức thu thập nhờ thực hành này, là nhân để mọi chúng sinh đạt giác ngộ.
Giữ các thiền định cho bảy nhánh này trong tâm, hãy tiến hành lễ lạy và tụng bản văn càng nhiều càng tốt.
iii. Cầu Nguyện & Quán Đỉnh
Thành tựu giải thoát và toàn tri phụ thuộc vào sự chứng ngộ trí tuệ đồng sinh khởi bên trong tâm con; sự chứng ngộ như vậy lại phụ thuộc vào ân phước gia trì của đạo sư; và việc con có thọ nhận được ân phước gia trì của Ngài hay không thì hoàn toàn phụ thuộc vào việc tạo ra những hoàn cảnh cát tường nhờ sức mạnh của lòng sùng mộ của con.
Hãy đi đến quyết định vững chắc rằng Bổn Sư của con sở hữu chính xác những phẩm tính giác ngộ như Đức Phật nhưng thậm chí còn vĩ đại hơn Đức Phật về lòng từ. Hãy phát khởi kiểu xác quyết đó.
Sau đấy, tập trung toàn bộ tâm con, toàn tâm toàn trí về đạo sư và trao tất cả sự tin tưởng của con cho Ngài, nghĩ rằng: “Từ nay đến khi giác ngộ, / Buồn – vui, tốt – xấu, cao – thấp: / Đức Liên Hoa, nhớ đến con!”.
Hãy thực hành với sự mong mỏi và lòng sùng mộ mãnh liệt, thứ ảnh hưởng đến con về thân và tâm: Con nổi da gà, nước mắt tuôn trào và tâm con bị cuốn hút bởi đạo sư đến mức con chẳng thể nghĩ về thứ gì khác.
Hãy trì tụng “Hỡi Đức Đạo Sư Cao Quý …” càng nhiều càng tốt và sau đấy, tụng, “Chẳng còn nơi nào hướng về …”. Sau khi tụng những đoạn kệ này nhiều lần, hãy thực hành du già kết hợp cầu nguyện và cầu khẩn bằng cách tụng Chân ngôn Kim Cương Đạo Sư.
Chân ngôn bắt đầu bằng OM AH HUM, những chủng tự gốc của ba kim cương (thân, khẩu và ý).
VAJRA đại diện cho Pháp thân bởi [giống như kim cương], nó không thể bị ‘cắt’ hay phá hủy bởi những tạo tác ý nghĩ quan niệm.
GURU đại diện cho Báo thân, thứ ‘nặng’ trĩu những phẩm tính của bảy khía cạnh của sự hợp nhất[11].
PADMA đại diện cho Hóa thân, giác tính sáng ngời của Diệu Quan Sát Trí, thứ khởi lên như là Liên Hoa Bộ của khẩu giác ngộ.
Nhớ về những phẩm tính của Đạo Sư vĩ đại xứ Oddiyana, vị bất khả phân với ba thân này, hãy cầu nguyện với lòng sùng mộ không ngơi nghỉ, thứ là sự hiển bày cố hữu của bản tính tâm, thoát khỏi sự tạo tác ý nghĩ quan niệm.
Mọi thành tựu thù thắng và thông thường – SIDDHI – đạt được nhờ sức mạnh của lời cầu nguyện này và nhờ nghĩ rằng, “HUM! Cầu mong chúng được ban cho dòng tâm thức con, ngay lúc này!”.
Đôi lúc, hãy nhận ra môi trường quanh con là Cung điện Núi Huy Hoàng Màu Đồng Vinh Quang và mọi chúng sinh bên trong là Đạo Sư xứ Oddiyana và tập hội Không Hành nam và nữ. Hãy nhớ rằng mọi âm thanh là âm thanh tự nhiên của Chân ngôn và rằng, về bí mật, những chuyển động của tâm tự giải thoát, không để lại bất kỳ dấu vết nào, giống như con đường của một chú chim khi bay. Cuối cùng, hãy tụng lời cầu nguyện truyền thừa, trong lúc nhớ đến các phẩm tính tuyệt vời của chư đạo sư gốc và truyền thừa, dâng những lời nguyện và cảm thấy lòng mong mỏi và sùng mộ mãnh liệt. Sau đấy, hãy thấy rằng nhờ đó, đoàn tùy tùng tan vào Bổn Sư. Từ Bổn Sư của con, vị là hiện thân của mọi đối tượng quy y, con thọ nhận bốn quán đỉnh, đúng theo miêu tả trong bản văn gốc.
Sau khi thọ nhận các quán đỉnh nhờ kết hợp trì tụng với quán tưởng, thân, khẩu và ý của đạo sư hòa nhập bất khả phân với thân, khẩu và ý (ba cửa) của chính con và con trải qua trạng thái của giác tính và tính Không trần trụi. Hãy tụng Chân ngôn trong lúc duy trì trạng thái ‘hiện tại’ này.
Kế đó, khi con kết thúc thời khóa, hãy tụng: “Khi cuộc đời con kết thúc …” và quán tưởng sự hóa tán sau đây như là thực hành giai đoạn hoàn thiện. Như là kết quả của sự mong mỏi mãnh liệt của con hướng về đạo sư, lòng bi mẫn của Ngài dành cho con tăng thêm và Ngài mỉm cười, nhìn con âu yếm. Từ tim Ngài, một tia sáng đỏ, ấm áp phóng ra và chạm vào con, Kim Cương Du Già Nữ, ở tim con, khiến thân và tâm con lập tức ngập tràn cảm giác hỷ lạc.
Cuối cùng, con tan thành ánh sáng đỏ, thứ có bản tính của đại lạc và thu nhỏ thành một phạm vi ánh sáng nhỏ như hạt đậu – nội khí và tâm bất khả phân. Phạm vi này sau đấy bay lên về phía tim Guru Rinpoche như một tia lửa phóng đi và ở đó, nó hòa nhập với tâm trí tuệ của Ngài. Hãy an trú trong trạng thái đó.
Hãy khởi lên từ thiền định và giống như cá nhảy lên khỏi nước, hãy quán tưởng bản thân trong hình tướng căn bản của vị Tôn và môi trường là một cõi Tịnh độ, giống như trước. Hãy tụng “Bổn Sư vinh quang, Đấng Tôn Quý / Trụ trên [bông sen trên] đầu con[12] …”. Và hãy tụng những lời cầu nguyện hồi hướng và phát nguyện phổ thông bổ sung, cũng như Con Đường Bí Mật Đến Núi Huy Hoàng – Lời Nguyện Núi Huy Hoàng Màu Đồng.
Giữa các thời khóa, thực hành chung là du già nhận ra hình tướng, âm thanh và ý nghĩ là vị Tôn, Chân ngôn và trí tuệ – điều được gọi là ‘ba sự chuyển hóa’ – theo sự giải thích được ban phía trên (trong phần về quán tưởng để trì tụng Chân ngôn). Đặc biệt, con cần cúng dường phần đầu tiên của thức ăn và đồ uống, thấy rằng nó có bản chất là cam lồ và bất kỳ y phục mới nào con nhận được, thấy rằng chúng được làm từ vải thiêng, lên đạo sư trên đỉnh đầu con. Bất cứ thứ gì con nhận thức qua sáu căn[13], tốt hay xấu, tích cực hay tiêu cực, đừng dính mắc vào những thói quen thông thường của ý nghĩ, mà thay vào đó, hãy duy trì sự tỉnh thức sống động về vị Tôn, Chân ngôn và trí tuệ.
Ban đêm, khi đến lúc đi ngủ, hãy cầu nguyện vì sự an lành của cả bản thân và mọi chúng sinh khác, bằng Sampa Lhundrupma – ‘Lời Cầu Nguyện Đến Guru Rinpoche Tự Nhiên Viên Thành Mọi Mong Ước’ hay đặc biệt Lời Nguyện Rèn Luyện Trong Các Tịnh Độ Tam Thân. Lúc kết thúc, đạo sư giáng hạ qua huyệt Phạm Thiên của con và đến tim con, thứ có hình tướng của bông sen bốn cánh. Sau đó, Ngài phóng ra những tia sáng tràn ngập toàn bộ thân con. Khi con chìm vào giấc ngủ, tập trung sự chú ý vào những tia sáng rõ ràng này, hãy duy trì nhận thức rằng tâm con và tâm trí tuệ của đạo sư hợp nhất bất khả phân.
Hoặc là, con có thể tưởng tượng rằng những tia sáng chạm đến thế giới bên ngoài, được quán tưởng rõ ràng như là cung điện linh thiêng, thứ sau đấy tan thành ánh sáng như muối tan vào nước. Ánh sáng này tan vào những cư dân – mọi hữu tình chúng sinh – những vị được quán tưởng là chư Tôn. Họ tan vào con; con tan vào đạo sư; và Ngài được tịnh hóa vào tịnh quang vô quan niệm. Hãy nghỉ ngơi trong sự sáng tỏ nội tại, sự hợp nhất của giác tính trần trụi và tính Không, không bị bất kỳ ý niệm nào khác gián đoạn. Nó là một trạng thái định, chứ không phải một trạng thái uể oải trì độn.
Nếu con thức giấc, hãy cắt đứt sức đẩy của bất kỳ ý nghĩ hay giấc mộng hoang dại, kích động; và sau đó, nhờ liên tục duy trì trạng thái sống động của tịnh quang, con sẽ nhận ra tịnh quang của giấc ngủ và giấc mộng.
Tiếp đó, khi con tỉnh dậy vào buổi sáng, hãy thực hành du già thức giấc lúc bình minh và mọi điều đã được giải thích ở đây, trong bốn hay bất kể bao nhiêu thời khóa tùy thích.
Hơn thế nữa, khi thời điểm chết đến gần, thực hành quán tưởng hóa tán của giai đoạn hoàn thiện và sau đấy an trú với giác tính của con hòa nhập vào hư không được xem là vua của mọi sự chuyển di (Phowa) hay các thực hành chuyển di. Thậm chí nếu con không hiện thực hóa sự chuyển di, con vẫn có thể được giải thoát trong trạng thái trung ấm (Bardo) nhờ nhớ về du già của việc nhận ra hình tướng, âm thanh và hoạt động tinh thần như là vị Tôn, Chân ngôn và tâm trí tuệ.
Nói ngắn gọn, với thệ nguyện Samaya hoàn toàn thanh tịnh và lòng sùng mộ, nếu con đạt đến tận cùng con đường của các thực hành sơ khởi này, thậm chí chẳng nhìn vào thực hành chính yếu, khi chết, con sẽ đến thẳng Núi Camaradvipa Vinh Quang. Tại đấy, trong cõi Tịnh độ, con chắc chắn sẽ đạt được quả vị Phổ Hiền bằng cách hoàn thành con đường của bốn cấp độ Trì Minh, thậm chí còn nhanh chóng hơn tiến trình của mặt trời hay trăng.
Nếu con đạt được vài kinh nghiệm trong những phương pháp này của thực hành Ngondro, con sẽ dần dần có thể bước vào thực hành chính yếu. Con đường liên quan đến quán đỉnh bình là thực hành giai đoạn phát triển của chư Trì Minh an bình và phẫn nộ. Con đường liên quan đến quán đỉnh bí mật là thực hành kiểm soát nội khí và phát triển nội hỏa. Con đường liên quan đến quán đỉnh kiến thức-trí tuệ là thực hành ý nghĩa ẩn giấu và phương tiện thiện xảo. Con đường của quán đỉnh thứ tư bao gồm Trekchod và Togal. Nhờ đưa tất cả chúng vào một thực hành trọng yếu và dấn thân với sự tinh tấn, con cần đạt được quả vị Kim Cương Trì, trạng thái của sự hợp nhất nguyên sơ, trong chính đời này!
Sự kết tập những giai đoạn quán tưởng cần thiết để thường xuyên hành trì Các Thực Hành Sơ Khởi Longchen Nyingtik từ Đại Viên Mãn – Con Đường Thiện Lành Dẫn Đến Sự Toàn Tri, dưới dạng ngắn gọn, rõ ràng và cốt yếu, được biên soạn bởi Khyentse Wangpo, kẻ đầy tớ sùng kính, người làm hài lòng Đạo Sư Toàn Tri, đúng theo những giáo lý và chỉ dẫn khẩu truyền của chư đạo sư của tôi, hoàn toàn với mong ước làm lợi lạc những kẻ may mắn mới bắt đầu trên con đường này. Cầu mong công đức của điều này là nguyên nhân để mọi chúng sinh nhanh chóng đạt quả vị của Đức Pema Totreng bất tử!
Adam Pearcey chuyển dịch Tạng-Anh; Janine Schulz hiệu đính. [Bản dịch Anh ngữ] được xuất bản lần đầu trên Lotsawa House vào năm 2006, hiệu đính thêm vào năm 2015.
Nguồn Anh ngữ: https://www.lotsawahouse.org/tibetan-masters/jamyang-khyentse-wangpo/profound-concentration-nectar.
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.
[1] Về Đức Jamyang Khyentse Wangpo, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a33069/tieu-su-van-tat-duc-jamyang-khyentse-wangpo-1820-1892-.
[2] Về pho giáo lý Longchen Nyingtik, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a31844/2/gioi-thieu-ve-tam-yeu-cua-coi-gioi-bao-la.
[3] zag bcas kyi dge ba. Nói đơn giản, điều này liên quan đến các hành động tích cực được tiến hành mà không có ba nguyên tắc cao quý.
[4] Ba cách làm hài lòng đạo sư được nhắc đến trong Lời Vàng Của Thầy Tôi, chương 6 ‘Cách Theo Chân Một Thiện Tri Thức’: “Cách tốt nhất được biết đến là cúng dường sự hành trì và bao gồm việc đưa bất cứ điều gì Ngài giảng dạy vào thực hành với sự quyết tâm, bất chấp mọi khó khăn. Cách trung bình được biết đến là phục vụ với thân và khẩu, và bao gồm phục vụ Ngài và làm bất cứ điều gì Ngài cần con làm dù về thân, khẩu hay ý. Cách thấp nhất là nhờ các món cúng dường vật chất, điều nghĩa là làm hài lòng đạo sư bằng cách trao cho Ngài những món vật chất, thức ăn, tiền bạc và v.v.”.
[5] Điều này khác với sự giải thích được tìm thấy trong các luận giải của Patrul Rinpoche, điều miêu tả Đạo Sư Kim Cương Trì xứ Oddiyana là màu trắng ánh đỏ.
[6] Ba phạm vi hay ba chốn là (i) phía trên mặt đất, (ii) mặt đất và (iii) dưới mặt đất.
[7] Mặc dù Vajratopa đôi khi được xem là danh hiệu Phạn ngữ của vị phối ngẫu Đức Kim Cương Tát Đỏa, mà danh hiệu Tạng ngữ là Dorje Nyemma, dường như danh hiệu Phạn ngữ chuẩn xác, điều được chứng thực trong nhiều nguồn hiện có, là Vajragarva.
[8] Về giai đoạn phát triển (Kyerim), tham khảo https://thuvienhoasen.org/a34222/giai-doan-phat-trien.
[9] Bajung là một sự chuẩn bị mang tính nghi thức được làm từ năm chất khác nhau thu thập từ một con bò.
[10] ‘Giác tính đạt đến sự thuần thục trọn vẹn’ là linh kiến thứ ba trong bốn linh kiến của thực hành Togal.
[11] kha sbyor yan lag bdun nghĩa là ‘bảy khía cạnh của sự hợp nhất’. Bảy phẩm tính của một Báo thân Phật là: niềm vui thích trọn vẹn, hợp nhất, đại lạc, không còn bản tính-ngã, sự hiện diện của lòng bi, không gián đoạn và không ngừng nghỉ.
[12] Bản luận giải nói rằng “trên đầu con” trong khi bản văn thực hành nói “trong tim con” – chú thích của người dịch Việt ngữ, tham khảo chú thích trong một bản dịch Anh ngữ khác của luận giải này do [Lama] Tony Duff dịch.
[13] Tức là năm căn của mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, cộng thêm tâm là sáu.