Thư Viện Hoa Sen

Tản Mạn Về Sư Thông Lạc Và Sư Minh Tuệ | Vũ Thế Ngọc

13/07/20246:55 CH(Xem: 7495)
Tản Mạn Về Sư Thông Lạc Và Sư Minh Tuệ | Vũ Thế Ngọc

blank

TẢN MẠN VỀ
SƯ THÔNG LẠC VÀ SƯ MINH TUỆ

Vũ Thế Ngọc


 

thich thong lac va thich minh tueThời gian phong trào sinh viên xuống đường chống quân phiệt cuối thập niên 1960’s tôi thường để ý đền một thanh niên nhỏ bé nhưng mạnh mẽ thường đi gần. Hỏi ông bạn Thích Quảng Trí (chủ tịch ban đại diện sinh viên Phật khoa của Đại học Vạn Hạnh) tôi mới biết ông là Thông Lạc một sinh viên dự thính của Phật Khoa. Vài lần trò truyện tôi rất có cảm tình với một người rất nhiệt thành và yêu nước như ông. Thấy ông là người hiền lành và yêu thích Phật học nhưng không đọc đựơc sách Anh ngữ và Hán văn. Vì sách triết học Phật giáo lúc bấy giờ tương đối rất hạn chế nên tôi tặng cho ông bộ kinh Pāli Nikāya vừa được thầy viện trưởng Minh Châu dịch ra Việt văn. Tôi không ngờ bộ kinh sách này đã đổi đời sư Thông Lạc và gây ra một biến cố không nhỏ trong nội bộ Phật giáo một thời. Tuy thời gian này tôi đang học ở Hoa Kỳ nên không rõ nhiều chi tiết về sự kiện việc sư Thông Lạc đã tu học theo bộ kinh này mà tự coi là “đã giác ngộ” mà ngày nay học trò tu viện Chơn Như tôn xưng sư Thông Lạc là “Đức phật người Việt Nam” người đã “thành tựu Tam Minh làm chủ sanh già bịnh chết như Đức Phật”).

Theo tin tức cho biết, khoảng năm 1979 sư Thông Lạc theo học Thiền với Hòa Thượng Thanh Từ và rất tinh tấn nên thường được khen là người tu học nghiêm ngặt. Tuy nhiên khi sư Thông Lạc đệ trình sự khế ngộ xin ấn chứng thì Thiền sư Thanh Từ đã không chuẩn nhận. Việc  này đã khiến sư Thông Lạc đã lìa bỏ Thiền sư Thích sư Thanh Từ - Sự kiện này các vị đệ tử lớn của Thiền sư Thanh Từ như hòa thượng Thông Phương (hiện là viện chủ Tu Viện Thường Chiếu) đều biết rõ chi tiết - Tuy nhiên hiện nay tu viện Chơn Như lại phổ biến các sách Đường Về Xứ Phật mật mờ cho rằng Thiền sư Thích Thanh Từ “đã ấn chứng sự chứng ngộ của sư Thông Lạc” trong đó họ còn cho chiếu cả một đoạn clip có lời tuyên bố của hòa thượng Thích Trí Quảng (hiện là Pháp chủ Giáo Hội Phật Giáo) nói rõ rằng khi nghe tin sư Thông Lạc “đắc thiền” được Thiền Sư Thanh Từ “ấn chứng” nên sư đã tìm đến Tu Viện Chơn Nhưca tụng sư Thông Lạc “có khả năng ngồi thiền 49 ngày mà không cần ăn uống như Đức Phật tu hành trước khi thành đạo” (xin xem video do Tu Viện Chơn Như hiện còn phổ biến trên truyền thông

Sau thật khi rời Thiền sư Thanh Từ thì nhân có bộ sách Việt Văn dịch kinh Nikāya nên sư Thông Lạc đã tự đọc theo bộ kinh này ở chùa gia đình là chùa Am, Trảng Bàng Tây Ninh. Một thời gian tu hành ở đây sư Thông Lạc tự cho là đã đắc Tam Minhgiác ngộ quả vị A-La-Hán (arhat). Sư Thông Lạc sau đó biến đổi chùa Am trở thành Tu Viện Chơn Như và bắt đầu thu nhận tín đồ với hứa hẹn đào tạo các A-La Hán sau năm năm tu học theo giáo lý kinh điển Nikāya. Cũng trong thời gian này sư Thông Lạc viết khá nhiều sách bác toàn diện kinh điển Phật giáo Đại thừa mà ông coi là “phi Phật thuyết” và xem  tất cả các tông môn Phật giáo  Đại Thừa từ Tinh Độ Tông, Pháp Hoa Tông cho đến Thiền Tông chỉ là giáo lý tưởng tượng bị “Bà La Môn Hóa” và “Lão Trang hóa” của các tu sĩ Trung Hoa. Sư Thông Lạc cũng cao luận rằng toàn bộ lịch sử Phật học Đại Thừa chưa hề sản xuất ra một vị tu sĩ giải thoát nào vì họ đã hoàn toàn tu sai giáo lý Đức Phật. Đến đây sư Thông Lạc muốn xiểng dương giáo lý  chính thống theo các kinh điển Nikāya (theo bản dịch Vịệt Văn). Vì vậy Tu Viện Chơn Như cũng không gia nhập Giáo Hội Phật Giáo mà sư Thông Lạc cho là đang bị “tà giáo Bà La môn giả danh Phật Giáo” (mặc dù trong lễ Vesak đầu tiên tổ chức ở Việt Nam năm 2008 chúng ta thấy có hình ảnh cả hai thầy trò sư Thông Lạc và Thích Chân Quang tham dự).

Việc sư Thông lạc tự nhận chứng ngộ A-La-Hán và công khai công kích Đại Thừa đã là một sự kiện lớn trong hàng ngũ Phật giáo đương thời. Chúng ta cũng nên biết việc tranh luận giữa “Phật giáo Nguyên thủy” và “Phật giáo Đại thừa” đã có từ ngàn năm nên cũng không có gì xa lạ. Vấn đề không sai ở việc sư tuyền tụng kinh điển Nikāya mà ở đây là sư Thông Lạc phê phán Đại Thừa với tư cách là người duy nhất đã chứng quả A-La Hán để “chứng minh” rằng không ai có thể giác ngộ khi tu học theo giáo lý kinh điển Đại thừa vốn “hoàn toàn chỉ là kinh điển ngoại đạo”. Cá nhân tôi chỉ là người nghiên cứu kinh điển nên luôn luôn tránh thảo luận về việc “chứng ngộ” và càng không có khả năng chứng minh việc thành tựu đắc ngộ thánh quả A-La Hán hay Phật quả của sư Thông Lạc. Tuy nhiên đây là một đề tài tranh luận lớn trong nôi bộ Phật giáo đương thời. Đã có rất nhiều tranh luận hiện đang còn đăng trong nhiều diễn đàn Phật học. Trong số đó có một bài phản biện dài của cư sĩ Tâm Diệu trong ban biên tập Thư Viện Hoa Sen - đặc biệt còn có một loạt bài nghiên cứu rất giá trị của Tỳ Kheo Thích Nguyên Hải là “Đối Thoại Với Thầy Thông Lạc (đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen từ ngày 6-6-2011). Tỳ kheo Nguyên Hải đã dùng chính kinh điển Pāli Nikāya để phân tích “Thầy Thông Lạc Hiểu Lầm Nhưng Lời Dạy Của Đức Thế Tôn Trong Kinh Tạng Nikāya” (chương 1), “Thầy Thông Lạc Sai Lầm Về Lịch Sử Phật Giáo Trung Hoa” (chương 2). Đặc biệt trong loạt bài này đã khẳng định trong chương 5 “Thầy Thông Lạc Không Đắc Tam Minh” và chương 6 “Thầy Thông Lạc Không Đắc Thánh Quả A La Hán, cũng không Đắc Quả Vị Nào Trong Tứ Quả

            Việc tranh luận sự chứng ngộ quả A La Hán của sư Thông Lạc có lẽ đã trôi vào quên lãng sau khi sư Thống Lạc viên tịch vào năm 2013. Đặc biệtTu Viện Chơn Như sau này hoàn toàn thất bại trong hứa hẹn sẽ sản xuất ra các vị A-La Hán và việc kiện tụng gia đình trong gia đình về việc kế thừa đất đai tự viện. Tuy nhiên hiện nay người ta lại nhắc đến Tu Viện Chơn Như vì người cháu của sư Thông Lạc, dương kim trụ trì tu viện lại lên tiếng chê bai sư Minh Tuệ và kết tội sư Minh Tuệ là người “phản bội sư tôn”.

            Sự thậtMinh Tuệ (sinh năm 1985) vốn rất tín mộ Phật học và đã chịu đọc kinh Phật từ thủa là học sinh. Sau khi tự học kinh điển, sư Minh Tuệ mới tìm đến Tu Viện Chơn Như để mong tìm hiểu lối tu thần tốc trở thành A La Hán như sư Thông Lạc thông báo nổi tiếng đương thời. Nhưng lúc sư Minh Tuệ đến Tu Viện Chơn Như là năm 2016 mà sư Thông Lạc đã mất từ năm 2013, cho nên sư Minh Tuệ không thể là học trò của sư Thông Lạc. Trong thời gian chỉ có năm tháng tu học ở đây, sư Minh Tuệ chỉ chiêm nghiệm được hạnh độc cư (có nghĩa là không giao tiếp với mọi người) và phép ăn chay mỗi ngày một lần. Sau đó sư Minh Tuệ rời bỏ tu viện và nói rõ “con không tìm thầy an lạc và thấy pháp tu ở chùa không đúng với kinh điển của Đức Phật”. Sư  Minh Tuệ cũng chưa hề nói đến tên Tu Viện Chơn Nhưliên hệ giữa sư và tu viện chỉ có như thế. Tuy nhiênMinh Tuệ cũng không phải vô tình mà tuyên bố “con chỉ biêt tu theo Phật mà không thuộc giáo hội Nam truyền hay Bắc truyền nào cả”. Ở đây có nghĩa sự không bị ảnh hưởng lối tu cực kỳ chống đối kinh điển Đại Thừa của Tu Viện Chơn Như. Bản tin gần đây còn cho biết ông trụ trì Chơn Như hiện nay là cháu ruột sư Thông Lạc còn ba hoa đòi chặt đầu phá hủy các tôn tượng Phật A Di ĐàQuan Thế Âm mà ông cho là thần thánh của ngoại đạo Bà la Môn. Chúng ta nên biết trong nhiều thế kỷ đã có nhiều tranh luận thì cũng chỉ dừng lại ở tranh luận mà chưa hề có việc tông môn Phật giáo Nguyên Thủy nào dám phá hủy các tôn tượng của Đại Thừa như thế.

            Từ các nghiên cứu quan trọng khởi từ thế kỷ trước, học giả thế giới đều cho thấy từ văn bản kinh điển người ta đã thấy các kinh điển Đại Thừa đều có dấu vết kinh điển Nguyên Thủy – hoặc có thể nói rằng kinh điển Đại Thừa đều phát triển từ cũng một gốc rễ Nguyên Thủy. Bộ sách Kinh Phật: Nguồn Gốc và Phát Triển (có trên bản PDF trong Thư Viện Hoa Sen năm 2022) tôi cũng đã chứng minh mối liên hệ Nguyên Thủy + Đại Thừa này. Tôi rất tiếc sách Kinh Phật ra quá muộn, nếu sư Thông Lạc đọc kịp chắc chắn sư đã phải hạn chế các phê bình quá khích về kinh luận Đại Thừa.  Quyển sách Triết Học Phật Giáo: Thập Đại Tông Môn (mới do nhà xuất bản Hồng Đức in vào mùa xuân năm 2024) cũng là một cố gắng trình bầy một toàn thể các tông môn Phật giáo Đại Thừa trong ánh sáng này. Triết Học Phật Giáo: Thập Đại Tông Môn là một công trình hoàn toàn xóa đi quan điểm cho rằng các tông môn như Tịnh Độ Tông, hay Thiên Thai Tông hay Thiền Tông v.v. chỉ là “những tông phái tưởng tượng” của những người Phật giáo học có ảnh hưởng từ giáo lý Bà La Môn Ấn Độ hay Lão Trang Trung Hoa như sư Thông Lạc và Tu Viện Chơn Như cổ xúy.

 Hiện nay sư Thông Lạc đã viên tịch nhưng vẫn còn một số người vẫn còn có ý kiến tương tự về kinh điển Đại Thừa thì xin quí vị hãy đoc kỹ hai tác phẩm này. Tôi hy vọngchúng ta sẽ minh triết mà sư Minh Tuệ là thấy được toàn vẹn một giáo thuyết duy nhất của Đức Phật mà không còn bị chôn chặt trong các quan niệm tông môn.  

Vũ Thế Ngọc

San Jose, 7 tháng bẩy năm 2024

*

GIƠI THIỆU THẬP ĐẠI TÔNG MÔN

Sau đây là danh sách Thập Đại Tông Môn của Phật giáo Trung Hoa phát triển từ kinh điển Phật giáo Ấn Độ được dịch ra Hán văn sẽ được trình bầy trong quyển thứ hai của bộ sách Triêt Học Phật Giáo: Thập Đại Tông Môn. Trong mười tông môn này gồm hai tông Câu Xá Thành Thật được coi là Tiểu thừa và bát đại tông môn Đại thừa gồm Duy Thức Tông, Hoa Nghiêm Tông, Pháp Hoa Tông, Tam Luận Tông, Mật Tông, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Luật Tông. Thập Đại Tông Môn đều được truyền bá từ Trung hoa đến Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam và phát triển thành rất nhiều tông chi. Một số tông môn trong thập đại tông môn ngày nay không còn truyền thừa, tuy nhiên triết lý và tư tưởng các tông môn vẫn tiếp tục được tham họcnghiên cứu. Trong mười tông môn từng phát triển huy hoàng ở Á Đông sau đây chúng ta cần chú ý sáu chú thích quan trọng sau đây.

1-

Hoàn toàn khác với các tin tức của một vài người thiếu hiểu biết về tri thức Phật học cho rằng các tông môn Phật giáo Đại thừa đều là các sáng tác của người Trung Hoa. Trong phần chi tiết về các tông môn tôi sẽ minh bạch cho thấy mười đại tông môn Phật giáo đều có nguồn gốc từ Phật giáo Ấn Độ. Các đại tông môn đều trực tiếp truyền thừa từ kinh luận xuất phát từ Ấn Độ. Phân tích sâu sắc về tư tưởng giáo lý chúng ta lại còn thấy rõ ràng tất cả các đại tông môn đều phát triển từ cơ bản triết lý truyền thống. Ngày nay nghiên cứu về Phật giáo chúng ta phải thấy sự liên hệ giữa kinh điển Đại thừakinh điển Nguyên thủy. Cho nên trong sách này tôi cũng giới thiệu sơ lược một số nghiên cứu chứng minh sự liên hệ giữa “Phật giáo Đại thừa” và “Phật giáo Nguyên thủy” từ văn bản kinh luận.

2-

Danh sách Thập Đại Tông Môn là các tông môn được tạm ghi theo thời gian thành lập. Tuy nhiên lịch sử thành lập nhiều khi không rõ ràng, và chính sự suy cử các vị được coi là tổ sư các tông môn cũng thường chỉ là sự tôn kính của đời sau. Hơn nữa một tông môn lại có nhiều tên khác nhau (như Du Già Hành Tông, Pháp Tướng Tông, Duy Thức Tông đều chỉ là một tông). Tên tông môn được ghi chép theo thứ tự thời gian nhưng có trường hợp thời tông môn thời sau hoàn thiện hơn nên tên đời sau lại nổi tiếng hơn (như Thiên Thai Tông là tên mới của Pháp Hoa Tông) hoặc một số tông lại hòa nhập vào một tông phát triển sau (như Tỳ Đàm Tông trở thành Câu Xá Tông rồi lại kết hợp với Pháp Tướng Tông). Các đại tông môn đời sau lại phát triển thành nhiều phân chi (như tông Lâm Tế của Thiền Tông riêng ở Trung Hoa có đến 27 phân chi).

3-

Nhiều đại sư tuy được sắp vào một tông môn nào đó, nhưng họ luôn luôn là các đại sư bác học từng tu họcnghiên cứu nhiều kinh điển và sớ luận của rất nhiều tông môn. Các đại sư được nhắc trong luận đều là những bậc thầy thạc học. Ngay cả các vị được đời sau tôn xưng là tổ sư một tông môn nhưng thực tế họ đều tham học nhiều tông môn và từng tham học nhiều vị thầy khác nhau. Khi viết sớ luận để trình bầy giáo lý tông môn họ cũng đều viết nhiều luận sớ về các kinh luận khác. Điển hình như ngài Cát Tạng (吉藏 459-623) được coi là tổ của Tam Luận Tông, nhưng ngoài luận sớ của Tam Luận Tông như Tam Luận Sớ, Tam Luận Huyền Nghĩa, ngài Cát Tạng còn viết bẩy tác phẩm về kinh Pháp Hoa, hai tác phẩm quan trọng về Đại Bát Nhã Kinh, nhiều các sớ giải quan trọng về kinh Hoa Nghiêm của Hoa Nghiêm tông, Đại Vô Lượng Thọ Kinh của Tịnh Độ tông. Cũng có nhiều vị như ngài Tông Phong Khuê Mật (宗密 780-841) vừa được tôn là tổ thứ năm của Hoa Nghiêm Tông nhưng cũng đồng thời ngài còn là một thiền sư dòng Thiền Hà Trạch Thần Hội.  

4-

Như đã trình bày ở trên, tổ sư các tông môn đều là các đại sư bác học từng tham học nhiều kinh luận của rất nhiều tông môn, cho nên giáo lý tư tưởng của từng tông môn không bao giờ hoàn toàn độc lập mà đều có liên hệ đến tư tưởng của nhiều tông môn khác và còn liên hệ đến toàn thể tư tưởng kinh luận Phật giáo. Như ngài Huệ Văn (505-577) đợc coi là sơ tổ Pháp Hoa Tông nhưng ngài ngộ đạo từ khi học kinh Bát Nhã Ba La Mật và luận Đại Trí Độ của ngài Long Thọ. Khi đọc phần triết học của mỗi tông môn độc giả sẽ thấy mối liên hệ này. Cho nên khi nghiên cứu Phật học phải nhìn thấy mối tư tưởng nhất thống của Phật giáo mà những khác biệt tông môn chỉ là sự khác biệt trong các hoàn cảnh tạm thời (sự tướng).

5-

Luận này chủ ýgiới thiệu lịch sử hình thành các tông môn cùng sơ lược về triết lý các tông môn nên chỉ nghiên cứu về cơ bản tổ gốc nên tôi không thể đi vào chi tiết truyền thừa quá nhiều phân chi đời sau. Chúng ta nên biết vấn đề truyền truyền thừa đời sau vô cùng phức tạp. Thí dụ chi nhánh tông môn Thiền danh tiếng như Lâm Tế Tông của Thiền Trung Hoa thì ngày nay chúng ta thường thấy một vị tu sĩ có thể đề tiểu sử một cách tổng quát là “Lâm Tế đời thứ 40” nhưng thật ra vị này chỉ là truyền đời thứ 40 của một chi phái Lâm Tế địa phương nào đó trong số hơn 27 chi phái Lâm Tế khác biệt hiện còn hoạt động theo danh nghĩa truyền thừa mà thôi. Cho nên trong sách này tôi chỉ nói về nguồn gốc và triết lý tông môn gốc mà không thể kể rõ các chi nhánh phát triển vào đời sau. Chỉ trong vài trường hợp đặc biệt tôi mới giới thiệu đôi dòng về hiện trạng một vài tông mônNhật Bản hay Việt Nam.

6-

Có nhiều tông môn không có trong danh sách mười đại tông môn. Đó là những tông môn từ lâu không còn truyền thừa hoặc đã hòa nhập vào các tông môn khác (như Nhiếp Luận Tông, Niết Bàn Tông, Địa Luận Tông, Tì-đàm Tông). Chúng ta cần biết nhiều tư tưởng phát kiến của tất cả các tông môn dù ngày nay không còn truyền thừa nhưng học thuyết giáo lý của chúng vẫn là những thành quả đóng góp thành một tổng thể Phật giáomọi người học Phật đều có thể tu tập nếu có duyên tao ngộ.

            Sau đây là tóm lược danh sách Thập Đại Tông Môn. Mỗi tông môn sẽ được trình bầy thành một chương trong 10 chương của sách này:

1- Câu Xá Tông (Hữu Tông của Nhất Thiết Hữu Bộ)

Trước Câu Xá Tông 俱舍宗 chúng taTì Đàm Tông 毘曇宗 (Abhidharmamika) được coi như là Hữu Tông của Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivāda) thuộc Tiểu Thừa Ấn Độ (Hinayāna). Tì Đàm Tông thành lập trên căn bản Luận tạng khi Luận Tạng (Abhidharma) được thêm vào Đại Tạng vào kỳ kết tập dưới triều vua A Dục hai trăm năm sau khi Phật nhập niết bàn. Khi Câu Xá Tông phát triển thì Tì Đàm Tông được sát nhập vào Câu Xá Tông. Câu Xá Tông lập thuyết trên Câu Xá Luận (Abhidharmakośa) của Thế Thân viết khi ông còn là luận giả danh tiếng của Nhất Thiết Pháp Hữu (Sarvāstivāda). Tuy nhiên Câu Xá Luận cũng bao hàm nhiều tư tưởng Kinh BộĐại thừa, cho nên các tín đồ Đại thừa ngày nay vẫn tiếp tục tham học Câu Xá Luận. Câu Xá Tông bản chất là chủ trương thực hữu (realistic) của Hữu Bộ (Sarvāstivāda) là một pháp môn Phật giáo phát triển rất mạnh ở Ấn Độ. Trước đây người học Phật Á Đông thường chỉ biết Câu Xá Tông. Cho nên cơ hội này tôi cũng sẽ giới thiệu bài viết đầu tiên viết bẳng Việt ngữ về Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivāda)

2- Thành Thật Tông (Không Tông của Kinh Lượng Bộ)

Thành Thật Tông 成實宗 (Satyasiddhi) được hiểu lầm như là Hư Vô Luận (Nihilism). Đúng ra có thể thấy rằng Thành Thật Tông chính là Không Tông của Kinh Bộ (Sautrāntika) của Phật giáo Ấn Độ. Cho nên Thành Thật Tông còn được gọi là Nhất Thiết Không Tông (Sarvaśūnyavāda) đối lập với Câu Xá Tông của Hữu Bộ (Sarvāstivāda)). Tư tưởng Thành Thật Tông thành lập trên luận Satyasiddhi của Ha-lê-bạt-ma (Harivarman sống khoảng năm 250) được Cưu Ma La Thập (344-413) dịch ra Hán văn là Thành Thật Luận (成實論). Chúng ta nên biết sau Nhất Thiết Hữu Bộ thì mới có Kinh Lượng Bộ (viết tắt là Kinh Bộ 經部). Tuy nhiên Kinh Bộ là một tông môn rất quan trọng của Phật giáo Ấn Độ và có ảnh hưởng lớn đến sự thành hình của Duy Thức Tông sau này. Đa số người học Phật Á Đông cũng chỉ biết Kinh Bộ qua giáo lý của Thành Thật Tông. Vì vậy trong phần viết về Thành Thật Tông tôi cũng giới thiệu một bài viết đầu tiên bằng Việt ngữ về giáo lý Kinh Bộ (Sautrāntika).

3- Tam Luận Tông (Trung Quán Tông Trung Hoa)

            Tam Luận Tông 三論宗 là một tông thành lập ở Trung Hoa, nhưng giáo lý căn bản vẫn là giáo lý Trung Quán (Mādhyamika) của Long Thọ đã phát triển nhiều thế kỷ ở Ấn Độ. Tư tưởng Trung Quántư tưởng cơ bản chung của Phật giáo nhưng Ấn Độ không có “trung quán tông” như một tông môn độc lập. Tại Trung hoa Tam Luận Tông được coi là Trung Quán Tông Trung Hoa hoặc “chủ nghĩa phủ định” của Đại Thừa thành lập trên bản dịch của Cưu Ma La Thập (344-413) là ba luận Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận của Long ThọBách Luận của Thánh Thiên. Cho nên Tam Luận Tông được coi là do La Thập và các đệ tử như Tăng Triệu (僧肇 378-414) phổ biến. Nhưng thực tếTam Luận Tông đến thời Cát Tạng (吉藏 549-623) thì mới phát triển toàn vẹn để được gọi là tông môn. Hiện nay Tùng Thư Long ThọTính Không đã hoàn tất xuất bản mười chuyên luận về giáo lý chân truyền của Long Thọ. Người học Phật Việt Nam có thể học trực tiếp tư tưởng Long Thọ qua các chính luận của ngài mà không cần dựa theo sớ luận của các đại sư Trung Hoa đời sau.

4- Thiên Thai Tông (Pháp Hoa Tông)

            Trước khi có Pháp Hoa Tôn đã có Niết Bàn Tông (涅槃宗) là tông môn Đại Thừa thành lập dựa trên Đại Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, mahāparinirvāṇa-sūtra). Sau đó Niết Bàn Tông mới được sát nhập vào Pháp Hoa Tông 法華宗. Pháp Hoa Tông lập cước trên kinh Diệu Pháp Liên Hoa 妙法蓮華經 (Saddharma-pundarika) do Cưu Ma La Thập dịch và xưng tụng Long Thọtổ sư nhưng truyền thống Pháp Hoa Tông Trung Hoa lấy ngài Tuệ Văn (慧文 505-577) làm tổ khai sáng. Pháp Hoa Tông còn được gọi là Thiên Thai Tông 天台宗 vì lấy tên theo trú xứ của ngài Trí Khải (智顗 538-597) vị đại sư danh tiếng đã xây dựng cơ sở triết học Pháp Hoa Tông. Nhưng tính theo truyền thống ngài Trí Khải chỉ là tổ thứ ba của Pháp Hoa TôngTrí Khảiđệ tử của nhị tổ Tuệ Tư (慧思 514-577) và Tuệ Tư lại là đệ tử của sơ tổ Tuệ Văn.

5- Hoa Nghiêm Tông (Địa Luận Tông)

            Trước khi Hoa Nghiêm Tông chúng ta đã có Địa Luận Tông (Dabhumi) là tông môn được coi là Duy Tâm Luận của Đại thừa dựa trên Thập Địa Kinh (十地經 Daśabūmi-sūtra) vốn là một chương của kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka-sūtra). Địa Luận Tông lại dựa trên chú giải của Thế Thân về kinh Thập ĐịaThập Địa Kinh Luận (十地經論) theo bản Hán dịch của nhóm Bồ Đề Lưu Chi (Bodhiruci), Bảo Huệ (Ratnanmatri) và Phật Đà (Buddhānta) dịch khoảng năm 510 (Taisho V2, no 1522). Địa Luận Tông được coi là tiền thân của Hoa Nghiêm Tông (華嚴宗) là tông môn lấy toàn diện kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka sūtra) làm cơ sở triết lý, được ngài Pháp Tạng (法藏 643-712) phát triển thành một tông môn quan trọng của Phật giáo Đại thừa. Kinh Hoa Nghiêm được tôn xưng là giáo lý cao nhất của Phật giáo và cũng là một nguồn gốc của tư tưởng Mật giáo Kim Cương thừa. Kinh luận Hoa Nghiêm Tông thường chỉ được các bậc thượng trí tu tập hơn là dành cho đại chúng.

6- Tịnh Độ Tông (Sukhāvatī)

            Tịnh Độ Tông 浄土宗 là một phong trào tín ngưỡng (religious movement) có nguồn gốc từ bắc Ấn Độ lập cước trên kinh Vô Lượng Thọ KinhA Di Đà Kinh. Tịnh Độ Tông chỉ là tên phổ biến với nhiều tên khác như Tín Ngưỡng Di Đà, Pháp Môn Niệm Phật, Tịnh Độ Chân Tông. Khác với Hoa Nghiêm Tông chỉ được giới cao tăng tu tập, Tịnh Độ Tông là một phong trào tôn giáo quần chúng. Phong trào Tịnh Độ phát triển mạnh ở Trung Hoa tôn xưng ngài Huệ Viễn (慧遠 334-416) là sơ tổ vì ngài là người cổ võ cho tư tưởng tái sinh tịnh độ rất sớm với tôn chỉ đặt trên bản dịch Hán văn của kinh Sukhāvatī (Tịnh Độ) và hai bản dịch chú thích của Long ThọThế Thân về Thập Địa Kinh (Daśabhumi-sūtra). Chủ nghĩa sùng tín Phật A Di Đà ở Trung Hoa do tổ thứ ba là ngài Thiện Đạo (善道 613-681) phổ biến rất thành công. Cho nên Tịnh Độ Tông thường bị hiểu lầm là do các đại sư Trung Hoa sáng lập mà quên rằng Tịnh Độ là cả một phong trào tôn giáo (religious movement) có nguồn gốc Ấn Độ. Tịnh Độ Tông Trung Hoa phát triển rất nhanh và trở nên là tông môn lớn nhất ở Á Châu. Riêng Nhật Bản cho thấy hơn một nửa dân số xứ này theo Tịnh Độ Tông. Tại Trung Hoa, sau pháp nạn Hội Xương năm 845, Phật giáo hoà nhập với Khổng và Lão giáo thành một nền văn hoá mới, trong đó các tông phái Phật giáo chỉ còn Thiền và Tịnh độ là quan trọng. Từ thời nhà Minh khuynh hướng hợp nhất “Thiền Tinh song tu” phát triển rất mạnh đã phát triển giáo lý Tịnh Độ trong hầu hết các tông môn Phật giáo Trung Hoa.

7- Duy Thức Tông (Du Già Hành Tông)

            Du Già Hành Tông (Yogācāda) là tên cũ của Duy Thức Tông (Vijñāptimātratā) là một tông môn Phật giáo quan trọng nhất và duy nhất của Phật giáo Ấn Độ được coi là do huynh đệ hai ngài Vô Trước (Asanga) và Thế Thân (Vansubandhu 316-396) thành lập. Trước Duy Thức Tông (唯識宗) Trung Hoa cũng đã có Nhiếp Luận Tông (Mahayāna-sanggraha) là một loại Duy Tâm Luận sau được nhập vào Duy Thức Tông. Duy Thức Tông ở Trung Hoa lại cũng có tên khác là Pháp Tướng Tông 法相宗. Duy Thức Tông phát triển rất mạnh dựa theo bản dịch Thành Duy Thức Luận cùng nhiều luận sớ của ngài Huyền Trang (600-664) và đệ tửKhuy Cơ (632-682). Ngày nay Duy Thức Tông không còn truyền thừa như một tông môn có pháp hệ độc lập nhưng vẫn là một triết lý quan trọng bậc nhất của Phật giáo.

8- Thiền Tông (Dhyāna)

            Thiền (dhyāna) là phương pháp tu hành không riêng ở Phật giáo mà là một phương pháp tu hành cổ xưa nhất của Phật giáo Ấn Độ và cũng là phương pháp tu tập của tất cả các tôn giáoẤn Độ. Thông thường nhiều người Việt Nam chỉ biết đến Thiền Trung Hoa (gọi là Tổ Sư Thiền) mà không biết đến Thiền Nguyên Thủy Ấn Độ (tạm gọi là Như Lai Thiền). Cho nên chương này tôi cũng giới thiệu về Thiền tông của Phật giáo Ấn Độ. Riêng Thiền Tông Trung Hoa do thiền sư Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma 470-534) tổ thứ 28 của Thiền Tông Ấn Độ đến Trung Hoa thành lập và sau đó đến thế hệ thứ sáu có Thần Tú (605-706) và Huệ Năng (638-713) phát triển. Thiền tông Trung Hoa phát triển thành thành năm thiền phái chính là Lâm Tế, Tào Động, Qui Ngưỡng, Pháp Nhãn, Vân Môn và sau đó thành rất nhiều chi phái. Thiền Trung Hoa lại phổ biến song song với nghệ thuật và thi ca cho nên rất được người Á Đông ngưỡng mộ. Độc giả nên tránh các sách cảm tính văn chương về Thiền học có thể đọc các chuyên khảo như bộ sách Thiền Luận của giáo sư D.T. Suzuki đã được dịch ra Việt văn và các sách trong Tùng Thư Thiền Học, đặc biệt là luận Bồ Đề Đạt Ma Tuyệt Quán Luận, Nghiên Cứu Lục Tổ Đàn Kinh, Trí Tuệ Giải Thoát (dịch giảng kinh Kim Cương) Bát Nhã Tâm Kinh Tổ Long Thọ Giảng.

9- Chân Ngôn Tông (Mật Giáo)

             Chân Ngôn Tông 真言宗 (Mantrayāna) là tên gọi khác của Mật Giáo có nguyên ủy sâu xa từ trước thời đức Phật còn tại thế. Nhưng người Á Đông như Trung Hoa hay VIệt Nam thường chỉ biết Mật Tông được gọi là “thuần Mật” phát triển từ thời Khai Nguyên tam đại sĩ Mật Giáo (Thiện Vô Úy Subhakarasimha 637-735, Kim Cương Trí Vajrabodhi 663-723, Bất Không Amoghavajra 705-774) qua Trung Hoa truyền giáo tông môn gọi là Đường Tông hay Mật Tông. Khác với các sách phổ thông bằng Việt ngữ đang được tràn ngập trong thị trường chữ nghĩa đang có, sách Mật Tông Kim Cương Thừatác phẩm đầu tiên giới thiệu chính sử Mật giáo bằng Việt ngữ mà mọi người muốn tìm hiểu chi tiết cần phải tìm đọc (https://thuvienhoasen.org, tháng bẩy năm 2022).

10- Luật Tông (律宗).

Luật Tạng (vinaya-piṭaka) là một phần trong giáo lý nguyên thủy từ thời đức Phật còn tại thế. Đức Phật khi còn tại thế, tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh mà chế ra nhiều giới luật để răn dạy đệ tử. Vì thế  Giới Luật trong Phật giáo không chỉ là quy luật của đời sống chư tăng ni mà còn là những pháp môn cần thiết trong việc tu hành giải thoát. Sau khi Ngài nhập Niết bàn trong kỳ kết tập thứ nhất ngài Ưu Ba Li (Ubāli) được suy cử đứng lên để tụng đọc lại những giới luậtĐức Phật đã chế. Lần kết tập này chưa biên chép thành kinh điển, nên theo truyền thuyết ngài Ưu Ba Li phải đọc đi đọc lại đến 80 lần, nên có tên gọi là “Bát Thập Tụng Luật”. Bộ luận này hiện nay đã không còn nguyên bản nhưng các bộ luật sau này đều lấy đó làm căn cứ. Khoảng 100 năm sau Phật nhập diệt, năm vị đệ tử của ngài Ưu-ba-cúc-đa (Upagupta) đều soạn lại phần giới luật cho bộ phái của mình. Các bộ phái ấy là: 1- Pháp Tạng Bộ (Dharmagupta), 2. Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivāda), 3. Ẩm Quang Bộ (Kāśyapīya), 4- Hóa Địa Bộ (Mahīśāsaka), 5- Độc Tử Bộ (Vātsīputrīya). Luật Tạng của Pháp Tạng Bộ được các ngài Trúc Phật Niệm và Phật-đà-da xá dịch sang chữ Hán vào khoảng năm 410 đời Hậu Tần, với tên là Tứ Phần Luật (四分律).

Tại Ấn Độ chúng ta không có thông tin về tông môn gọi là Luật Tông nhưng tại Trung hoa chúng ta thấy có thành hình nhiều tông môn gọi là Luật Tông (律宗). Theo sử Trung Hoa, vào thế kỷ thứ ba (năm 222) có ngài Đàm-ma Ca-la (Dharmakāla) một vị tăng Ấn Độ sang kinh đô Lạc Dương Trung Hoa khi thấy chư tăng Trung Hoa chỉ cạo râu tóc mà không có y áo rõ ràng và không hành trì giới luật thống nhất nên ngài khởi sự việc dạy luật. Đến Năm thứ hai đời vua Thiếu Đế nhà Ngụy (năm 250) ngài khởi dịch quyển Tăng Kỳ Giới và cung thỉnh 10 vị Phạm Tăng lập pháp yết ma truyền thụ giới pháp. Đây là lần đầu tiên ở Trung Hoa mới có truyền thụ theo luật Tam Sư Thất Chứng. Trong số các bộ luật trong thời gian này, bộ được nói đến và áp dụng nhiều nhất là các bộ luật như Tứ Phần, Thập Tụng, Ma Ha Tăng Kỳ, Ngũ Phần. Cho đến đời nhà Đường (620 - 906), bộ Tứ Phần Luật (四分律) của Pháp Tạng Bộ (Dharmagupta) đã được hầu như tất cả chư tăng ở Trung Hoa chấp nhậnvâng theo. Người có công lớn nhất trong việc thúc đẩy sự hình thành Luật tông Trung Hoa là ngài Đạo Tuyên (道宣 596 - 667) ở núi Nam Sơn được tôn làm tổ của Nam Sơn Luật Tông. Ngài Đạo Tuyên chủ xướng nghiên cứu luận học dựa trên bản dịch Tứ Phần Luật (Dharmaguptiya). Luật Tông Trung Hoa ngày nay không phát triển thành một tông môn biệt lập nhưng giới luật do Nam Sơn Luật Tông phát triển luôn luôn là một thành phần quan trọng trong việc tu hành của người học Phật.

KẾT LUẬN

Quyển thứ hai của bộ sách Triết Học Phật Giáo Thập Đại Tông Môn có tên là Thập Đại Tông Môn (từ trang 160 đến trang 659) viết về lịch sử thành hình và triết lý cơ bản của các tông môn đã phát triển tại Á Đông từ ngàn năm trước đã độ giúp cho biết bao người học Phật. Chúng ta cần nhớ rằng Phật giáo bản nguyêngiáo pháp của Đức Phật không hề chia thành các tông môngiáo pháp của ngài cũng không hề có “hệ thống” hay “triết lý” hoặc “giáo lý” mà ngài chỉ dùng ngôn ngữ như một phương tiện âm hưởng để khai thị chúng sinh con đường giải thoát (mokṣa). Tuy nhiên phát triển qua thời gian nhiều năm tháng, kinh qua nhiều địa phương với các nền văn hóa ngôn ngữ kinh tế chính trị khác biệt, Phật giáo đã khế hợp mà phát triển thành các tầng lớp giáo lý và nhiều tông môn – Ngài Long Thọ được tôn xưng là sơ tổ của “tông môn Trunh Quán” nhưng tự thân ngài từ chối thành lập “tông môn” mà chỉ luôn luôn tự cho là ngài chỉ học theo giáo pháp của Đức Phật - Các tông môn thành lập có khác biệt nhưng đều là thành quả của các tổ sư đã tu tập theo giáo pháp Phật. Tóm lại các tông môn xuất hiện đều là kinh nghiệm ngộ đạo của liệt đại tổ sư. Hiểu được lịch sử thành hình các tông môn, người học Phật sẽ không còn thắc mắc về sự phân phái như ngày trước. Ngày nay đã qua thời tranh luận “Tiểu thừa” với “Đại thừa” hay giữa “Duy thức” và “Trung quán”, giữa “Tam Luận” và “Tịnh Độ” v.v. để mọi người thấy được bức tranh toàn vẹn của con đường nghiên cứu Phật học. Tất cả các tông môn Phật giáo dù có khác biệt nhưng đều là kinh nghiệm thực chứng của các tổ sư đã thành đạo trong sự nghiệp tu trì một giáo pháp duy nhất là lời dạy của Đức Phật. Trước sự nghiệp phát triển của nhiều tông môn, đầu tiên cho chúng ta thấy Phật Phápmột thế giới vô lượng vô biên không bờ mé. Sau đó, trước sự đa dạng của nhiều tông môn cũng là may mắn cho người học Phật hạnh ngộ được một pháp môn thích hợp với căn cơ nhân duyên của riêng mình.

(Triêt Học Phật Giáo: Thập Đại Tông Môn nxb Hồng Đức 2024, trang 147-159)

 

 

 Xem thêm:
Đối Thoại Với Thầy Thông Lạc Tác Giả: Tỳ Kheo Thích Nguyên Hải

Triết Học Phật Giáo: Thập Đại Tông Môn (Vũ THế Ngọc)
Kinh Phật - Nguồn Gốc và Phát Triển (Sách Ebook PDF)


 

 

Tạo bài viết
free website cloud based tv menu online azimenu
Thầy Chân Pháp Từ, người xuất thân từ Làng Mai của thiền sư Nhất Hạnh, đang trụ trì đạo tràng Tâm Kim Cương, Hawaii, trao đổi với Nguyễn Hòa, tại chùa Phổ Giác, Novato, California. Ngày 25/5/2025.
Kính bạch chư tôn đức Tăng Ni, Thưa quý Phật tử và nhà hảo tâm, Ngày 15/5/2025, con/Ngọc Lãm đã trực tiếp có mặt tại huyện Krông Nô tỉnh Đăk Nông để nghiệm thu 4 công trình giếng khoan/hệ thống lọc nước cho 6 trường học do các Phật tử, nhà hảo tâm xa gần tài trợ. Tính từ thời gian thi công hoàn thành cho đến nay, các công trình đều được đưa vào sử dụng khoảng 15 ngày – 1 tháng. Các giếng nước/hệ thống lọc đều đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng thực tế của các trường.