Việt đạo: Đạo lý uyên nguyên của dân tộc việt

29/10/20143:06 SA(Xem: 4437)
Việt đạo: Đạo lý uyên nguyên của dân tộc việt

VIỆT ĐẠO:

Đạo lý uyên nguyên của dân tộc Việt

Ngọc Kinh Lang Hoàn

 

            Theo các nguồn sử liệu đáng tin cậy, đạo Phật truyền vào Việt Nam vào khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch, cho đến Khương Tăng Hội là vị tăng sĩ có sử tích đầu tiên trong lịch sử (sanh khoảng năm 190 - mất năm 280 sau tây lịch) và để lại nhiều tài liệu viết dịch;[1]từ ấy đến nay đã gần hai ngàn năm. Nhưng dân tộc Việt nam lại thường tự hào là có một truyền thống hơn bốn ngàn năm văn hiến, kể từ đời Hồng Bàng với Lạc Long Quân và Âu Cơ là tổ tiên chung dựng nên nước Văn Lang tối sơ. Vậy thử hỏi, hai ngàn năm trước khi đạo Phật du nhập Việt nam, dân tộc chúng ta có hay theo đức tin tôn giáo nào?

            Ở đây, chúng tôi không lạm bàn về dân tộc- , chủng tộc- , văn minh- , sử địa- , hay tôn giáo- học, vì đã có rất nhiều học giả, nhất là các học giả Việt nam thuộc Ủy Ban Khoa Học Xã Hội, vào những thập niên 60 và 70 của thế kỷ chúng ta, đã luận thảo rất nghiêm túc và chi tiết về nhiều phương diện khác nhau rồi. Chúng tôi chỉ muốn ghi lại nơi đây một vấn đề mà gần hai mươi năm nay vẫn thường thắc mắc: chắc chắn phải có một đức tin tôn giáo hay một tín ngưỡng sơ khai nhưng mãnh liệt và thực tiển nào đó làm thành tố giúp cho dân tộc Việt nam mãi mãi tự hào với truyền thống anh dũng và uy hùng để giữ vững đất nước và bản tính đặc thù của dân tộc cho đến ngày nay. Đi tìm thành tố đó, có nghĩa là chúng ta phải tìm trở về nguồn với những thần thoạitruyền thuyết dân gian của thời tiền sử, thời kỳ đồ đá và đồng thau, vốn là những chất liệu căn bản tạo thành tôn giáo địa phương hay bổn địa (indigenous religion) của mỗi một dân tộc.

            Dựa vào những biên  khảo của các học giả đi trước, tất cả đều đồng ý rằng, đứng đầu các truyện thần thoạitruyền thuyết của dân Việt là:

1. Truyện Họ Hồng Bàng với Lạc Long Quân và Âu Cơ sanh ra một bọc nở trăm trứng, nói lên nguồn gốc nòi giống con Rồng cháu Tiên cùng ý nghĩa "đồng bào" của dân tộc ta;

2. Truyện Thần Tản Viên, hay Sơn Tinh, đào sông lấp núi trị thủy, nói lên công trình xây dựng đất nước, kình chống với những đe dọa lủ lụt tai họa thiên nhiên;

3. Truyện Thánh Gióng, hay Phù Đổng Thiên Vương, nói lên tinh thần giữ gìn bờ cõi đất nước, chống cự ngoại xâm bất kỳ từ phương nào tới;

            Cả ba nhân vật thần thoại này được kể lại như là những thánh tích truyền kỳ, những người khổng lồ biểu trưng cho sự vĩ đại của lịch sử mở nước, dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt nam. Căn cứ vào đó, ta nhận ra rằng truyền thuyếtthần thoại của người dân Việt mang đầy đủ tính chất hào hùng và kỳ vỹ trong quá trình hình thành và phát triển đất nước; từ đó cho đến khi bước vào thời kỳ chánh sử và đến ngày nay, tánh chất hào hùng và kỳ vỹ đó đã tạo thành một truyền thống đặc thù là: lý tưởng hóa các anh hùng dân tộc qua những chiến công hiển hách của họ bằng cách tôn xưng họ thành thần, những linh khí oai đứcquyền năng bảo vệ hạnh phúc cho con ngườithanh bình cho đất nước.          

            Ngoài bộ ba huyền sử khổng lồ này, ta lại còn có:

4. Truyện Chữ Đồng Tử  nhường khố cho cha, nói lên lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ ông bà, một đạo lý căn bản của nòi giống Việt.

            Truyền thuyếtthần thoại của ta do vậy "quan hệ đến cương thường phong hóa của dân tộc"[2] và mang theo vào bản thân của những truyện đó một ý niệm đạo đứctôn giáo, tạo thành một đặc thái của tôn giáo bổn địa của người dân Việt.

            Qua truyện đứng đầu về Họ Hồng Bàng, ta còn khám phá được rằng tổ tiên chúng ta chỉ để tâm đến việc xác định nguồn gốc của dân tộc và đất nước, chứ không đặt nặng vấn đề giải thích căn nguyên của vũ trụloài người.  Chính vì không cần thiết tìm hiểu căn nguyên vũ trụ như thế cho nên mặc dầu dân ta thờ Trời như là một hạo khí linh thiêng, nhưng mà ý niệm về Trời của dân tộc ta cũng rất là độc đáo, khác ngược hẳn với khái niệm về một đấng thần linh sáng tạo vũ trụ của các tôn giáo lớn Tây phương và Trung Đông đầy hận thù và tàn bạo (a vengeful, wrathful god). Dân tộc Việt không cần thiết một thần linh đáng ghê tởm như thế, chỉ một cơn nổi giận lại có thể dâng nước hủy diệt hết nhân loại và sự sống toàn thế giới! 

            Ngoài những chuyện xem Trời là đấng thần linh gần gủi và đầy bản tính con người như "con cóc là cậu ông Trời", dân ta lại còn có lúc "bắt thang lên hỏi ông Trời"... khi có việc bất bình phải đi hỏi cho ra lẽ, thì quả thật chưa có một dân tộc nào có được một đầu óc cách mạng và ngang cuồng đến thế. Vì vậy mà đôi khi ta "ngắn cổ kêu không thấu Trời" -kêu cứu mà vẫn không cầu khẩn hay quỳ lụy-, nhưng ta chỉ tuân phục Ngài khi Ngài tốt, mang lại mưa thuận gió hoà cho đất nước; ngược lại, nếu Ngài gây tai họa thì dân ta vẫn có thể "bẻ nạng chống Trời" lắm!       

            Cùng với thái độ thờ Trời độc đáo đó, dân tộc ta lại tỏ lòng tôn kính các bậc anh hùng dân tộc -thuộc truyền thuyết huyền thoại cũng như lịch sử- bằng cách thờ cúng họ và tôn xưng làm thần. Các vị thần đó, đối với đức tin thuần chắc của dân tộc ta, khi sống thì bảo vệ đất nước, thác rồi linh khí lại trở về phò hộ dân gian, cho nên rất xứng đáng được hưởng sự sùng bái của họ. Các vị anh hùngcông nghiệp lớn thì làm thượng đẳng thần như Trưng Nữ Vương, Đức Thánh Trần (Hưng Đạo Vương),..., các vị làm hiển danh làng xả của mình thì làm thành hoàng, thổ địa, v.v.  Đây cũng là một đặc thái đạo đức của dân tộc ta, biểu dương và ghi nhớ công đức dựng nước và giữ nước của các anh hùng dân tộc qua đức tin: "sống làm tiết nghĩa, chết nên phúc thần". Đại diện là thần Tản Viên, đệ nhất phúc thần, linh khí của núi sông hùng vĩ, gấm vóc sơn hà. Cũng như Trời là linh khí hạo nhiên, các vị thần này là những sức sống thiêng liêng, chở che và bảo dưỡng vạn vật theo luật tuần hoàn sanh, trưởng, hoại, diệt của vũ trụ.

            Cho nên các thần thánh nguồn gốc Việt nam được dân gian kính ngưỡng tôn thờ, mà không khiếp sợ rung rẫy như đứng trước thần linh của tôn giáo Tây phương Hy-La, nếu đã là tối cao sao lại còn có những cơn thịnh nộ bạo tàn và nguyền rủa tiêu diệt tất cả những gì có sự sống trên mặt đất này - trong đó có loài người - do chính thần đó tạo dựng nên, thì quả thật không khác mà còn đáng khủng khiếp gấp vạn triệu lần bạo chúa Tần Thủy Hoàng nữa.    

            Các vị thần của dân tộc ta gần gủi để chở che ban phước cho con người, cho nên con người sống gần với núi sông thì thờ thần sông, thần núi; sống ở đồng bằng thì thờ thần đất thần nông; ở phố thị thì thờ thành hoàng, thổ địa, ông táo, v.v. Mà đã có thờ cúng, nhất là trên bình diện quốc gia, như giổ Tổ Hùng Vương, Trưng Nữ Vương, Đức Thánh Trần, v.v., thì đó là tôn giáo, tôn giáo bổn địa của toàn dân tộc Việt.

Một điều đáng chú ý là tuy Việt nam bị ảnh hưởng văn minhtôn giáo của Trung hoa rất lâu dài mà dân tộc ta không hề tôn thờ trên bình diện quốc gia một vị thần nào gốc tích là người Trung hoa cả. Thí dụ điển hình là Quan Thánh Đế Quân, hay Quan Công, Quan Vân Trường, được người dân miền biển tôn xưng là Tổ của ngành đánh cá và hàng hải; hàng năm những vùng Phan Thiết, Khánh Hòa, Vũng Tàu, v.v. tổ chức lễ hội cúng tế Ngài linh đình kéo dài 3, 4 ngày trời, nhưng cũng chỉ thuộc cục bộ địa phương, chứ chưa bao giờ được tất cả người Việt thờ kính như Phạm Ngũ Lão, Hoàng Hoa Thám, Lê Lai... Hoa Đà là Tổ ngành thuốc của Trung hoa, thì Việt nam ta cũng có Tổ Tuệ Tạng, Hải Thượng Lãn Ông, v.v....Đặc thái của đức tin tôn giáo của dân tộc Việt chính là đây.

            Qua thời huyền thoại, khi đất nước ta bước vào kỷ nguyên sử kỳ với những sử tích đứng đầu kiêu dũng chống xâm lăng của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Mai Thúc Loan, v.v., thì cũng là lúc đạo Phật du nhập Việt nam từ ngã Ấn Độ, với tăng sĩ Khương Tăng Hội là nhân vật lịch sử có thật được biết đến trước tiên trong lịch sử khởi nguyên Phật giáo Việt nam.[3] Đạo Phật mang đến dân tộc ta một nền tảng đạo đức cho bản thân con người trong tương quan với xã hội qua năm giới luật căn bản để mang lại hạnh phúc an lạc cho cá nhântrật tự hoà bình cho xã hội. Từ nguyên thủy, đạo Phật cũng không đặt nguồn gốc vũ trụ thành vấn đề, cho nên không mâu thuẩn mà trái lại hài hòa với quan niệm về Trời của dân bổn địa. Đạo Phật cũng quan niệmthần thánh, là một (Thiên đạo) trong lục đạo của vòng luân hồi, cho nên chấp nhận và khuyến khích thái độ tôn thần của dân gian, không ngăn trở và nhất là không dùng bạo lực triệt hạ tín ngưỡng địa phương như các tôn giáo Tây phương từng làm.

            Người Phật tử Việt nam TRƯỚC TIÊN LÀ NGƯỜI DÂN VIỆT NAM, cho nên ngoài việc thờ PhậtĐấng Giác Ngộ để tu tập cho bản thân, họ còn thờ Trời, tế Tổ Hùng Vương, Đức Thánh Trần, cúng bái Bà Chúa Liễu, bà Chúa Xứ, ông Địa, ông Táo, v.v. Qua hai ngàn năm lịch sử, đạo Phậttín ngưỡng dân tộc Việt đã hiện hữu song song nhau để trở thành là một. Không có vấn đề người Phật tử là người có thâm tâm nào khác hơn bên ngoài là của người dân Việt. Qua bao lớp sóng hưng phế tang thương của lịch sử, người Phật tử - tăng đoàn cũng như tín đồ - đều đặt quốc gia lên trên, đất nước trước hết.

Cuộc sống của dân tộc, đứng trước đe dọa xâm lăng từ phương Bắc mấy ngàn năm qua và thực tế thuộc địa Tây phương vài trăm năm trở lại đây và còn có thể dài dẵng hàng ngàn năm sau, -chỉ vì địa chánh đặc biệt của đất nước trong tương quan Đông Nam Á và toàn cầu-, đã không cho con người Việt nam nhiều thì giờ để thắc mắc về vũ trụ luận hay nguyên nhân luận. Ước mơ nhỏ bé của người dân Việt, gồm có người Kinh và các sắc tộc thiểu số, là chỉ cầu mong được có một cuộc sống an lành, đầy đủ và hạnh phúc dưới sự che chở của thần linh gần gủi. Khi những ước mơ nhỏ bé đó bị hăm dọa bởi những mưu đồ ngoại lai, người dân nhỏ bé của giống nòi Lạc Việt không ngần ngại đứng lên tranh đấu để bảo vệ những vị thần linh đó và đối lại, tin tưởng những thần linh này phù trợ cho họ trong những cuộc đấu tranh ấy. Con người, đức tin - của tôn giáo bổn địa và Phật giáo - , đất đai, quê hương, tổ quốc, do đó chỉ là Một.

Con người Việt Nam hy sinh liều chết để giữ gìn đất nước cho quê hương và đức tin thuần thánh về Phật Trời bằng một thái độ phóng khoáng, tự do, quân bằng, chứ không mê muội theo lập luận phản quốc ngoại lai là thà mất nước chứ không chịu để mất vị thần dã man tàn bạo của họ, đã từng vì một cơn thịnh nộ mà làm lụt hồng thủy để tiêu diệt hết thế gian! Đây cũng là một nguyên nhân sâu sắc giải thích sự oai hùng của dân tộc Việt: ngay cả đến một nền văn minh lớn như Trung Hoa, một bạo lực súng đạn nguyên tử như Pháp Mỹ, cũng không thể đồng hoá hay nuốt trửng bản đồ và dân tộc Việt.   

            Một khi Phật giáo hội nhập với dân tộc tức là hội nhập với tôn giáo bổn địa, với truyền thống dân gian, biến thái những chuyện Phật phổ biến trong dân gian (truyện Quan Âm Thị Kính) và thu nhập chuyện dân gian vào hình thức tín ngưỡng trong đạo Phật (truyện Tấm Cám),  để rồi không còn biết rõ rằng chuyện Phật là gốc hay chuyện dân gian là gốc, thì khi đó không còn phân biệt gì nữa giữa đạo Phậttín ngưỡng dân tộc. Nhưng đây không thể kể là bước thoái hóa hay cuộc đão lộn giá trị giữa căn bản triết lý của đạo Phật với những sáng tạo địa phương; mà lại được xem như là một tương nhập hài hòa giữa tôn giáo bổn địa và hình thức tôn giáo của đạo Phật mà thôi.[4] Và từ đó, ta đi đến hệ luận rằng, Phật giáo Việt nam không phải là Phật giáo Ấn độ, hay Phật giáo Miến điện, Tích Lan, hoặc Phật giáo Tây Tạng, v.v., lại càng không phải là Phật giáo Trung hoa.

            Tuy về mặt hình thức nghi lễ tế tụng, chùa chiền Việt nam phần lớn mang sắc thái sinh hoạt của chùa chiền Trung hoa, nhất là ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề kể từ thời Vân Thê Châu Hoằng (thế kỷ 17) đến nay, nhưng nếu điểm qua những cuộc lễ tế thần linh đình tại các đình chùa đền miếu như tại Chùa Keo chẳng hạn, có lễ Phật lại có rước kiệu, cung phụng Thánh Tổ, hội Gióng, v.v., hay những sắp đặt nơi đất Phật như là Chùa Hương với hai hiện tượng âm dương đối nghịch như núi Cô núi Cậu, động Ông hang Bà, lên Trời xuống Âm, v.v. thì chúng ta thấy ngay một phối họp hài hòa tương nhập tương kính giữa Phật giáo với tín ngưỡng dân gian.

Bốn ngôi chùa mang tên Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp LôiPháp Điện – được thành lập vào khoảng thế kỷ II lúc Phật giáo tiên khởi tại Việt nam – là một điển hình cụ thể nhất : Phật giáo vừa du nhập là hòa hài ngay với nếp sống nông nghiệp và tín ngưỡng thờ các thần (Mây, Mưa, Sấm, Chớp) che mưa đở nắng cho mùa màng được nẩy lúa đơm bông. Một thí dụ nữa là trong đời Lý, tuy đạo Phật cực thịnh hầu như là quốc giáo mà Lý Thánh Tông cũng sắc chỉ rước Hậu Thổ phu nhân "tinh đất nước Nam" ở cửa Hoàn về lập miếu thờ tại An Lãng; hoặc dựng đàn Phong Vân (đời Nguyễn là đàn Nam Giao), tế sơn hà xã tắc; mỗi Rằm tháng Giêng lập hội Thề ở miếu Đông Cô, các quan đọc lời thề kính cáo Trời Đất, thần núi lớn (Sơn tinh), sông to (Thủy tinh), lập nguyện "vi thần tận trungvi quan thanhbạch"; cho thấy ngay thời đạo Phật thịnh hành nhất, những yếu tố Lão và Khổng cùng tín ngưỡng dân gian cũng đã hòa điệu với nhau rồi.

            Qua dòng lịch sử sơ lược kể trên, ta đã ý niệm được một đạo lý sinh động đang thấm nhuần khắp tổ quốc giang sơn: tôn giáo nào đến với dân tộc mà hòa nhập và tôn trọng tín ngưỡng bổn địa thì đều được hoan nghênhphổ biến trở thành làm một với đức tin dân gian; tôn giáo nào dùng bạo lực để tàn diệt tín ngưỡng địa phương để độc bá và thống trị qua danh nghĩa tôn giáo độc thần, thì chỉ như là một cưỡng chiếm nhất thời của kẻ có nhiều vũ khí quyền lực hơn mà thôi. Đạo lý sinh động đó chính là động lực kết họp và thúc đẩy con người Việt nam trở thành một dân tộc hào hùng với bao chiến công hiển hách, với bao thành tích giữ nước và dựng nước huy hoàng.

            Đạo lý đó là VIỆT ĐẠOnguồn Đạo của dân tộc Việt, không phải là Lão giáo của Trung hoa, vì từ thái độ thờ Trời cho đến tôn xưng các thần huyền thoại hay thần lịch sử, tất cả đều là nhân vật Việt nam. Ngay cả  Đức Quán Âm Bồ tát được sùng bái khắp từ Tây Tạng qua đến Nhật bản, từ Trung quốc xuống đến Nam dương, khi đến Việt nam cũng trở thànhQuán Âm Thị Kính với cuộc sống bình thường tiêu biểu của một người dân dã, của một người đàn bà chịu nhiều bất công trong xã hội, chứ không còn phải là Quán Âm Diệu Thiện công chúa cao sang xa cách. Căn bản Việt Đạo phải nói chính là ở nơi phổ biếnbình dân như thế.

            Rất tiếc là về sau này, từ khi tín ngưỡng về bà chúa Liễu Hạnh thịnh hành đến nay, đạo lý đó bị pha trộn với màu sắc suy hoại của tôn giáo, của Lão giáo vốn đã là một hình thức phóng khí của Đạo gia bên Trung hoa, chuyên về bùa phép chú thuật để thỏa mãn nhu cầu ích kỷ của cá nhân, khiến sanh ra những tệ đoan như đồng bóng, lên cốt, bà nhập, v.v. Đến nổi khi Tây phương xâm chiếm nước ta, họ viết nhiều tài liệu về tín ngưỡng Việt nam, nhất là về Phật giáo, theo lập trường tôn giáo thống trị của họ, nên cố ý dụng tâm miệt thịxuyên tạc những hình thức phóng khí này, cho đó là tà giáo (paganism). Điều đáng buồn là về phía Việt nam cũng lại không có một phản ứng hay đối kháng nào trước các sách vở xuyên tạc đó, trong đó có cả những quyển do các linh mục người Việt nam viết. Có lẽ vì thực tế quả đúng như vậy.    

            Kể từ đời Trần, chúng ta biết đã có những dâm từ [5] rãi rác đó đây trong dân gian và bị Điều Ngự Giác Hoàng phế bỏ khi ngài vân du truyền bá đạo Phật. Nhưng mãi đến triều Lê, hình thức phóng khí của Việt Đạo mới thịnh hành dưới dạng thờ bà Chúa Liễu Hạnh, và sự thành lập phái Nội Đạo đã đưa đến những nghi thức tế lễ dựa trên mê tín dị đoan của đồng cốt quàng xiêng, và vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm cho đến ngày nay, không chỉ tại quốc nội mà ngay cả ở hải ngoại nữa. Ảnh hưởng đến nổi ngay cả đến những sách nghiên cứu về văn họctín ngưỡng dân gian của UBKHXH hiện tại cũng không dám phê phán, hay cải cách; mà chỉ đại khái ghi rằng: "Cần nên trả lại Đạo Thánh ý nghĩa đẹp đẻ của dân gian, của tâm thức dân tộc, khắc phục và bài trừ những trò mê tín dị đoan làm ô danh các Thánh".[6] Đồng thời, tác giả này cũng giống như các vị khác lại cũng phạm phải một lỗi lầm căn bản là cứ liệt kê Thần Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tửthánh mẫu Liễu Hạnh là Tứ Bất Tử, thì quả thật là không hợp đạo lý chút nào, dựa theo đạo lý uyên nguyên đã ghi ở trước. Bởi vì, địa vị của Lạc Long Quân là Quốc Tổ Hùng Vương sẽ không còn ý nghĩa trong Việt Đạo, nếu cứ theo liệt kê Tứ Bất Tử này. Và có lẽ cũng chính vì thế mà chúng ta cứ lẫn quẫn trong vòng phóng khí của tín ngưỡng dân gian, không có được một căn bản vững chắc để đối kháng với những miệt thị xuyên tạc của những người cố tình triệt hạ Đạo lý uyên nguyên ngàn đời của dân tộc Việt.

            Không hợp lý bởi vì thánh mẫu Liễu Hạnh cũng chỉ mới xuất hiện gần bốn trăm năm trở lại đây mà  thôi,[7] và chỉ được một phần người dân miền Bắc tôn thờ, tương đương với bà chúa Xứ ở miền Nam hay Thiên Ý A Na miền Trung, cho nên không đủ thời gian tính và dân tộc tính để có thể được liệt kê ngang hàng với ba vị Thần Tản Viên, Thánh Gióng và Chử Đồng Tử được. Do đó, chúng ta cần đặt lại vấn đề đi tìm một nguồn cội cho Đạo lý uyên nguyên của dân tộc Việt. Nói cách khác, chúng ta cần phân giải xem ta có một triết lý cơ bản nào làm căn cứ cho nền tôn giáo bổn địa cho dân tộc chúng ta không.

            Và trong cố gắng " trả lại cho Đạo lý uyên nguyên của Việt giáo ý nghĩa đẹp đẻ của dân gian, của tâm thức dân tộc ", chúng tôi xin được đề nghị một phân biệt rõ ràng giữa Tứ Bất TửTứ Phủ như sau đây:

A. Tứ Bất Tử  gồm có:

            1. Quốc Tổ Hùng Vương, là nguồn gốc tổ tiên của dân tộc Việt; Ngài lại còn dạy dân trồng lúa, là mạng mạch của kinh tế quốc gia ;

            2. Thần Tản Viên, tức Đức Thánh Tản hay Sơn Tinh, biểu trưng tinh thần dựng nước, dùng ý chí con người mở mang đất nước, chinh phục những sức mạnh tàn phá của thiên nhiên (như lũ lụt, tượng trưng bằng sự thất bại của Thủy tinh). Đức Thánh Tản còn là Thánh Sư hay Bách Nghệ Tổ Sư, đã dạy dân làm ra lửa, khai phá đất đai để cày thành vườn ruộng, trồng lúa hoa màu, săn bắn, bắt cá, dệt vải, v.v. . Đứng trong hàng ngũ của Thần Tản Viên, ta có Nguyễn Công Trứ, v.v.

            3. Phù Đổng Thiên Vương, hay đức Thánh Gióng, biểu trưng tinh thần giữ nước, dùng sức mạnh đoàn kết chống ngoại xâm bảo vệ lãnh thổ, giữ vững quyền làm chủ bất khả xâm phạm của dân tộc con Rồng cháu Tiên . Những anh hùng đứng trong hàng ngũ của Thánh Gióng kể không làm sao hết, từ vinh danh như Trưng Vương, Trần Hưng Đạo vương, Trương Công Định, Cô Giang,... cho đến vạn triệu người dân quê mùa vô danh tiểu tốt đã đứng lên với dáo mác gậy gộc thô sơ đương đầu cùng súng đạn nguyên tử của quân xâm lược.

            4. Chữ Đồng Tử hay Chữ Đạo Tổ, biểu trưng Đạo Hiếu và phát triển đất nước để xây dựng một xã hội ổn định, biết cách đối nhân, xử thế, thờ cúng tổ tiên ông bà, cứu độ chúng sanh, phát triển thương nghiệp.

 

B. Tứ Phủ:   

Trong khi đó, ngược lại, Tứ Phủ chẳng có gì liên hệ đến Tứ Bất Tử cả. Tứ Phủ gồm có bốn, mỗi phủ do một Vương Mẫu trông coi, gọi là Thiên phủ, Nhạc phủ, Thủy phủĐịa phủ, tức bốn lãnh vực của thế giới : bầu Trời trên không, Rừng núi, Sông biển và Đất đai; ở đây, ta cần nhớ là Địa phủ hay Đất đai là những hiện hữu trên mặt đất, không phải là Âm phủ mà thường cũng gọi là địa phủ hay địa ngục, là nơi tù đày các vong hồn người chết khi sống làm ác trên thế gian). Trong khái niệm Tứ Phủ này, ta có:

          1. Bà chúa Liễu Hạnh là linh khí của Địa vương mẫu, cai quản Đất đai của Địa phủ. Ngài giáng phàm hiển thánh cùng với tả hữu thiên sứ Thụy Hoa và Quế Hoa; cả ba cùng được tôn xưng là Tam Toà Thánh Mẫu.

         2. Truyền thống tín ngưỡng Tứ Phủ này không đề cập nhiều đến ba phủ kia, nhất là liên hệ giữa Địa phủ và Thiên phủ. Vấn đề đặt ra là, cả hai phủ đều đồng đẳng nhau, hay khác. Xuyên qua tiểu sử của bà chúa Liễu Hạnh, được cho là con của Trời, vì động lòng trần nên xin cha là Ngọc Hoàng Thượng Đế xuống thế đầu thai trong gia đình bình dân, thì có lẽ Thượng Đế trông coi, ngự trị và vượt lên trên hết bốn phủ; có nghĩa là Địa phủ phải chịu sự cai quản của Thiên phủ, hay của Ông Trời, Thiên Đế.

         3. Về mặt tín ngưỡng, có thể nói phái Nội Đạo thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh (tam tòa hay riêng bà Chúa Liễu Hạnh), cũng giống như người dân miền Nam thờ Bà Chúa Xứ núi Sam Châu Đốc, hay Phật tử thờ Đức Quán Âm Bồ tát, (còn gọi là Phật Bà Quan Âm); tuy rằng truyền thống tôn thờ Quán Âm Bồ tát phổ quát và lâu đời hơn, ảnh hưởng từ Tây tạng qua Trung hoa, Triều tiên cho đến Nhật bản, từ Mông cổ, Mãn châu chí đến Cam bốt, Tích lan và Nam dương từ những thế kỷ 7, 8 và thịnh hành đến ngày nay. Trong khi đó thì tục thờ Bà Chúa Liễu chỉ thuộc cục bộ địa phương của miền Bắc Việt nam và chỉ bắt đầu từ thế kỷ 16-17 trở lại đây mà thôi. Tuy nhiên, cường độ của tín ngưỡng về các Ngài đều giống nhau, đều thuộc lãnh vực tâm linh, là đức tin cho quyền được sống và được hưởng hạnh phúc của con người. Đức tin này không ảnh hưởng đến triết lý uyên nguyên của đạo Phật thuộc trí tuệ, cũng như đến đạo lý về Tứ Bất Tử, tuy rằng có sự nhầm lẫn tai hại là đặt bà Chúa Liễu Hạnh vào hàng Tứ Bất Tử này.

*

Làm công trình đi tìm lại nguồn gốc uyên nguyên về đức tin của dân tộc Việt này, chúng tôi chỉ mang một ước mơ nhỏ bé là khơi sáng lại nền Đạo Việt là tôn giáo bổn địa của dân tộc Việt nam từ hơn bốn ngàn năm qua để hài hoà thể nhập cùng Đạo Phậttôn giáo phổ cập thế giới siêu việt thời không, vì cả hai cùng một cơ bản nhân sinh quan. Từ đó minh chứng điều mà lịch sử hai ngàn năm qua đã quyết xác: đạo Phật và Việt Đạo là một; dân tộc với Việt Đạo không hai thì đạo Phật và dân tộc chẳng khác. Đạo Phật đã sống trong lòng đân tộc vì đã tiếp nhậnchuyển hóa Việt Đạo thành một đức tin mang đặc thái của Đạo Phật Việt Nam, không bí ẩn khắc khổ như Đạo Phật Ấn độ cũng không triết lý xa vời như Đạo Phật Trung hoa. Việt Đạo cũng phải nương theo các triết lý căn bản về nhân sinh quan của Phật Đạo để vươn lên thành một đức tin đời đời kiếp kiếp của dân tộc Việt: "Trong ý nghĩ dân gian, còn tổ tiên là còn đất nước, mà đất nước chúng ta thì không bao giờ có thể tiêu diệt cho nên Việt Đạo vẫn còn sống mãi trong lòng dân gian". Từ đó, ta có thể kết luận rằng:

            Yếu tố tạo nên sức mạnh dân tộc là niềm tự hào về quá khứ uy dũng, về lịch sử vẽ vang của tổ tiên, niềm tin tưởng vào vận mệnh của non sông đất nước. Hướng đi của dân tộc là thế: "Không có một bạo lực nào, dù là chánh trị hay tôn giáo ngoại lai phản dân tộc, có thể áp ức người dân Việt bỏ đi truyền thống bảo vệ đất nước, thờ cúng ông bà tổ tiên vaø tôn làm phúc thần các anh hùng huyền thoại hay lịch sử của dân tộc ta". Căn bản Việt Đạo là đây, căn bản Đạo Phật Việt Nam cũng là đây.

Việt Đạo Am

NGỌC KINH LANG HOÀN  

 cẩn viết.

 15/5/1990

 Sách đọc:

 Bình Nguyên Lộc. Nguồn gốc Mã Lai Á của dân tộc Việt. Saigon, Khai Trí,                        1969.

 Coulet, George. Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, 1927.

 Đinh Gia Khánh & Chu Xuân Diên. Văn học dân gian Việt Nam. NXB   Đại                        học, 1972.

 Dumoutier, G. Les cultes annamites. Hanoi, 1907.

 Eliade, Mircea. Aspect du Mythe. Paris, 1963.

 Lê Qúi Đôn. Kiến văn tiểu lục.  Sàigòn, 1963.

 Lý Tế Xuyên. Việt điện U linh tập. Sàigòn, 1961.

 Maspéro, Henri. Le Taoisme. Paris, 1967.

 Nguyễn Đổng Chi. Kho tàng cổ tích Việt nam. UBKHXH, 1967.

 Tạ Chí Đại Trường. Thần, Người và Đất Việt.  Los Angeles, Calí., Nxb Văn Nghệ tái bản, 1989.

 Toan Ánh. Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam. Sàigòn, Nam Chi tùng thư, 1967.  2 quyển.

 Trần Thế Pháp. Lĩnh Nam trích quái. Sàigòn, 1960.

 Viện Văn Hoá Dân Gian. Lễ Hội Cổ Truyền; chủ biên: Lê Trung Vũ. Hà Nội, Nxb Khoa  học Xã hội, 1992.

 Vũ Ngọc Khánh & Ngô Đức Thịnh. Tứ Bất Tử. NXB Văn Hóa Dân Tộc, 1990.

 Cùng các sách ngoại ngữ Anh, Pháp khác viết về tôn giáo đại cương, cũngnhư tôn giáo Việt Nam. Đặc biệt là bộ 3 tập của:

 Joseph Campbell. The Mask of God: 1. Primitive Mythology;  2. Oriental Mythology; 3. Occidental Mythology.

 


[1] Xem Budden Gyoshi, Buddhism in Vietnam, Period of Development, 2nd-6th cemturies A.D. Ph.D. thesis (unpublished), Columbia Pacific University, 1991.

[2] theo Vũ Quỳnh, trong Lĩnh Nam Trích Quái.

[3] Xem Tuệ Hạnh, Khương Tăng Hội, Sáng Tổ Phật giáo Việt nam, tập san Nguồn Sống, San Jose, 1984; Thích Nhất HạnhKhương Tăng Hội, 1998.

[4] Hình thức tôn giáo, vì ngoài đó, đạo Phật còn có một nền triết lý uyên thâm thuộc pháp học bao quát và siêu việt mọi vấn đề triết học khi sánh với của Tây phương, cũng như là còn có thêm nữa một công phu niệm Phậtthiền định tu tập thuộc pháp hành mà không có tôn giáo lớn hay triết học Tây phương nào sánh bằng được.

[5] Dâm từ, theo định nghĩa của các sách nghiên cứu về Lâo giáo Trung hoa, là những miếu thờ dùng  trâu bò gà vịt để cúng tế thần địa phương.

[6] Vũ Ngọc Khánh, sđd. tr. 25

[7] Xem bài viết về Đoàn thị Điễm và Chúa Liễu Hạnh ở sau.

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
18/10/2010(Xem: 45184)
18/01/2012(Xem: 28625)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.