SỨC HẤP DẪN CỦA ĐẠO PHẬTKHẤT SĨVIỆT NAM PGS.TS. Nguyễn Công Lý
Đạo PhậtKhất sĩViệt Nam, về sau là Giáo hộiTăng giàKhất sĩViệt Nam, và ngày nay là Hệ phái Khất sĩ (1981) là 1 trong 9 tổ chức thành viên của Giáo hội Phật giáo đã có nhiều đóng góp đáng kể vào sự thống nhất và phát triển bền vững của Giáo hội Phật giáo Việt Nam hôm nay. Đạo PhậtKhất sĩ là một sáng tạo độc đáo của Việt Nam, xuất phát từ Việt Nam, chỉ riêng ở Việt Nam mới có. Đây là một hệ phái Phật giáobiệt truyền do Tổ sưMinh Đăng Quang khai sáng, mở đạo vào giữa năm 1944 ở Nam bộ với tôn chỉ “Y bát chơn truyền; Nối truyền Thích Ca chánh pháp”.
Nếu so với nhiều tông phái, hệ phái khác của Phật giáo thì Hệ phái Khất sĩ tính đến nay chỉ mới tồn tại vừa đúng 70 năm (1944-2014). Quảng thời gian này là quá ngắn so với trường kỳlịch sửPhật giáo nói chung và lịch sửPhật giáo Việt Nam nói riêng. Nhưng Đạo PhậtKhất sĩ lại có một sức sống, sức lan toả ảnh hưởng và sự phát triển có thể nói là nhanh chóng. Lúc mới thành lập, hệ phái này chỉ truyền thừa ở miền Tây Nam bộ. Bấy giờ, giáo đoàn du tăng chỉ có khoảng vài mươi người, thì không lâu sau, Đạo PhậtKhất sĩ đã lớn mạnh. Nhiều đoàn du tăng được thành lập, đã mang y bátchân truyền và đem giáo lýtừ bi của đức Từ Phụ đi phổ độ, hoằng hoá ở Sài Gòn – Gia Định và khắp các tỉnh thuộc Tây và Đông Nam bộ. Từ sau năm 1954 đến trước năm 1975, Đạo PhậtKhất sĩ đã được truyền bárộng rãi đến các tỉnh ở khu vực Trung bộ (từ Huế, Quảng Trị trở vào). Rồi đến hôm nay, hệ phái Phật giáo này đã hiện diện trên khắp toàn cõi Việt Nam và đang truyền bá ở vài châu lục tại một số nước trên thế giới như Úc, Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Canada...
Điều gì đã tạo nên sức hấp dẫn để Hệ phái Phật giáo này phát triển nhanh chóng đến thế? Theo chủ quan của tôi, cái làm nên sức hấp dẫn cùng niềm kính tin tâm linh đối với thế nhân, giúp cho Đạo PhậtKhất sĩ phát triển lớn mạnh là nhờ đức Tổ sư khai sáng. Và các hàng đệ tửkế tục đã biết vận dụng giáo lýKhế cơ, Khế thời, Khế xứ, Khế lý của Đức Thế tôn, một cách uyển chuyển vào thực tếđời sốngxã hội ở Việt Nam và ở một số nước khác. Với sự dung hợp đặc trưng của hai truyền thốngPhật giáo, đã tồn tại và phát triển lâu đời là Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáoĐại thừa (Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Bắc truyền). Sự dung hợp này thể hiện ở nhiều phương diện, nhiều khía cạnh khác nhau, mà ở đây bước đầuchúng tôi chỉ xin nêu những điểm nổi bật và dễ nhận thấy mà thôi. Từ thực tiễnhoạt độnghoằng dương chánh pháp của Đạo PhậtKhất sĩViệt Nam, có thể rút ra một số đặc điểm, chúng tôi tạm cho đó là sự hấp dẫn của hệ phái Phật giáo này như sau:
Một là, hình ảnh của đoàn du tăng khất thựchóa duyên, sống đời phạm hạnh.
Đây là yếu tố đầu tiên tạo nên sức hấp dẫn của Hệ phái. Về vật dụng tùy thân, Tổ sưMinh Đăng Quang đã chọn hình thức “tam y nhất bát”. Hình thứcpháp phục và bình bát của đoàn du tăng Khất sĩViệt Nam giống như hình ảnhtăng đoàn đi khất thựchóa duyên thời Đức Phật còn tại thế. Chính Tổ sư đã tự mình phát nguyệnthọ giới Tỳ-kheo, giữ gìn và thực hành 250 giới cấm theo quy định về giới luật của Phật giáo Bắc truyền theo bộ luật Đàm Vô Đức, và lấy pháp hiệuMinh Đăng Quang mà không phải do một vị thầy Nam truyền hay Bắc truyền nào đặt pháp hiệu, dù trước đó, lúc còn trai trẻ, Ngài đã từng xuất giatu học tại Campuchia.
Hình ảnh các vị Khất Sĩ ôm bình bát đi khất thực với dáng hạnh trang nghiêm, nhiếp tâm, nguyện cầu và hoá độchúng sinh vào mỗi buổi sáng và mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Tức thọ thực vào giờ ngọ là một đặc trưng của Phật giáo Nguyên thủy, mà lúc Đức Thế tôn còn tại thế, Ngài đã quy định trong giới luật mà các vị khất sĩ trong tăng đoàn phải thực hiện. Quy định này hiện nay Phật giáo Nam truyền/Nam tông (Theravàda) vẫn thực hành. Nhưng khác với Phật giáo Nam truyền ở chỗ, nếu Phật giáo Nguyên thủy khi xưa và Phật giáo Nam truyền hôm nay, tín đồPhật tử dâng cúng thức ăn gì thì độ thức ăn đó, không phân biệt chay mặn, trong khi đó giới luật của Hệ phái Khất sĩquy địnhtu sĩ phải ăn chay. Đây là cách tiếp thugiới luật của Phật giáo Bắc truyền.
Về nguồn gốc, thuật ngữ Bhikkhu (Pali) hay Bhiksu (Sançrit) được phiên âm là Tỳ Kheo, Tỷ kheo, Tỳ khưu, Tỳ khâu, Tỷ khâu v.v.. là khái niệm của Bà-la-môn giáo, dùng để chỉ cho giai đoạn thứ tư tức “du hành kỳ” trong cuộc đời của tu sĩ Bà-la-môn. Trong đó, người chủ gia đình rời bỏ đời sốnggia đình, sống bằng hạnh khất thực và tìm cầu chân lýgiải thoát. Trong Phật giáo, thuật ngữ này dùng để chỉ tăng sĩ Phật giáo, người từ bỏcuộc sống thế tục, thụ lĩnh giới luật, tương đương với thuật ngữSa môn (thuật ngữ này cũng của Bà-la-môn giáo).
Đúng ra, thuật ngữ Bhikkhu hay Bhiksu nên định danh là Khất sĩ. Gọi là Khất sĩ bởi vì theo quan niệm của Đức Thế tôn, với người xuất gia trên thì khất pháp (xin pháp) từ Đức Phật để tu thân dưỡng trí, dưới thì đến chỗ nhân gianthế tục để khất thực (xin ăn) nuôi thân. Cũng cần lưu ý là người hành khất (người ăn xin, ăn mày) ở thế gian chỉ xin cơm áo nuôi sống bản thân, không xin pháp và không hoá độ ai cả nên không được gọi là Tỳ-kheo (Khất sĩ). Khi Đức PhậtThích Ca còn tại thế, Tăng Niđạo Phật đều sống bằng khất thựchằng ngày.
Chế độ Khất sĩ hiện nay được duy trì ở các nước Phật giáo Nam truyền như: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Miên, Việt Nam... Mục đích của việc khất thực là tạo ra mối liên hệthân thiết giữa tu sĩ và dân chúng. Tạo cơ hội cho tu sĩ hướng dẫn dân chúng Phật tử về mặt đạo đức và tâm linh, còn dân chúng thì có cơ hội cúng dườngtu sĩ, tạo được phước đức cho bản thân mình, hay kết duyên lành với việc tu hành. Người xuất gia khi đã thọ Cụ túc giới (250 giới đối với nam, 348 giới đối với nữ) thì phải nương theo Tứ y pháp. Trong đó, có Y theo pháp, nghĩa là Tỳ-kheo (Khất sĩ) phải bỏ nhà cửa gia sản, đi du hóa trong nhân gian, xin ăn nuôi thân, tùy nơi mà giáo hóa, độ kẻ có duyên phúc và độ người chưa tin, giúp họ có niềm tin Phật Thánh và nhân quả. Đó là xin ăn để nuôi thân xác và có dịp để độ người. Còn xin pháp để nuôi huệ mạng, nghĩa là cầu xin pháp Phật, nối liền trí tuệcông đứcthành tựu của Phật với tâm của mình, ấy là độ mình. Đủ hai điều kiện này mới được gọi là Tỳ-kheo (Khất sĩ).
Hai là, tôn chỉ và chí nguyện của Hệ phái.
Tôn chỉ và chí nguyện của Hệ phái do đức Tổ sư khai sáng đã nêu ra, theo thiển ý, đây là yếu tố quan trọng thứ hai để tạo nên sức hấp dẫn lớn của Đạo PhậtKhất sĩ. Tôn chỉ và chí nguyện này cũng chính là giáo lý căn bản của Hệ phái Đạo PhậtKhất sĩ, mà tư tưởnggiáo lý này thể hiện trong các bài giảng pháp của đức Tổ sư, sau này có ghi lại đầy đủ trong bộ Chơn lý. Khi mới mở đạo, Tổ sưMinh Đăng Quang đã nêu lên tôn chỉ và chí nguyện “Y bát chơn truyền; Nối truyền Thích Ca chánh pháp”. Tư tưởng này có được là nhờ Tổ sưMinh Đăng Quang sau nhiều năm tu học tại Campuchia, và tự nghiên cứuTam tạng kinh điển của hai hệ phái Nam truyền và Bắc truyền tại Việt Nam. Cùng sau này nhờ Thiền quán mà Ngài đã đắc pháp, từ đó Ngài đã chắt lọc các tư tưởngchính yếu trong giáo pháp của hai truyền thốngPhật giáo này để nêu lên phương pháphành trìtu tập của hệ phái. Tôn chỉ và chí nguyện này đã góp phần làm sống lại những hình ảnh đoàn du tăng khất thực, và tư tưởnggiải thoát của đạo PhậtNguyên thủy từ thời đức Phật còn tại thế, sống đời phạm hạnh, cầu giải thoát. Chính Tổ sưMinh Đăng Quang đã có bài thi kệ chép trong bộ Chơn lý của Ngài:
“Nhất bát thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du.
Dục cùng sanh tử lộ,
Khất hoá độ xuân thu”.
Tạm dịch: Một bát cơm ngàn nhà,
Một mình muôn dặm xa.
Muốn dứt đường sanh tử,
Xin pháp, độ ngày qua.
(NCL dịch)
Bộ Chơn lý là sự tập hợp những bài thuyết giảng của Ngài đã giảng dạy cho hàng đệ tử với 69 bài giảng chứa đựng nội dung về kinh, luật và luận. Những bài giảng này vừa tóm gọn được tinh hoa của tư tưởng triết lýđạo Phật, rút ra cách nhìn nhận của Ngài về vũ trụ quan, công lývũ trụ, nhân sinh quan, lại vừa chứa đựng những giáo pháp cao siêu, huyền diệu của Đức Phật. Trên cơ sở đó, Ngài đề ra những phương pháptu tập như du hoá, khất thực, thiền định, trên cơ sở giáo lýTứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Tam vô lậu học, Bát chánh đạo… Những bài thuyết giảng của Ngài được giảng bằng một ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, rõ ràng, cụ thể, không dùng ẩn ngữ. Với phương phápdiễn giải trực tiếp và lập luậnrõ ràngvững chắc theo kiểu Tam đoạn luận, phù hợp với tâm lý và tính cách mộc mạc, giản dị của người dân Nam bộ nói riêng, của người Việt Nam nói chung.
Trong những bài pháp của Tổ sư, Ngài đã kế thừa những tư tưởng phá mê khai ngộ, đoạn trừ tà kiến, phủ nhận uy quyền, thế lực của đấng Phạm Thiên, Đế Thích hay bất kỳ vai trò của thần thánh nào, như lời Đức Phật đã dạy. Tư tưởng đó đề cao vai trò của mỗi cá nhâncon người. Tất cả mỗi người phải tự mình nỗ lựctinh cầntu tập, “tự mình thắp đuốc mà đi”, tức mỗi người là ngọn đèn của chính mình, tự mình quyết định sự sống của mình bằng con đườngChánh đạo như lời Đức Phật đã dạy.
Chính sự giản dị, mộc mạc trong cách giảng thuyết cho đệ tử, cho tín đồPhật tử ai nghe cũng hiểu được Phật pháp và thanh tịnh trong phương pháptu hành, trong sở đắc. Nên chỉ trong trong một thời gian rất ngắn, từ lúc khai lập Hệ phái (1944) đến lúc Ngài vắng bóng (1954), tức chỉ trong 10 năm, vậy mà Ngài đã để lại cho môn đồ kho tàng tri thứctâm linh cao vời, tạo được gốc rễ truyền đạovững vàng mà bao thế hệtruyền thừa sau này phải thầm cảm phục, tri ân, tưởng nhớ. Đây là một đặc điểmnổi bật nhất và đáng tôn vinh nhất và cũng là niềm tự hào của cả Hệ phái. Đây cũng chính là cơ sở để sau khi Ngài vắng bóng, các hàng đệ tửkế tục nối truyền, và nhất là đến hôm nay, Đạo PhậtKhất sĩ đã hiện diện trên khắp tất cả các châu lục mà ở trước có giới thiệu qua.
Ba là, về phương pháptu tập.
Đạo PhậtKhất sĩ nêu ra một số chủ trương về phương pháptu tập như: Hành trìtu tập Giới – Định – Tuệ theo Bát chánh đạo; Dung hợp hai pháp môntu tập Thiền tông và Tịnh độ tông; Thực hànhTứ y pháp; Áp dụngtinh thầnLục hoà của Phật giáo Nguyên thuỷ trong đời sống tăng đoàn. Ngài chủ trương: Sống chung, học chung, tu chung, Ngài đã dạy: “Nên tập sống chung tu học: Cái sống là phải sống chung, Cái biết là phải học chung, Cái linh là phải tu chung” (Chơn lý); Chủ trương Tự tứ cả giáo đoàn, tức sau ba tháng an cư kiết hạ, đến ngày Rằm tháng 7 âm lịch hàng năm, tất cả thành viên của giáo đoàn tập trung Tự tứ tại một Tịnh xá nào đó được cả giáo đoàn thống nhất lựa chọn và chỉ định. Điểm đặc biệt là Đạo PhậtKhất sĩ lấy Giới – Định – Tuệ làm trung tâm để tu tập thiền định và đã dung hoà tinh hoatư tưởnggiáo lý của Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Bắc truyền một cách tuyệt vời nhất.
Bốn là, tên gọi nơi trú xứ.
Nơi trú xứ của hệ phái được gọi là Tịnh xá, chứ không gọi là Chùa, Tự viện, Thiền viện… như Phật giáo Nam truyền hay Bắc truyền đã gọi. Cách định danh này là gọi theo Phật giáo Nguyên thủy từ thời Đức Phật còn tại thế. Và hồi bấy giờ, các vị Khất sĩ không ở một nơi nào cố định trong một thời gian dài vài ba tháng. Tiếp thu cách tổ chức này của Phật giáo Nguyên thủy, Ngài Tổ sưMinh Đăng Quang đã quy định trong giới luật của Hệ phái là các tu sĩxuất gia không được ở một nơi trú xứ nào đó quá ba tháng. Trước năm 1975, các giáo đoàn của Hệ phái tuân thủquy định này một cách nghiêm cẩn, nhưng sau 1975 đến nay, thì không còn quy định này nữa, bởi phải chấp hành sựquản lý hành chính của nhà nước. Đây cũng là một cách ứng xử linh hoạtmềm dẻo theo tinh thần khế thời, khế xứ, khế cơ mà Đức Thế tôn từng giảng dạy.
Năm là, kiến trúc Chánh điện và Bảo Tháp nơi Tịnh xá.
Đây là nét kiến trúc rất đặc trưng của Hệ phái. Hồi mới mở đạo, Tổ sư khai sáng đã cho thiết kế xây dựngChánh điện của Tịnh xá theo hình bát giác để biểu trưng cho Bát chánh đạo (Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mệnh, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định). Nóc dưới của Chánh điện có 8 mái, nóc trên có 4 mái, đặt búp sen, trên cùng là hình tượng ngọn đuốc, đặt trên búp sen, để biểu trưng cho ngọn đèntrí tuệsoi sángchân lý.
Bên trong Chánh điện có 4 trụ cột lớn để chống đỡ mái hình bát giác. Bốn trụ này là biểu trưng cho tứ chúngxuất gia và tại gia thuộc Giáo hội (Tỳ-kheo, Tỳ- kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di). Chính giữa Chánh điện là ngôi bảo tháp 3 cấp biểu trưng cho Giới, Định, Tuệ. Mặt trên cao, an vị tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni với khung bằng gỗ bên ngoài và bao kính chung quanh. Trên cùng tháp thường làm bằng gỗ với 13 tầng, tượng trưng cho 13 cõi (13 lớp tiến hoá): Địa ngục, Ngạ quỹ, Súc sanh, A-tu-la, Nhân, Thiên, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A na hàm, A-la-hán, Bích chi, Bồ- tát, Như lai. Thiết kế các mặt của Chánh điện đều có cửa và tháp 13 tầng là Tổ sư đã căn cứ theokinh Đại bát Niết bàn, phẩm Di giáo thứ 26. Có thể thấy mô hình kiến trúc này của Hệ phái đã thể hiện sự viên dung của giáo lýtư tưởngđạo Phật. Phía sau bảo tháp là bàn thờ vị Tổ sư khai sáng Hệ phái: Ngài Minh Đăng Quang. Phía sau Chánh điện, các Tịnh xá thường thiết lậpbàn thờCửu huyền Thất tổ. Nơi này, ở chính giữa là tôn tượng Ngài Địa Tạng Bồ-tát, một vị Bồ-tát tay cầm tích trượngphá địa ngục để dẫn dắt, tế độ tất cả sinh linhthoát khỏicảnh địa ngục; bên trái là thờ chư vị hương linh nam giới; bên phải thờ chư vị hương linh nữ giới.
Cách thiết kế nơi không gianthiêng liêng như trên đã cho thấy nét đặc thù của Hệ phái Khất sĩ có khác với Chánh điện của Phật giáo Nam truyền hay Phật giáo Bắc truyền. Tất cả các Tịnh xá của Hệ phái tại Chánh điện chỉ tôn thờ tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nơi trung tâm điện thờ. Đây là điểm giống với Phật giáo Nam truyền, bởi Phật giáo Nam truyền (Nguyên thủy) cũng chỉ thờ phụng độc nhất Phật Thích Ca nơi chánh điện. Nhưng cách bài trí điện thờ Phật của Đạo PhậtKhất sĩ có khác với điện thờ của Phật giáoNam tông. Đạo PhậtKhất sĩ xây bệ thờ hình bát giác, biểu tượng cho Bát chánh đạo và bảo tháp như trên có nêu. Ngoài ra, ở một nơi không gianthiêng liêng khác, Đạo PhậtKhất sĩ còn thờ Bồ-tát Quán Thế Âm, Phật Di Lặc. Điểm này thì Đạo PhậtKhất sĩ có khác với Phật giáo Nam truyền, và lại có nét giống với Phật giáo Bắc truyền (Đại thừa), dù nơi Chánh điện của Phật giáo Bắc truyền thờ nhiều hơn, bởi các chùa của Phật giáo Bắc truyền bên cạnh thờ Tam thế chư Phật, còn thờ nhiều vị Bồ tát khác như Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền, Địa Tạng...
Về biểu tượnghoa sen và Ngọn đènchân lý. Hình ảnhHoa sen rất quen thuộctrong đời sống của người Việt Nam. Từ phẩm chất của Hoa sen, sống “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” (Ca dao Việt Nam), đức Tổ sư đã rút ra bài học để giảng dạy cho hàng đệ tử: “Đời sống của hoa sen, lá sen, quả sen thật là từ bi và trí huệ, sống trong khoảng không trung bao quát mà không thiếu phần lợi ích cho cả chúng sanh phía dưới. Thế sao chúng ta lại chẳng noi gương theo, tuy cái sống không mùi vị mà được lắm sự thanh cao, ý nghĩa quý báu”. Hình ảnhngọn đènchân lý còn được gọi là “Đuốc tuệ” hay “Đuốc trí tuệ” là biểu tượng cho “Bó đuốc soi sáng chân lý”. Chân lý là lẽ sự thật của hiện tượng tự nhiên hay thực tại. Theo nhà Phật, có ba chân lý mà người tu theo Phật thường khắc ghi trong tâm trí của mình, nhà Phật gọi đó là “Tam pháp ấn”: Chư hành vô thường, Chư pháp vô ngã, Niết bàntịch tịnh.
Người học Phật nếu thông tỏ được các pháp hữu vi đều vô thường, tức không thường trụtồn tại vĩnh hằng, tất cả đều phải theo quy luật: thành trụ hoại diệt, sinh lão bệnh tử; hiểu rõ các sự vật đều chẳng có tự ngã, tất cả do nhân duyên mà sinh ra và cũng do nhân duyên mà tự diệt. Từ đó mới đạt đượccảnh giới tâm tự tại, trống rỗng, lặng lẽ, hư tịch, an tịnh, sống an nhiêntự tại trong cõi trần thế. Đó chính là Niết bàn, là “Phật tại tâm”, là “Bụt làm lòng”. Chính Hoà thượng Giác Toàn, một vị tôn túcgiới phẩm của Hệ phái đã đúc kết ý nghĩa hai hình ảnh này như sau: “Tổ Sư Minh Đăng Quang chọn hoa sen và ngọn đèn chơn lý làm biểu tượng cho dòng pháp ‘Nối truyền Thích Cachánh pháp – Đạo PhậtKhất sĩ Việt Nam’ (hiện nay là Hệ phái Khất sĩ). Tổ sư đã bày tỏ hướng đem chánh phápthanh tịnh của chư Phật (Hoa sen) soi dẫn lối cho người hữu duyên (ngọn đèn chơn lý). Đó là phụng thờchánh pháp một cách tốt đẹp nhất” (…) “Như vậy, biểu tượnghoa sen và ngọn đèn chơn lý chính là lý tưởng, chính là hoài bão của Tổ Sư về một quốc độ, một cuộc sống an vui, thuần thiện của tất cả mọi người. Trong đó, người tu phải thể hiệnmột đời sống tu tậptrong sáng, thanh thoát, thắp lên ngọn đèn chơn lý phụng hiến cho đời”. Theo Tổ Sư khai sáng Hệ phái thì tất cả mỗi người phải tự là ngọn đèn của chính mình, tự mình tìm đến chân lý, và sau khi giác ngộ đủ đầy mới giáo hoá cho người khác: “tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn” như lời Đức Phật đã từng dạy.
Sáu là, nghi thứchành lễ, kinh văn đọc tụng.
Nếu Phật giáo Nam truyền đọc kinh văn bằng tiếng Pali; Phật giáo Bắc truyền đọc kinh văn Hán tạng (qua phiên âm Hán Việt), thì Phật giáoKhất sĩ chủ trương đọc kinh văn bằng tiếng Việt. Kinh văn được dịch sang tiếng Việt bằng văn vần chủ yếu là theo thể thơ song thất lục bát, rất phù hợp với dân tộc nên dễ đọc, dễ tụng, dễ nhớ, dễ thuộc. Điều này là Tổ sư đã học tập lời dạy của Đức Thế tôn khi còn tại thế, Ngài đã khuyên các đệ tử nên dùng ngôn ngữ bản xứ để truyền giảng giáo pháp, một dạng thức bản địa hóa ngôn ngữ, tức vận dụng tinh thần Khế xứ, Khế thời để truyền báPhật pháp. Ngay từ lúc mới khai đạo, nghĩa là những năm 40 của thế kỷ XX, Tổ sưMinh Đăng Quang đã tự dịch kinh văn sang tiếng Việt chữ Quốc ngữ. Đây là một điểm rất tiến bộ, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của Tổ sư khai sáng, mà hôm nay Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có chủ trương dịch toàn bộ kinh văn Pali tạng. Hán tạng sang Việt tạng để tất cả mọi ngườiđọc tụng, tuỳ theo trình độ và căn cơ, ai ai cũng có thể lĩnh hội Phật pháp được dễ dàng.
Về nghi thứchành lễ và trì tụng, khi mới mở đạo, đức Tổ sư đã đề ra một nghi thức rất giản đơn, nhằm thuận tiện cho người tu học. Bên cạnh đọc tụng kinh văn bằng tiếng Việt chữ Quốc ngữ mà Ngài đã tự dịch sang thể thơ, thường là thơ song thất lục bát, thì khi hành lễ, trì tụng kinh văn, Hệ phái này có chủ trương chỉ thỉnh chuông, chứ không gõ mõ, cũng không dùng trống, kèn, tang nhịp như thường thấy trong nghi lễ của Phật giáo Bắc truyền. Đây cũng là một biểu hiện làm nên nét đặc trưng của Hệ phái Đạo PhậtKhất sĩ. Tất cả, theo thiển nghĩ, đã tạo nên sức hấp dẫn của Hệ phái Phật giáoKhất sĩ đối với mọi người sống trên thế gian này. Điều đó đã lý giải tại sao, Hệ phái này chỉ mới ra đời khoảng 70 năm, nếu so với hàng ngàn năm của lịch sửPhật giáo, mà lại truyền thừarộng rãi và có mặt trên khắp các châu lục như hiện nay.
Tài liệutham khảo
1. Tổ sưMinh Đăng Quang, Chơn lý, Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minhấn hành, 1993; Nxb Tôn giáo, HN, tái bản, 2009, 950 trang.
2. Hàn Ôn, Đạo PhậtKhất sĩViệt Nam khảo cứu: Minh Đăng Quangpháp giáo, Nhà in Long Giang, Sài Gòn, 1961, 134 trang.
3. Hệ phái Khất sĩ, Ánh Minh Quang, Nxb TP. HCM, 2008, 110 trang.
4. Thích Hạnh Thành, Tìm hiểuPhật giáoKhất sĩ ở Nam bộViệt Nam (trong thế kỷ XX), Nxb Tổng hợp TP. HCM, 2007, 136 trang.
Sau những ngày Miến Điện nghỉ Tết, nhóm thiện nguyện Ánh Sáng Từ Bi do Sư Cô Tn Như Hiếu điều hành đã tiếp tục dấn thân cứu trợ. Hôm nay 22. April 2025 chúng con xin tiếp tục tường trình hình ảnh cứu trợ động đất Myanmar đợt 5. Cũng như 4 đợt cứu trợ vừa qua, lần này chúng con cũng kết hợp cùng với chư vị Bhante, chư Tăng Ni VN tại Myanmar (Nhóm thiện nguyện Ánh Sáng Từ Bi, Quỹ Phụng Sự Tâm An, Quỹ Từ Tâm, nhóm Sư Cô Thích nữ Như Hiếu- Suriyavati)
Xin tường trình Lộ trình đi cứu trợ miền động đất Myanmar.
Kính gửi : Chư tôn Hòa thượng Trưởng lão,Chư Hòa thượng,Chư Thượng tọa, Đại đức Tăng ni,Quý Phật tử trong vả ngoài nước : THÔNG BẠCH ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PHẬT LỊCH 2569 của HĐGPTƯ Chánh thư ký Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống,Tỳ kheo Thích Đức Thắng
Khởi sự với lòng từ mong muốn đem nguồn nước của đức “Đại Bi” khơi nguồn nơi khô cằn sỏi đá và thiếu nguồn nước vào mùa khô ở Đăk Nông, từ ngày 19 tháng Giêng năm Ất Tỵ (19/2/2025) chúng con đã đi tiền trạm, khảo sát các trường học/ khu dân cư cần giếng nước sạch ở Đăk Nông. Sau khi tiến hành khảo sát đợt 1 vào ngày 19/2/2025 và đợt 2 vào ngày 17/3/2025, chúng con đã chọn lọc trong số các trường đã khảo sát và quyết định tặng 18 giếng nước/công trình lọc nước phèn/máy phát điện cho 20 trường học thuộc tỉnh Đăk Nông (có 4 trường trong cùng khuôn viên đất ở 2 địa điểm sẽ sử dụng chung công trình được tặng).
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.