ĐỌC LẠI TUYỂN TẬP “BẮT NẮNG”
CỦA NHÀ THƠ VŨ HOÀNG THƯ
Nguyên Giác
Như thế là qua những ngày tròn 50 năm sau ngày ba mươi tháng tư của năm 1975. Tôi nghiệm ra một điều rằng, đó là những con số rất ít người quên, và rất nhiều người sử dụng các con số trong nhóm 30/4/1975 để dùng trong tên (username) và mật khẩu (password) trong các ứng dụng tin học. Thêm nữa, bạn sẽ thấy rằng những con số này khi viết thành số và khi viết thành chữ sẽ cho bạn các cảm xúc khác nhau. Trời ạ, khó quên tới như vậy sao.
Hai mươi năm về trước, trong bài viết vào năm 2005, vào tháng Tư thứ 30, nhà thơ Vũ Hoàng Thư trong bài viết nhan đề “Chuyện tháng Tư” đăng trong tuyển tập Bắt Nắng, ghi về tình bạn giữa hai người mà tác giả ghi ẩn danh là X. Và Y. Nhà thơ kể rằng hai người kia là bạn cùng thời trung học, cùng lớn lên thời chiến tranh ở quê nhà, cùng nhau học đạo và “tham dự những lớp Thiền cho đến khi cả hai bước vào quân ngũ. Thinh thoảng họ gặp nhau một đôi lần khi về phép. Chiến cuộc tàn, đời đổi thay, hai người bạn gặp lại nhau trên đất Mỹ. Bấy giờ X. mới biết gia đình Y. thuộc về phía những người vừa chiến thắng. Một vài tranh luận xảy ra sau những lần trà dư tửu hậu, rồi những cuộc gặp mặt thưa lần cho đến một ngày gần đây, khi Y. mời X. đến nhà..." (Bắt Nắng, trang 102)
Thế hệ của tôi có những chia rẽ như thế. Hoặc từ gia đình, hoặc từ lựa chọn riêng, hoặc vì hoàn cảnh riêng. Tự nhiên hai bạn cũ gặp lại là thấy cả một chân trời xa cách. Mà chuyện do Vũ Hoàng Thư kể là hai bạn X và Y có một thời mới lớn là tiểu chúng Vạn Hạnh, từng có những “ước nguyện cứu độ nhiều hơn tám vạn bốn ngàn cánh sen” và một “đêm cuối năm hai đứa nằm ở góc chùa đợi tàu” như ghi trong bài thơ của X gửi Y sau hôm gặp lại đó (Bắt Nắng, trang 103).
Vài hôm sau đó, Y làm bài thơ trả lời X, trong đó những dòng cuối là:
“Tao gặp lại mày ngỡ ngàng sau trước.
Tóc bạc, mắt mờ, gối mỏi, lưng cong.
Cái chuyện núi sông không dám đèo bồng.
(Ta tư cách gì nói chuyện núi sông)
Hãy để núi sông yên phần sông núi.
(Sông đã liền sông, núi đã liền núi)
Ta học được gì những ngày tháng cuối?” (Bắt Nắng, trang 108-109)
Đó là những người bạn may mắn còn sống và còn gặp lại. Để cùng suy nghĩ về vận nước. Hay khi một người bạn ra đi thì thì bạn kia phải nhắc:
Co cẳng đạp quan tài
tới giờ để tụng kinh
Không lẽ cứ nằm hoài
nghe đất trời làm thinh. (Phan Tấn Hải tiễn nhà thơ Kinh Bắc năm 2016)
Tuyển tập Bắt Nắng của Vũ Hoàng Thư in năm 2009, do nhà xuất bản Quê Mẹ ở Paris --- hẳn là các bạn nhớ rồi: thời đó chưa có chuyện in sách trên Amazon, nên nhà thơ họ Vũ từ Quận Cam phải gửi bản thảo qua Pairs cho thi sĩ Thi Vũ ấn hành.
Nơi trang bìa sau là vài dòng Vũ Hoàng Thư tự giới thiệu: “Tuổi thơ đi bắt nắng. Bắt cánh chuồn chuồn và bắt thinh không khi chuồn chuồn lách cánh bay đi. Bàn tay nhỏ dại ôm đầy vũng nắng. Vốc nắng vào tóc nuôi lãng mạn lớn... Còn hay mất, đời là cuộc bắt nắng dài. Một vài điểm mốc cho ta ngừng lại ngắm nhớ..."
Khi đọc những dòng trên, tôi chợt nhớ tới tiểu thuyết The Catcher in the Rye của J. D. Salinger mà thời mới lớn của tôi may mắn được đọc bản dịch Bắt Trẻ Đồng Xanh của Phùng Khánh (người về sau trở thành Ni sư Trí Hải). Nhân vật trong truyện Salinger là một cậu bé trong một chuyến trốn học bụi đời, chợt có một thắc mắc lớn là lũ vịt trời ở công viên Central Park sẽ đi đâu nếu những cái hồ ở đây đóng băng. Tuổi thơ Việt Nam không thấy vịt trời, không thấy hồ đóng băng. Nhưng là một bầu trời khác: nhà thơ Vũ Hoàng Thư khi còn là cậu bé đã rượt theo bắt nắng và trọn đời anh là những cuộc bắt nắng.
Nhà thơ Thi Vũ, trong Lời Giới Thiệu, trích nơi bìa sau, ghi những suy nghĩ trích như sau:
“Bắt Nắng dựng một trời thơ giữa nguồn thơ, dựng một quê hương giữa lòng người. Bắt Nắng là bao điều tưởng mất, bỗng nhiên còn, nhờ cái thoát vượt của mạch nhớ, suy tưởng và văn tài... Văn Vũ Hoàng Thư mang nhiều chất thơ, chất suy tư, đang bước dần vào niệm tưởng. Đa số bài như tản văn thi, Văn cũng khác lạ, nhờ những khóm chữ chắt lọc đơm theo mạch chuyển động của câu làm nên kiến trúc văn tài.”
Tôi tin rằng những thắc mắc lớn như vịt trời bay về đâu khi hồ đóng băng, hay những ngày tuổi nhỏ chạy theo bắt nắng có giá trị hơn (và tuyệt vời hơn) là những cuộc chạy theo những khẩu hiệu thay đổi mỗi bốn năm bầu cử. Tôi ưa thích làm bạn với vịt trời và chuồn chuồn, và luôn luôn bị những cái đập cánh hiện ra trong những giấc ngủ lôi cuốn tôi bay theo những chuyến bụi đời bên hồ đóng băng và những bàn tay nhỏ dại ôm đầy vũng nắng.
Văn của Vũ Hoàng Thư tràn ngập ánh nắng. Họ Vũ nói rằng gọi nắng về sẽ xóa hết những bóng ma, để cho những người con gái sẽ tan vào nắng, để hoa sen hiện ra, nơi trí tuệ của Thiền đứng lên bước vào đời vô trú (ghi nhận: tác giả họ Vũ dùng chữ “vô trú” trong khi nhiều nhà thơ khác dùng chữ “vô trụ” – không khác nhau). Nơi đây, mời bạn đọc những dòng trích nơi trang 15 (tôi kinh ngạc khi thấy hình ảnh “niêm hoa vi tiếu” được kể lại trong những tiếng gọi nắng về:
“Hãy gọi nắng về để xóa hết những bóng ma, cho người con gái loãng tan vào nắng. Nàng sẽ vẽ màu lên thành quách đen đúa của hoàng thành. Phía đó Thành Nội nung nóng trên bờ tường rêu. Hồ sen đứng gió mặt phẳng lì. Trong im ắng nhiệt đới, những nụ sen non vừa nhú, mơn mởn hồng. Từ rong rêu buồn bã, sen chồi lên hít thở lấy không gian xanh ở trên. Nhớ một nụ hoa đưa lên và nụ cười chạy dài suốt mười phương thế giới - niêm hoa vi tiếu. Sen đẹp như bóng ngồi thiền định. Một phương thế tự tại mà từ ngàn xưa lối ngồi kiết già bắt nguồn từ hình ảnh một nụ sen, padmasana, đã được Phật giáo áp dụng trong khi tham thiền nhập định. Từ dáng ngồi ấy, trí tuệ đứng dậy đi vào đời bằng những bước thong dong vô trú. Như sen. Mùa nước khô hay mưa ngập nước, sen sống thích nghi theo triều lên xuống của mặt nước mà không mất rể. Chính nơi vô trú, tự do tuyệt đối mới thể hiện, bởi tự do chỉ xuất phát từ sự tự vượt thoát khỏi mọi kiềm tỏa của chính mình. Cứ thế sen nở và thả hương bay từ tốn. Như nhiên trong cái đương-là.” (Bắt Nắng, trang 15)
Văn rất là Thiền, rất là Huế, rất là thơ. Chưa hết, tôi còn kinh ngạc khi được nhắc tới Trung Luận (Trung Quán Luận: Madhyamika) và lời của nhà sư Long Thọ (Nagãrjuna) từ những phương trời Ấn Độ hai ngàn năm trước vọng lại. Nơi trang 24, Vũ Hoàng Thư viết những dòng cuối bài viết nhan đề “Những Khoảng Lặng” về màn sương khói lịch sử, và cũng nhức nhối là, bài này viết vào Tháng Tư năm 2004 (hẳn là, không quên được Tháng Tư?). Hãy đọc để thấy rằng thân và tâm của mình sẽ như là sương tan. Trích:
“Và khi màn sương tan, cái gì sẽ còn lại? Lời Nagãrjuna như sấm động dội về giữa vùng sương khói cô liêu: Như huyễn hóa, như mộng mị, như lâu đài của loài Càn thát bà, tất cả sự hiện khởi, tồn tục và tan biến đều như vậy.
Như huyễn diệc như mộng
Như Càn thát bà thành
Sở thuyết sanh trụ diệt
Kỳ tướng diệt như thị
Madhyamika - VII, 35
Tháng Tư, 2004” (Bắt Nắng, trang 24)
Vũ Hoàng Thư có hai bài viết về thơ haiku. Bài đầu tiên nhan đề “Haiku và những con nắng hạ, I” (Bắt Nắng, trang 40-51), bài thứ nhì nhan đề “Haiku và những con nắng hạ, II” (Bắt Nắng, trang 52-57). Như thế, họ Vũ rất mực trân trọng với thơ haiku. Trong bài đầu, có nhắc tới lối vào Đại Vực, tức là vùng thiên nhiên hùng vĩ Grand Canyon của tiểu bang Arizona. Đứng giữa cảnh nắng chập chùng hùng vĩ, Vũ Hoàng Thư nghĩ tới kiếp ve sầu ngắn ngủi trên cõi đời. Họ Vũ dịch lại ba dòng thơ haiku của nhà thơ Thiền sư Nhật Bản Matsuo Basho (1644-1694):
lặng yên qua mấy từng không
lời ve
gõ thấu vào lòng đá xanh. (Bắt Nắng, trang 43)
Vũ Hoàng Thư nhận định rằng thể thơ ngắn của haiku là không dư và không thiếu, nhằm nói tới “chính thị cái đang là – đương hạ tức thị. Nắm bắt thực tại ngay trong giây phút nẩy mầm...” (trang 44-45)
Chữ của sách vở Tây phương hiện tại sau khi nghiền ngẫm Phật học là “cái bây giờ và ở đây” – vâng, trong khi chữ của các Thiền sư nhiều thế kỷ trước ghi là đương hạ tức thị, cái đang là... và chữ của nhà thơ Vũ Hoàng Thư là “ngay trong giây phút nẩy mầm”... Ngôn ngữ có dị biệt, do vậy, hãy vượt qua rào cản ngôn ngữ. Có cái gì, có thế giới nào bên kia rào cản ngôn ngữ?
Trong bài thứ nhì, Vũ Hoàng Thư phân tích về tiếng ve, nghe như là nói về pháp ấn vô thường và vô ngã. Phải chăng cõi này là mù sương trôi đi, rằng những gì được thấy và được nghe chỉ là như ảo giác, như không thật. Và tiếng ve phải chăng cũng là những dòng Tâm Kinh Bát Nhã được thiên nhiên vang vọng.
Vũ Hoàng Thư viết về ảo giác cõi này, về buổi sáng có sương giữa thế giới mù sương: “Buổi sáng hè có sương hứa hẹn một ngày nóng. Nhớ về ve là nhớ về một nơi chốn đã mất, không gian cũng như thời gian. Tuổi trẻ đi không trở về, đất nước xa không được gần. Nhớ nung hầm nhiệt đới, dã dượi đợi chờ dưới hàng cây của sân trường im bóng. Tất cả như ảo giác, tất cả như không thật. Có chăng ve hát từ sương trong một buổi sáng có sương giữa thế giới mù sương?” (Bắt Nắng, trang 56)
Trong bài “Những bước chân sương” (trang 83-93), Vũ Hoàng Thư mở đầu bằng bốn câu thơ của Thiền sư thi sĩ Nhật Bản Ryokan (1758-1831) viết bằng tiếng Anh. Họ Vũ không dịch ra Việt ngữ, nơi đây chúng ta tạm dịch như sau: “Ai nói thơ tôi là thơ / Thơ tôi không phải là thơ / Khi bạn biết rằng thơ tôi không phải là thơ / Rồi chúng ta có thể nói về thơ.”
Nghe y hệt như những dòng Kinh Kim Cang... như huyễn thuật, như sương mai, như bọt nước, như cơn mộng, như ánh chớp, như đám mây — những gì hữu vi nên được quán chiếu như vậy... Và vì thơ không phải là thơ, nên mới có thể nói chuyện về thơ. Khi Sắc là Không. Khi cái được thấy và cái được nghe chính là Không.
Vũ Hoàng Thư giải thích rằng “Thơ không còn ở chữ, nghĩa, vần, điệu...” (Bắt Nắng, trang 90) và rồi nhắc tới một công án trong Vô Môn Quan, nơi đây họ Vũ ghi rằng câu hỏi đặt ra “không cốt được trả lời” hệt như một người “leo lên cây cao, miệng cắn vào một cành cây, hai tay buông thõng giữa hư không, hai chân không vịn được vào đâu hết. Tình cờ dưới gốc cây có người hỏi vọng lên, “Ý của Tổ sư qua Tàu là gì?” Người trên cây không trả lời thì không được, mà trả lời thì rơi chết hốt xương.” (trang 91)
Than ôi, có cái gì vượt qua ngôn ngữ? Vượt qua thơ? Người thơ khi đã lên cây cao, không còn vịn vào đâu, chỉ còn miệng cắn vào cành, tức là thân-tâm gần như là vô trú, hay vô trụ, không còn dựa vào đâu nữa, lúc đó hãy nên sống với cái đang là, hãy buông bỏ hết quá khứ và vị lai mới hòng sống sót. Đừng mở miệng. Đừng cần nhớ tới chuyện ông Bồ Đề Đạt Ma qua Tàu (chuyện quá khứ) và đừng cần bận tâm thảo luận với người hỏi (chỉ lối cho chuyện tương lai). Mở miệng là mất mạng.
Thơ cũng tương tự như thế. Khi dòng thơ viết xuống, là quăng bút đi thôi. Đừng bận tâm gì nữa. Vì bàn luận về thơ là chuyện của cửa quỷ, nhà ma. Nhà thơ cũng như Thiền sư, sống với cái đang là, sẽ không còn nhớ vì sao những dòng chữ hiện ra trên giấy, và đó là sống cái đang là.
Cảnh giới của cái đang là là gì? Cõi nào nơi đây? Vũ Hoàng Thư trong bài “Những giọt trăng” nhắc tới thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ, trích:
“Khi thời gian thôi là trước sau, khi không gian hết còn xa gần, không là một, cũng không là khác, thì trăng tối nay là trăng đêm trước, hoa năm mới nào có khác hoa năm xưa, Tuệ Trung Thượng Sĩ thấy như vậy,
Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt
Tân niên hoa phát cố niên hoa
---- Tuệ Trung (Đốn tỉnh)
Trăng rọi tối nay : trăng tối trước
Hoa cười năm mới: hoa năm qua
---- Huệ Chi dịch” (Bắt Nắng, trang 117)
Vâng, ý chỉ là như vậy. Thơ chính là cái đang là. Như đoạn trích dẫn trên, họ Vũ cho thấy: thôi là trước sau (không còn quá khứ, vị lai), thôi là xa gần (không còn đây kia)... bời vì Sắc chính là Không, và Không cũng chính là Sắc, vì những gì được thấy và được nghe chỉ là Không, và ngược lại.
---- Viết trong những ngày đầu tháng 5/2025.
.
Từ trái: Vũ Hoàng Thư, Phan Tấn Hải. Cuối tháng 4/2025.