Thư Viện Hoa Sen

Kinh Tập

07/04/20225:28 SA(Xem: 3381)
Kinh Tập
TAM TẠNG SONG NGỮ PĀLI - VIỆT – TẬP 29 
SUTTANTAPITAKE KHUDDAKANIKĀYE 
SUTTANIPĀTAPĀLI 
TẠNG KINHTIỂU BỘ
KINH TẬP 
ĐIỀU HÀNH TỔNG QUÁT: Tỳ Khưu Indacanda 
PHỤ TRÁCH PHIÊN ÂM & PHIÊN DỊCH: - Tỳ Khưu Indacanda (Trương Đình Dũng) 
PHỤ TRÁCH VI TÍNH: - Tỳ Khưu Đức Hiền (Nguyễn Đăng Khoa
PHỤ TRÁCH IN ẤN & PHÁT HÀNH: - Tỳ Khưu Tịnh Đạt (Huỳnh Minh Thuận) - Tu Nữ Mỹ Thúy (Huỳnh Kim Lan) 
KINH TẬPPDF icon (4)KINH-TẬP

Về nội dung, tập Kinh Suttanipātapāḷi – Kinh Tập trình bày về một số giáo lýphương pháp tu tập từ thấp lên cao theo nhiều khía cạnh. Ở đây chúng tôi chỉ nêu lên một số bài Kinh đề cập đến những phần giáo lý quan trọng:

- Tán dương phẩm chất cao đẹp và hạnh sống đơn độc của hàng xuất gia được mô tả ở Kinh Khaggavisāṇasuttaṃ – Sừng Tê Ngưu. Sự đơn độc này được ví với cái sừng (visāṇa) của loài tê ngưu, bởi vì loài thú này chỉ có độc nhất một cái sừng ở mũi, thay vì hai sừng ở trên đầu như các loài thú khác.

- Một số tiêu chuẩn để đánh giá các hạng người ở thế gian đã được trình bày và giải thích: Điển hình như bốn hạng Sa-môn, cụ thể là bốn hạng tỳ khưu trong Giáo Pháp của Ngài, gồm có: hạng chiến thắng Đạo Lộ, hạng thuyết giảng Đạo Lộ, hạng sống theo Đạo Lộ, và hạng làm nhơ Đạo Lộ, qua đó người cư sĩ tại gia cần có sự sáng suốt xác định để giữ vững niềm tin trong việc tu học của mình (Cundasuttaṃ – Kinh Cunda). Ngài đã nêu lên mười hai yếu tố là tiền đề khiến cho con người bị đọa lạc, phải lìa xa thế giới hạnh phúc (Parābhavasuttaṃ – Kinh Thoái Hóa). Kế đến, Ngài đã xác định cách thức để nhận biết một người hạ tiện và các pháp tạo thành người hạ tiện là do hành động của người ấy chứ không phải do dòng dõi hạ sanh (Vasalasuttaṃ – Kinh Người Hạ Tiện).

- Một số giáo lý cao siêu có liên quan đến các phẩm chất cần thiết cho sự chứng ngộ cũng đã được ghi lại ở tập Kinh này, ví dụ như sự trong sạch của thân-khẩu-ý, sự xa lánh ngũ dục, sự tu tập về Giới-Định-Tuệ, v.v... (Hemavatasuttaṃ – Kinh Hemavata). Nhiều giáo lýtính chất ngắn gọn, súc tích được thấy ở câu trả lời của đức Phật cho Dạ-xoa Āḷavaka, đơn cử là câu kệ 190 xác định phẩm chất căn bản của người tại gia: “Người nào, sống tại giađức tin, sở hữu bốn pháp này: chân thật, chính trực, kiên trì, xả thí, người ấy chắc chắn không sầu muộn sau khi chết” (Āḷavakasuttaṃ – Kinh Āḷavaka); việc không nhìn thấy như thật bản thể của cái thân xác được che phủ bởi lớp da bên ngoài này khiến bản thân có sự kiêu hãnh và khi dễ người khác, do đó, việc tu tập và quán xét theo đề mục thể trược là điều cần thiết (Vijayasuttaṃ – Kinh Chiến Thắng).

- Những sự lầm lẫn về tri kiến và cách thức tu trì được thấy trong thời đại quá khứ và hiện nay cũng đã được đề cập đến, xin đơn cử câu kệ 251: “Không phải cá và thịt, không phải việc nhịn ăn, không phải việc lõa thể, không phải cái đầu cạo, tóc bện và cáu đất, các y da dê thô cứng, hoặc không phải việc thờ phượng cúng tế ngọn lửa, hoặc thậm chí vô số sự khổ hạnh cho việc bất tửthế gian, các chú thuật, các đồ hiến cúng, lễ hiến tế, các việc hành xác rửa tội theo mùa tiết, mà (có thể) làm trong sạch con người còn chưa vượt qua sự nghi hoặc” (Āmagandhasuttaṃ – Kinh Mùi Tanh Hôi). Sự thoái hóa trong việc tu tập của các vị Bà-la-môn thời bấy giờ do nguyên nhân tham đắm về của cải vật chất đã được trình bày chi tiết khiến cho đạo đức bị suy đồi, tật bệnh gia tăng, và truyền thống bị đảo lộn (Brāhmaṇadhammikasuttaṃ – Kinh Truyền Thống Bà-la[1]môn). Đồng thời, một số chuẩn mực trong việc tu tập rèn luyện đã được nhấn mạnh (Kiṃsīlasuttaṃ – Kinh Với Giới Gì, Rāhulasuttaṃ – Kinh Rāhula, Dhammikasuttaṃ – Kinh Dhammika).

- Đặc biệt một số tư liệu về sử học liên quan đến cuộc đời của đức Phật cũng được tìm thấy ở tập Kinh này: Về động cơ xuất gia của Ngài và việc gặp gỡ với đức vua Bimbisāra (Pabbajjāsuttaṃ – Kinh Xuất Gia); về sự chiến thắng Ma Vương (Padhānasuttaṃ – Kinh Nỗ Lực); về việc cảm hóa vị giáo sĩ Bà-la-môn và khẳng định những phẩm chất cần có của người tu sĩ để xứng đáng với phẩm vật cúng dường của người khác (Sundarikabhāradvājasuttaṃ – Kinh Sundarikabhāradvāja); về khả năng vượt trội liên quan đến đức hạnhtri kiến của đức Phật so với sáu giáo chủ ngoại đạo thời bấy giờ (Sabhiyasuttaṃ – Kinh Sabhiya); về sự cảm hóatế độ cho xuất gia của Ngài đối với Bà-la-môn Sela cùng với đồ chúng (Selasuttaṃ – Kinh Sela); về sự khẳng định giá trị của con người không phải do nòi giống mà do hành động (Vāseṭṭhasuttaṃ – Kinh Vāseṭṭha); và sự khẳng định của vị ẩn sĩ Asita về việc đức Bồ Tát sẽ chứng ngộ đạo quả vô thượng, sau đó Ngài sẽ tế độ chúng sinh, khi ông ta chiêm ngưỡngxem tướng cho vị hoàng tử lúc còn thơ ấu (Nālakasuttaṃ – Kinh Nālaka).

- Và như đã được đề cập trong phần tài liệu Chú Giải ở trên, có thể nhận thấy tầm quan trọng của Aṭṭhakavaggo – Phẩm Nhóm Tám về mặt tri kiến cũng như về lãnh vực tu tập. Phẩm này trình bày phần giáo lý về các dục và sự đắm nhiễm tham ái của bản thân, từ đó dẫn đến các trạng thái ô nhiễmchấp thủ tà kiến khiến con người không nắm được bản thể thật của thế gian, sanh-già-bệnh-chết, rồi lao vào các cuộc tranh cãi, sanh khởi ngã mạn, và chìm đắm vào trạng thái mê muội, xa lìa sự giác ngộ. Còn phẩm cuối cùng, Pārāyanavaggo – Phẩm Đi Đến Bờ Kia, thuật lại việc đức Phật tế độ Bà-la-môn Bāvari thông qua việc giải đáp những câu hỏi của mười sáu người đệ tử đã được Bāvari phái đến. Về hình thức, Kinh Suttanipātapāḷi – Kinh Tập được viết theo thể kệ thơ (gāthā); tuy nhiên, một số bài Kinh có xen kẽ những đoạn văn xuôi để giới thiệu hoặc để giải thích như Kasībhāradvājasuttaṃ – Kinh Kasībhāradvāja, Parābhavasuttaṃ – Kinh Thoái Hóa, Vasalasuttaṃ – Kinh Người Hạ Tiện, v.v... Phần lớn các kệ ngôn của tập Kinh này được làm theo thể thông dụng gồm có bốn pāda, mỗi pāda gồm có tám âm; tuy nhiên các thể khác phức tạp hơn cũng được tìm thấy. Trong đa số trường hợp, hai dòng kệ ngôn gồm bốn pāda là được hoàn chỉnh về ý nghĩa, nhưng cũng có một vài trường hợp ý nghĩa được nối từ kệ ngôn này sang kệ ngôn khác; trong trường hợp như vậy, có lúc chúng tôi dịch chung các câu kệ có liên quan với nhau nếu vị trí sắp xếp các đoạn văn không thuận tiện, còn đối với những trường hợp khác, chúng tôi sử dụng dấu gạch ngang (–) ở cuối câu kệ trước và ở đầu câu kệ sau để báo hiệu sự tiếp nối.
****

Tạo bài viết
12/07/2016(Xem: 127353)
21/01/2015(Xem: 7122)
07/09/2011(Xem: 101820)
07/09/2011(Xem: 55150)
free website cloud based tv menu online azimenu
Sau những ngày Miến Điện nghỉ Tết, nhóm thiện nguyện Ánh Sáng Từ Bi do Sư Cô Tn Như Hiếu điều hành đã tiếp tục dấn thân cứu trợ. Hôm nay 22. April 2025 chúng con xin tiếp tục tường trình hình ảnh cứu trợ động đất Myanmar đợt 5. Cũng như 4 đợt cứu trợ vừa qua, lần này chúng con cũng kết hợp cùng với chư vị Bhante, chư Tăng Ni VN tại Myanmar (Nhóm thiện nguyện Ánh Sáng Từ Bi, Quỹ Phụng Sự Tâm An, Quỹ Từ Tâm, nhóm Sư Cô Thích nữ Như Hiếu- Suriyavati) Xin tường trình Lộ trình đi cứu trợ miền động đất Myanmar.
Kính gửi : Chư tôn Hòa thượng Trưởng lão,Chư Hòa thượng,Chư Thượng tọa, Đại đức Tăng ni,Quý Phật tử trong vả ngoài nước : THÔNG BẠCH ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PHẬT LỊCH 2569 của HĐGPTƯ Chánh thư ký Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống,Tỳ kheo Thích Đức Thắng
Khởi sự với lòng từ mong muốn đem nguồn nước của đức “Đại Bi” khơi nguồn nơi khô cằn sỏi đá và thiếu nguồn nước vào mùa khô ở Đăk Nông, từ ngày 19 tháng Giêng năm Ất Tỵ (19/2/2025) chúng con đã đi tiền trạm, khảo sát các trường học/ khu dân cư cần giếng nước sạch ở Đăk Nông. Sau khi tiến hành khảo sát đợt 1 vào ngày 19/2/2025 và đợt 2 vào ngày 17/3/2025, chúng con đã chọn lọc trong số các trường đã khảo sát và quyết định tặng 18 giếng nước/công trình lọc nước phèn/máy phát điện cho 20 trường học thuộc tỉnh Đăk Nông (có 4 trường trong cùng khuôn viên đất ở 2 địa điểm sẽ sử dụng chung công trình được tặng).