Ý NGHĨA CỦA BÁT NHÃ TÂM KINH TRONG PHẬT GIÁOTHIỀN TÔNG Daisetz Teitaro Suzuki Bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
I. PHẠN VĂN TÂM KINH BÁT-NHÃ VÀ HÁN DỊCH
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất
về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền
Trang, kinh gồm 262 chữ. Đây là bản lưu hànhphổ biến nhất trong giới Phật
tửNhật bản, Chân ngôn tông (Shingon), Thiên thai tông (Tendai) và Thiền
tông (Zen).[42]
Chủ đích của thiên luận này là khảo sát xem Tâm kinh giữ một địa vị quan
trọng như thế nào trong giáo pháp của Thiền tông. Do đó, cũng nên có một
kiến thức khá về chính bản kinh đó. Vì ngắn, nên dưới đây sẽ giới thiệutoàn
thể nguyên bản Sanskrit cùng với bản Hán dịch của Huyền Trang, kèm theo là
bản dịch Anh ngữ từ nguyên bản Sanskrit.
F. Max Muller đã hiệu đính và ấn hànhTâm kinh Bát-nhã vào năm 1884, từ bản
lá bối cổ lưu trữ ở Nhật.[43]
Nhưng bản dưới đây căn cứ trên bản Phạn Hán[44]
của Huyền Trang với một ít thay đổi dựa trên các bản
Hán dịch khác. Huyền Trang dịch Tâm kinh (Hṛdaya) ra chữ Hán vào năm
649, được soạn tập vào ấn bản Đại tạng kinh Taishō, số hiệu 251,[45]
với bài tựa ngự chế của Vua nhà Minh. Nhưng bản này hình như không được dịch
từ bản Sanskrit của Huyền Trang, số hiệu 256, vì cả hai không phù hợp nhau
mấy.
TÂM KINH LƯỢC BẢN: PHẠN VĂN
VÀ CÁC BẢN HÁN DỊCH
1. Bản Devanāgarī
(Essays III 190)
2. Bản phiên âm
Latin
prajñāpāramitāhṛdayasūtram[46]
[ saṃkṣiptamātṛkā ]
//
namaḥ sarvajñāya //
āryāvalokiteśvarabodhisattvo
gambhīrāṃ[47] prajñāpāramitācaryāṃ[48]
caramāṇo vyavalokayati sma / pañca skandhāḥ, tāṃśca svabhāvaśūnyān paśyati
sma //
iha
śāriputra rūpaṃ śūnyatā, śūnyataiva rūpam / rūpān na pṛthak śūnyatā,
śūnyatāyā na pṛthag rūpam / yad rūpaṃ sā śūnyatā, yā śūnyatā tad rūpam //
evam
eva vedanāsaṃjñāsaṃskāravijñānāni //
iha śāriputra sarvadharmāḥ śūnyatālakṣaṇā anutpannā aniruddhā amalā na
vimalā nonā na paripūrṇāḥ / tasmāc chāriputra śūnyatāyāṃ na rūpam, na
vedanā, na saṁjñā, na saṃskārāḥ, na vijñānāni / na
cakṣuḥśrotraghrāṇajihvākāyamanāṃsi, na rūpaśabdagandharasaspraṣṭavyadharmāḥ
/ na cakṣurdhātur yāvan na manodhātuḥ //na vidyā nāvidyā na vidyākṣayo
nāvidyākṣayo yāvan na jarāmaraṇaṃ na jarāmaraṇakṣayo na
duḥkhasamudayanirodhamārgā na jñānaṃ na prāptir nābhisamayas tasmād
aprāptitvāt[49]//
Khi (1) Bồ-tát Quán Tự tại (Avalokitésvara) thực hànhtu tậpBát-nhã ba-la-mật sâu thẳm,[53]trực nhận rằng, có năm uẩn (skandha)(2); và thấy năm uẩn đó không
có tự tính trong chúng(3).
“Này Xá-lợi-phất (Śāriputra), sắc ở đây là không(4), không là
sắc; sắc không khác không, không không khác sắc; sắc tức thị là không, không
tức thị là sắc. Thọ, tưởng, hành và thức cũng vậy.”
“Này Xá-lợi-phất, hết thảy các pháp ở đây có đặc tướng là không : chúng
không sinh, không diệt; không cấu nhiễm, không khôngcấu nhiễm; không tăng,
không giảm. Vì vậy, này Xá-lợi-phất, trong tính Không không có sắc, không có
thọ, tưởng, hành, thức(5), không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý;
không có sắc(6), thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới(7),
cho đến(8)
không có ý thức giới; không có minh, không có vô minh(9), không
có sự diệt tận của minh, không có sự diệt tận vô minh[54]cho đến không có tuổi già và sự chết, không có sự diệt tận của tuổi già và
sự chết; không có khổ(10),tập, diệt, đạo; không có trí, không có
đắc, và không có chứng,++ bởi vì không có đắc.[55]
Không có những chướng ngại+++ trong tâm của Bồ-tát an trụ
do y chỉ trên Bát-nhã ba-la-mật;[56]
và bởi vì không có những chướng ngại trong tâm mình, Ngài không có sợ hãi,
và vượt ngoài những tà kiếnđiên đảo, đạt đến Niết-bàn. Hết thảy chư Phật
trong quá khứ, hiện tại, và vị lai, do y trên Bát-nhã ba-la-mật, mà chứng
đắcgiác ngộviên mãntối thượng.”
“Vì vậy, nên biết Bát-nhã ba-la-mật là đại thần chú (mantra), là chú của đại
minh huệ, là thần chú cao tuyệt, thần chúvô giá, có thể trừ diệt hết mọi
khổ đau; đó là chân lý vì không sai lầm; đây là thần chú được công bố trong
kinh Bát-nhã ba-la-mật: gate, gate, pāragate, pārasaṅgate, bodhi, svāhā!”
(Này Bodhi, đi qua, đi qua, qua bờ bên kia, qua đến bờ bên kia, Svāha!).
CHÚ THÍCH (Suzuki)
(1) Có hai bản kinh cùng nhan đề là Hṛdaya (Tâm kinh): một bản được
gọi là Lược bản, và bản khác được gọi là Quảng bản. Bản dịch ở trên, của bản
lược, thông dụng ở Trung hoa và Nhật bản.
Đoạn mở đầu của Quảng bản trong nguyên bản Phạn ngữ và Tạng ngữ được tiết
lược trong bản Lược như sau:
[Bản Tạng ngữ có thêm một đoạn: “Kính lễBát-nhã ba-la-mật vượt ngoài
ngôn thuyết, tư tưởng và tán ngữ, vì tự tính như hư không, không sinh, không
diệt, là cảnh giới của huệ và giới, hiển nhiên trong nội tâmchúng ta, và là
mẹ của hết thảy các đấng Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại và vị lai.”] “Tôi
nghe như vậy. Một thời, đức Thế Tôn ngự tại thành Vương xá (Rājagṛha), trên
đỉnh Linh thứu (Gṛdhrakūta), cùng với đại chúng Tì khưu và Bồ-tát. Bấy giờ
đức Thế Tôn nhập vào tam-muội Chánh giácthậm thâm.[57]
Và cùng lúc đó Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại (Āryāvalokiteśvara) đang thực
hànhtu tập trong Bát-nhã ba-la-mậtsâu xa.”[58]
Đoạn kế tiếp, cũng tiết lược trong bản lược, như sau:
“Này Xá-lợi-phất, như thế Bồ-tát phải tự mình thực hành trong Bát-nhã
ba-la-mậtsâu xa.” Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn rời khỏi Tam muội và tán dương
Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại rằng: “Lành thay, lành thay, thiện nam tử! đúng
như vậy! Sự tu tậpBát-nhã ba-la-mật sâu thẳm cần phải được thực hành như
vậy. Đúng như lời ông đã giảng thuyết, các đức Như Lai và
[59]
A-la-hán cũng tán dương như thế.” Đức Thế Tônhoan hỉ nói như thế. Trưởng
lão Xá-lợi-phất và Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại cùng với toàn thểchúng hội,
và thế giới của chư Thiên, loài người, A-tu-la (Asura) và Càn-thát-bà
(Gandharva), tất cả đều ca ngợi lời của đức Thế Tôn.”
(2) Nhìn từ quan điểm khoa học hiện đại, khái niệm về Skandha (uẩn)
có vẻ quá mơ hồ và bất định. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng nguyên tắc phân
tích của đạo Phật không phát xuất từ hứng thú khoa học suông; nó có mục đíchgiải cứuchúng ta ra khỏi ý tưởng về một thực tạicá biệt với ảo tưởng là nó
hiện hữu như thế suốt mọi thời. Vì khi ý tưởng này được nhận làm cứu cánh,
thì vướng mắc phải cái sai lầm của sự chấp trước,và chính do chấp trước đó
đã từng bắt chúng ta làm tôi mọi cho bạo lực ngoại giới. Năm uẩn (skandha)
(các tập hợp thể, hay các yếu tố) là: sắc chất (rūpa), cảm thọ hay
tri giácgiác quan (vedanā), suy tưởng (saṁjñā), tập thành hay
sự tác thành (saṁskāra), và thức (vijñāna). Uẩn thứ nhất là
thế giớivật chất hay chất thể của mọi vật; bốn uẩn còn là thuộc về tâm
giới. Vedanāxuất hiện qua các quan năng của chúng ta; saṁjñā,
suy tưởng hay tư duy (thought) theo nghĩa rộng nhất, không có từ ngữ tương
xứng ở Anh ngữ; hay nó là cái mà tâm phức biến; saṁskāra là một từ
rất khó, không có tương đương trong Anh ngữ; nó chỉ cho cái tạo nên hình
chất, là nguyên lý tạo hình; vijñāna
là thức hay tâm thái. Có những hình thái của tâm thái khá rõ như thấy, nghe,
ngửi, nếm, xúc chạm, và nghĩ tưởng.
(3) Bản dịch của Huyền Trang có thêm: “(Vị ấy) thoát khỏi tất cả khổ ách
度一切苦厄.”
(4) Không (śūnya) hay “tính Không” (śūnyatā) là một trong
những khái niệm quan trọng nhất trong triết lý Đại thừa và đồng thời cũng
gây nhiều rắc rối khó hiểu nhất cho những độc giả ngoài đạo Phật. Tính Không
không có nghĩa là “tương đối tính“ (relativity) hay “hiện tượng tính“
(phenomenality), hay “cái không chi.” (nothingness). Nó chỉ cho Tuyệt đối
thể, hay cái gì có bản tínhsiêu việt, dù nói thế cũng dẫn đến sai lầm như
chúng ta sẽ thấy ở sau. Khi các nhà Phật họctuyên bố hết thảy mọi vật đều
Không, họ không xướng xuất một quan điểmhư vô luận; ngược lại nó hàm ngụ
một thực tạitối hậu, vốn không thể đặt dưới các phạm trù luận lý. Với các
phạm trù đó, nếu nói đến tính cáchhữu vi của vạn hữu thì cũng nói luôn hiện
hữu của cái hoàn toànvô visiêu việt tất cả mọi xác định. Śūnyatā như thế
thông thường cũng được diễn dịch rất chính xác là Tuyệt đối thể. Khi kinh
nói rằng năm uẩn có đặc tướng (yếu tính) là Không (Không tướng), hay trong
tính Không, không có sinh và diệt, không có nhiễm, tịnh, v.v…, thì có nghĩa
rằng: đừng có gán choTuyệt đối thể những phẩm tính quyết định; trong khi nó
tiềm tại trong tất cả mọi vậtthể cụ thể và cá biệt, nó hoàn toàn không thể
định tính. Do đó, phủ định toàn diện trong triết lý Bát-nhã là một hệ quả
tất yếu.
(5) “Không có mắt, tai, v.v…” chỉ cho sáu quan năng. Trong triết họcPhật
giáo, ý thức (manovijñāna) là quan năng đặc biệt để tri nhận các pháp
(dharma) hay các đối tượng của tư tưởng.
(6) “Không có sắc, thanh. v.v…” là sáu phẩm chất của ngoại giới, chúng làm
đối tượng cho sáu quan năng.
(7) “Nhãn giới v.v…,” chỉ cho mười tám giới (dhātu) hay các yếu tố
của hiện hữu, chúng gồm sáu giác năng (indriya: căn), sáu phẩm tính (viṣaya:
cảnh) và sáu thức (vijñāna).
(8) “Cho đến” (Skt: yāvat; Hán: nãi chí 乃至), rất thông dụng trong văn họcPhật giáo dùng để tránh lặp lại
những đề tài đã biết. Những lối phân loại này hơi có vẻ phức tạp và chồng
chéo.
(9) “Không có minh, không có vô minh…” là phủ định toàn bộ 12 chi duyên khởi
(pratītyasamutpāda), gồm vô minh (avidyā), hành (saṁskāra),
thức (vijñāna), danh sắc (nāma-rūpa), sáu xứ (ṣaḍāyatana),
ái (tṛṣṇā), thủ (upādāna), hữu (bhava), sinh (jāti),
già và chết (jarāmaraṇa). 12 chi duyên khởi này đã được các học giảđạo Phậtthảo luận rất nhiều.
(10) Đương nhiên ám chỉbốn Thánh đế (satya): 1. Đời sống là đau khổ
(duḥkha); 2. Do sự tích tập (samudaya) của các nghiệp xấu; 3.
Có thể diệt tận nguyên nhân của khổ (nirodha); 4. Có con đường (mārga)
dẫn tới diệt nguyên nhân của khổ.
2. Việt dịch theo
bản Hán của Huyền Trang
A. Phiên âm
Hán-Việt
Quán Tự tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiếnngũ uẩngiai Không, độ nhất thiếtkhổ ách.
Xá-lợi Tử, Sắc bất dị Không, Không bất dị sắc, sắc tức thị Không, Không tức
thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá-lợi Tử, thị chư pháp Không tướng bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh,
bất tăng, bất giảm; thị cố Không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô
nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn
giớinãi chívô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão
tử diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc. Dĩ vô sở
đắc cố. Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái
ngại cố, vô hữukhủng bố, viễn lyđiên đảomộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn.
Tam thế chư Phật y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố đắc A-nậu-đa-la
tam-miệu-tam-bồ-đề
Cố triBát-nhã ba-la-mật-đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô
thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật, bất hư
cố; thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tức thuyết chú viết: Yết-đế, yết-đế,
ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, Bồ đề, tăng sa-ha.
B. Việt dịch[60]
Bồ-tát Quán Tự tại trong khi thực hànhBát-nhã ba-la-mật-đathậm thâm, soi
thấy năm uẩn đều Không, vượt qua tất cả mọi khổ ách.
Xá-lợi Tử, sắc không khác Không; Không không khác sắc. Thọ, tưởng,
hành, thức cũng vậy. Xá-lợi Tử, đặc tướng Không của các pháp ấy không sinh,[61]
không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm; do đó, trong
Không không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới của con
mắt, cho đến không có giới của ý thức; không có vô minh, cũng không có sự
diệt tận của vô minh, cho đến, không có già và chết, cũng không có sự diệt
tận của già và chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí, cũng không
có đắc. Vì vô sở đắc.
Bồ-đề-tát-đỏa, do y chỉBát-nhã ba-la-mật-đa, tâm không bị bưng kín. Do
không bị bưng kín, nên không có sự sợ hãi, xa lìa tất cả điên đảo và mộng
tưởng, đạt đến Niết-bàn cứu cánh. Chư Phật trong ba đời do y chỉBát-nhã
ba-la-mật-đa mà chứng đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề
Do đó nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa là thần chú vĩ đại, là minh chú vĩ đại,
là chú vô thượng, là chú không gì có thể so sánh, diệt trừ tất cả khổ, chân
thật, vì không hư dối, được gọi là chú Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Tức thuyết chú
rằng: yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề, tăng sa-bà-ha.
* Các chú thích một phần do chính tác giả; một số khác là tham chiếu
của dịch giả. Những chú thích tham chiếu này đều có ghi TS.
[42]
Nhật bản, kinh được gọi là Hannya Shingyô 般若心經 hay nói gọn là
Shingyô 心經. Tại một thiền viện, kinh được tụng trong mọi thời. Có
nhiều bản chú giải và các thiền sư thường cho một khóa giảng về kinh
này.
[43]
Thủ bảnlưu trữ từ năm 609 tại chùa Hôryoji (法隆寺 Pháp long tự), Yamato,
một trong những ngôi chùa tối cổ ở Nhật. Nó khá hấp dẫn về mặt khảo cổ
vì cung cấpchúng ta “dạng bản tối cổ của mẫu tự Sanskrit được dùng cho
các mục đíchvăn học.” Người ta nói thủ bản này được Bồ-đề đạt-ma mang
vào Trung hoa, rồi sau đó tới Nhật bản.
[44]
Bản Phạn-Hán, có nghĩa là bản phiên âm từ tiếng Sankrit sang tiếng Trung
hoa, ấn hành trong Đại tạng Taishô, tập VIII, số hiệu 256: Đường Phạn
phiên đối tự âm Bát-nhã ba-la-mật-đatâm kinh 唐梵翻對字音般 若波羅蜜多心經, Quán Tự tại Bồ tát trực tiếp truyền cho Tam tạng
Pháp sưHuyền Trang bản Phạn không nhuận sắc. TS
[45]
T8n251, tr. 848c4 Bát-nhã ba-la-mật-đatâm kinh
般若波羅蜜多心經, Đường Tam tạngPháp sưHuyền Trang
dịch 唐三藏法師玄奘譯. )
[46]
Phiên âm theo bản Devanāgari của Suzuki, tham chiếu
Mahāyāna-sūtra-saṁgraha, ed. By Vaidya, The Mithila Institute, 1961,
p.97.
[47]
Vaidya: gambjīrāyāṃ. TS
[48]
Vaidya: prajñāpāramitāyāṃcaryāṃ. TS
[49]
Vaidya: na jñānaṁ na prāptitvam. TS
[50]
Vaidya: bodhisattvasya(śca?). TS
[51]
Vaidya: viharati cittāvaraṇaḥ. TS
[52]
Bản Việt này cố gắng dịch sát theo bản Anh làm cơ sở tham chiếu cho các
bản Hán dịch. Các chú thích trong phần cước chú là của người dịch được
đánh dấu hoa Ả-rập (không ngoặc). Một số cước chú của tác giả (Suzuki)
được đánh dấu thập (+). Chú thích của tác giả (Suzuki) được được đánh số
Ả-rập trong ngoặc đơn ghi ở cuối bản dịch Việt này.
+ Có hai điểm đáng lưu ý trong đoạn dịch này: 1) Bản Hán của Huyền
Trang: chiếu kiếnngũ uẩngiai không照見五蘊皆空; bản
Hán của Cưu-ma-la-thập:
chiếu kiếnngũ ấm không 照見五陰空; khác với
lối nói: soi thấy có năm uẩn (ấm) rồi mới thấy tự tánh của chúng là
không. 2) Cả hai bản Hán vừa dẫn đều có câu: vượt qua mọi khổ ách
度一切苦厄, tức nói tới hiệu lực của Bát-nhã. Bản
Sanskrit hiện hành và bản phiên âm Taishô VIII, No 256 đều không có câu
này. TS
[53]
Chữ Hán: thị chư pháp Không tướng 是諸法空相. Phạn:
iha … sarvadharmāḥ
śūnyatālakṣaṇā, “ở đây, tất cả các
pháp vốn có đặc tướng (=yếu tính) là tính không.” Ý nghĩa chữ này, có
thể đọc nơi luận VI, đoạn nói về 8 cái Không. (TS).
[54]
Các bản Hán đã dẫn: vô vô minh, diệc vô vô minh tận 無無明。亦無無明盡, không có vô minh và cũng không có sự chấm dứt của vô
minh. Đoạn dịch trên tương đương với bản phiên âm Phạn Hán đọc được
trong Taishō như sau: na vidyā nāvidya na vidyākṣhayo
nāvidyākṣayo. TS.
++
Nābhisamayaḥ
(không hiện quán hay hiện chứng - TS), không có trong các bản Hán dịch
cũng như trong thủ bản chùa Pháp long.
[55]
Hán: dĩ vô sở đắc cố (Skt. aprāptitvāt),
một số chú giải đặt nhân do này lên đoạn trên như bản dịch Anh; một số
khác đưa xuống đoạn sau. Prāpti (đắc) và aprāpti
(phi đắc) là hai trong số các hành khôngtương ưng tâm (citta-viprayuktāḥ
saṁskārāḥ). Kośa-Bhāṣya, k. ii.
36c-d:
dvidhā hi prāptir
aprāptaviḥīnasya ca lābhaḥ pratilabdhena ca samanvāgamaḥ,
“đắc có hai: 1. sự thu hoạch (thủ đắc) những gì chưa có được hay những
gì đã mất; 2. sự sở hữu (thành tựu, cụ túc) những gì đã có được mà chưa
mất.” Chỉ khái niệm về sự hiện hữu của một phẩm tính nơi một nhân cách.
Nói một người “đắc quả A-la-hán” là khi phẩm tính A-la-hán hiện hữu nơi
vị ấy do đó nhân cách vị ấy được biết như là một Thánh giả A-la-hán.
Trong bản Hán, prāpti
được dịch là sở đắc, “cái được thủ đắc.” TS
+++ Chữ
varaṇa, tất cả các bản Hán đều nói “quái ngại” và như thế hoàn toàn
hợp với giáo pháp của Bát nhã. Max Muller dịch Anh ngữ “envelop”, bao
trùm.
[56]
Hán: Bồ-tát y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố tâm vô quái ngại
依般若波羅蜜多故。心無罣礙: Bồ tát do nương trên Bát-nhã
ba-la-mật-đa nên tâm khôngquái ngại. Skt. bodhisattvasya prajñāpāramitām āśritya
viharato’ cittāvaraṇaḥ, sau khi y
chỉ trên Bát-nhã ba-la-mật-đa của Bồ tát, (vị ấy=hành giả) an trụ với
tâm không bị chướng ngại (trùm kín). TS
[58]
Skt. gambīrayāṁ prajñāpāramitāyāṁ caryāṁ caramaṇo, ngữ pháp, biến
cách số 6, chỉ nơi chốn. Ở đây được hiểu là sự tu tậptrong
Bát-nhã ba-la mật-đa, là sở y chứ không phải đối tượng. TS
[59]
Dịch sát bản Anh: by Tathāgatas and Arhats. Skt.
tathāgatair arhadbhiḥ, trong đây, A-la-hán được hiểu là một phẩm đức
của Như Lai. TS
[60]
Bản dịch Việt này cố dịch sát theo bản Hán, theo sự lãnh hộiphổ thông
để có thể so sánh với một vài dị biệt có thể có trong bản Phạn hiện
hành. TS
[61]
Dịch theo cách ngắt câu khắc: “Xá-lợi-phất, các pháp, mà yếu tính là
Không (Không tướng), vốn không sinh,… „
Tết cổ truyền của dân tộc lại về trên đất nước thân yêu. Trong không khí hân hoan đón chào Xuân Ất Tỵ - 2025, thay mặt Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi gởi lời chúc mừng năm mới đến tất cả các cấp Giáo hội, tới chư Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư, Đại đức Tăng Ni, cư sĩ Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; thân chúc quý vị một năm mới thân khỏe tâm an, cát tường như ý.
QUẬN CAM (VB/PTH) --- Có gì dị biệt giữa Tết Quận Cam và Tết Sài Gòn? Dĩ nhiên là nhiều dị biệt. Và cũng dĩ nhiên là rất nhiều tương đồng. Bởi vì rất nhiều truyền thống đón Tết vẫn còn lưu truyền nơi thủ đô người Việt Hải ngoại.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.