HỎI
Một vị “sư” trong “Tăng Đoàn” đang đi khất thực bộ hành ở Thái Lan nhờ một vị cư sĩ làm giúp visa đi Ấn Độ. Vị cư sĩ này rất hoan hỷ nhận lời và cho biết tốn phí bao nhiêu xin được cúng dường bố thí cho “sư”. Vị “sư” cũng nói thêm rằng “sư” không quan tâm nguồn gốc tiền đến từ đâu miễn là làm Visa đi Ấn Độ là được. Vậy xin hỏi giao dịch này có được xem như là bố thí không và vị sư này có áp dụng đúng tinh thần giáo lý nhà Phật không?
TRẢ LỜI
Trong Phật giáo, việc thực hành bố thí (dāna) đòi hỏi sự chân thành, trong sáng và vô ngã. Tiền bạc hoặc tài sản có được từ những nguồn gốc không chính đáng như tham những, đánh bạc gian lận, trộm cắp hay các hành vi phi pháp khác thì không nên được sử dụng để cúng dường hay bố thí, vì nó không mang lại công đức thực sự.
Về việc bố thí:
1. Nguồn gốc tài sản: Tài sản dùng để bố thí cần phải có nguồn gốc chính đáng và hợp pháp. Tài sản từ nguồn gốc phi pháp không mang lại nghiệp tốt và không giúp người bố thí tích lũy công đức.
2. Tâm từ bi và chân thành: Bố thí cần xuất phát từ tâm từ bi và lòng chân thành, không mong cầu đền đáp hay lợi ích cá nhân.
Về vị sư nhận cúng dường:
1. Đúng tinh thần giáo lý: Một vị sư tuân thủ đúng tinh thần giáo lý Phật giáo nên cẩn trọng với nguồn gốc tài sản mà mình nhận. Nếu biết rõ rằng tài sản đó có nguồn gốc phi pháp, vị sư nên từ chối để duy trì sự thanh tịnh và không ảnh hưởng đến uy tín của Tăng đoàn.
2. Trách nhiệm của Tăng đoàn: Các vị sư có trách nhiệm hướng dẫn và giáo dục người khác sống theo đạo đức và hành động đúng đắn. Việc nhận tài sản phi pháp không chỉ ảnh hưởng đến chính vị sư mà còn có thể tạo ra sự hiểu lầm và bất lợi cho cộng đồng Phật giáo.
Về việc giao dịch này có được xem là bố thí không?
Theo Phật giáo, bố thí (dana) là một hành động cao cả, thể hiện sự từ bi và xả ly. Tuy nhiên, bố thí chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được thực hiện với tâm trong sáng, không vụ lợi và không liên quan đến những hành động bất thiện.
Trong trường hợp vị cư sĩ dùng tiền của mình làm ra một cách bất chính như tham nhũng, trộm cắp hay đánh bạc gian lận để cúng dường cho vị sư để làm visa đi Ấn Độ. Rõ ràng, nguồn gốc của số tiền này không trong sạch, xuất phát từ hành động bất thiện. Do đó, việc cúng dường này không thể được xem là bố thí đúng nghĩa theo giáo lý nhà Phật.
Về việc vị sư có áp dụng đúng tinh thần giáo lý nhà Phật không?
Một vị sư chân chính cần phải tuân thủ giới luật và sống theo tinh thần từ bi, hỷ xả của Phật giáo. Việc vị sư nhận tiền cúng dường mà không quan tâm đến nguồn gốc của nó, thậm chí còn có ý định sử dụng số tiền đó để làm visa, cho thấy vị sư này đã không giữ giới và không tuân theo giáo lý nhà Phật.
Theo Phật giáo, tiền bạc có được từ những hành động bất thiện không nên được sử dụng cho bất kỳ mục đích nào, kể cả việc tu hành. Việc vị sư nhận tiền cúng dường từ nguồn gốc không rõ ràng và sử dụng nó cho mục đích cá nhân là đi ngược lại tinh thần của đạo Phật.
Đối với tài sản nói chung và tài thí nói riêng, gọi chung là vật bố thí. Phật giáo quy định rất cụ thể về việc hình thành tài vật và sử dụng tài vật, nhất là vật bố thí để tạo nên công đức của người bố thí và người nhận bố thí. Trong kinh Tăng Chi bộ, tập 4, Phật dạy: “tìm cầu tài sản đúng pháp, tìm cầu tài sản không dùng sức mạnh, chia sẻ tài sản và làm các công đức (bố thí), hưởng thọ tài sản không tham đắm không có mê loạn”. Như vậy, theo Phật giáo, tài sản phải được tạo lập một cách chính đáng, bằng nghề nghiệp chính đáng, không dùng sức mạnh đế cướp đoạt, không dùng xảo trí để lừa lọc, không dùng quyền chức để tham ô, không dùng các điều kiện không trong sạch để đánh đổi, hay dùng các tà mạng để có được. Thêm nữa, tài sản đó phải được thừa kế, được tặng cho, được trao quyền sử dụng một cách hợp pháp, chính đáng và phải được pháp luật bảo hộ. Khi đó, tài sản mang dâng cúng mới trở thành thanh tịnh tài thí.
Khi mang ra bố thí, tài vật đó được đặt trong mối quan hệ với người bố thí và người nhận bố thí. Trong quan hệ ấy, tùy vào điều hiện của bên cho và bên nhận mà tài thí liên đới và mang ý nghĩa thanh tịnh hay không thanh tịnh. Cũng theo kinh Tăng Chi bộ, Đức Phật dạy rằng: “Có bốn loại thanh tịnh thí vật. Thế nào là bốn? Có bố thí, thanh tịnh từ người cho, không thanh tịnh từ người nhận. Có bố thí, thanh tịnh từ người nhận, không thanh tịnh từ người cho. Có bố thí, không thanh tịnh từ người cho, cũng không thanh tịnh từ người nhận. Có bố thí, thanh tịnh từ người cho, cũng thanh tịnh từ người nhận”. Như vậy, tùy vào người cho và người nhận có giới, có thiện pháp hay không có giới, không có thiện pháp mà hành động bố thí, vật bố thí trở thành thanh tịnh hay bất tịnh. Phật nhấn mạnh loại thứ tư: “Người bố thí có giới, theo thiện pháp, và người nhận cũng có giới, theo thiện pháp. Như vậy là thanh tịnh vật thí, người cho thanh tịnh và người nhận cũng thanh tịnh”. Đây chính là hình thức bố thí mà Phật giáo chủ trương. Trong hình thức bố thí này, cả người cho, người nhận và vật thí đều thanh tịnh. Chỉ có như thế công đức, lợi ích và phúc báo của hành động bố thí mới được thành tựu viên mãn và mới thể hiện chân giá trị.
Nói tóm lại, theo tinh thần Phật giáo, để thành tựu pháp hành bố thí thì cả ba đối tượng đều phải thỏa mãn các tiêu chí cụ thể: người bố thí phải thanh tịnh,vô cầu; người nhận bố thí phải thanh tịnh, có thiện pháp; và vật bố thí phải thanh tịnh, được tạo lập chính đáng. Khi đó, bố thí mới đúng chánh pháp và có lợi lạc.
- Từ khóa :
- Bố Thi