Thư Viện Hoa Sen

Sự Kiện 30 Tháng 4: Nhìn Lại 30 Năm Cuộc Chiến (1945-1975) | Nguyễn Văn Hòa

25/04/20254:27 SA(Xem: 1943)
Sự Kiện 30 Tháng 4: Nhìn Lại 30 Năm Cuộc Chiến (1945-1975) | Nguyễn Văn Hòa

 

NHÂN SỰ KIỆN 30 THÁNG 4:
NHÌN LẠI 30 NĂM CUỘC CHIẾN (1945-1975)

 

nhin lai cuoc chien 30 nam 


Tôi sinh ra ở miền Bắc Việt Nam vào mùa Thu năm 1943. Năm 1954 theo cha mẹ trốn thoát cộng sản, di cư vào miền Nam. Khi Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi vượt thoát cộng sản một lần nữa qua Hoa Kỳ. Như vậy tôi đã lớn lên và trưởng thành trong bối cảnh của một đất nước loạn ly, phải truân chuyên theo vận nước nổi trôi suốt 32 năm trời.

Cho đến nay (2025), tôi đã sống yên bình ở nước ngoài đúng nửa thế kỷ, được tiếp thu nhiều nguồn thông tin đã giải mật về cuộc chiến tranh Việt Nam, từ các kho dữ liệu quốc gia của Mỹ và các thư viện đại học Hoa Kỳ. Nửa thế kỷ không phải là quãng thời gian quá dài, nhưng cũng đủ để nhìn lại một chặng đường đã qua, nhằm đánh giá các sự kiện lịch sử, đã xảy ra một cách tương đối trung thực, không bị ảnh hưởng bởi bất cứ một luồng tư tưởng và chính kiến nào, và cũng không bằng tình cảm yêu thương hay hận thù, vì thời gian đã nhạt nhòa phôi pha.

****

Các dữ kiện lịch sử cho biết rằng nước tôi đã bị Pháp đô hộ gần 100 năm, chính xác là 90 năm, bắt đầu từ khi tiếng đại bác của tướng thực dân Pháp Rigault de Genouilly liên kết với quân Tây Ban Nha bắn vào thương cảng Sơn Trà, Đà Nẵng vào rạng sáng ngày 1 tháng 9 năm 1859.

Tám mươi năm sau, vào khoảng năm 1939, chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, đất nước tôi lại thay ngôi đổi chủ, Nhật Bản đã giành quyền kiểm soát hoàn toàn Đông Dương từ tay người Pháp vào tháng 3 năm 1945 và tạo ra một chính quyền “độc lập” rất ngắn ngủi ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hoàng đế Bảo Đại, tuy nhiên, quyền lực này chỉ là trên danh nghĩa, và Việt Nam vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Nhật Bản cho đến khi Nhật Bản đầu hàng vào ngày 14 tháng 8 năm 1945. Tuy nhiên, sau sự đầu hàng của Nhật Bản, quyền lực thực sự ở Việt Nam nhanh chóng được âm thầm chuyển giao lại cho các nhóm dân tộc chủ nghĩa, trong đó có một liên minh các tổ chức đảng phái chính trị tên là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, thường gọi tắt là Việt Minh.

Việt Minh đóng vai trò quan trọng trong công cuộc kháng chiến chống Pháp và Nhật. Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc vào năm 1945, họ đã tận dụng thời cơ để tuyên bố sự độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.

Tuy nhiên, sự độc lập này không được Pháp công nhận. Để giảm căng thẳng, Hồ Chí Minh đã ký kết Hiệp định Sơ bộ Pháp-Việt vào ngày 6 tháng 3 năm 1946. Mặc dù vậy, mâu thuẫn giữa hai bên vẫn leo thang, dẫn đến Hiệp định chính thức ngày 14 tháng 9 năm 1946 thay thế Hiệp định Sơ bộ. Khi tranh chấp không được giải quyết, quân đội Pháp tái chiếm Việt Nam nhằm giành quyền kiểm soát, khơi mào cuộc chiến tranh Đông Dương kéo dài gần 10 năm từ 1946 đến 1954. Cuộc chiến kết thúc với thắng lợi của Việt Minh tại Trận Điện Biên Phủ lịch sử vào năm 1954, dẫn đến Hiệp định Geneva và sự chia cắt tạm thời Việt Nam thành hai miền riêng biệt: Bắc Việt và Nam Việt.

 

Tưởng cũng nên mở ngoặc nói thêm một vài chi tiết lịch sử ở đây. Sau khi chiến thắng quân đội Pháp tại Đông Dương vào tháng 3 năm 1945, Nhật đã chính thức trao trả quyền độc lập cho Việt Nam. Trong bối cảnh này, Vua Bảo Đại, lúc đó là người đứng đầu chính phủ Việt Nam dưới sự ủng hộ của Nhật Bản, đã tuyên bố sự độc lập của Việt Nam, kết thúc hiệp ước bảo hộ với Pháp.

Tuy nhiên, điều này cũng phần nào thể hiện sự phụ thuộc vào Nhật Bản, vì quyền lực thực sự vẫn nằm trong tay họ. Vua Bảo Đại sau đó đã cố gắng tìm kiếm sự hỗ trợ từ các cường quốc khác, bao gồm cả Hoa Kỳ, nhằm khẳng định và bảo vệ sự độc lập mới mà Việt Nam vừa giành được.

Vào thời điểm đó, Vua Bảo Đại đã gửi một công hàm đến Tổng thống Mỹ là Harry Truman, ngỏ ý muốn thiết lập mối quan hệ và cũng hy vọng Mỹ sẽ giúp đỡ Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền độc lập trước sự can thiệp của Pháp.

Vua Bảo Đại, người cai trị cuối cùng của triều đại Nguyễn ở Việt Nam, đã thoái vị vào ngày 25/8/1945. Sau đó một tuần, vào ngày 2/9/1945 ông Hồ Chí Minh, lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch của Chính phủ Lâm thời Cách mạng Việt Nam, đọc tuyên ngôn độc lập trước hàng vạn người dân trong một cuộc biểu tình tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (sau này là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Sau khi tuyên bố độc lập đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chính thức gửi nhiều công hàm ngoại giao cho tổng thống và ngoại trưởng Hoa Kỳ ngỏ ý muốn thiết lập bang giao với Mỹ. Bất hạnh thay cho Việt Nam, Mỹ đã khước từ và tiếp tục ủng hộ đồng minh của mình là Pháp. Thế là cuộc chiến với thực dân Pháp kéo dài thêm gần 10 năm, cho đến ngày 20 tháng 7 năm 1954. Và cuộc chiến dai dẳng này chính thức kết thúc vào ngày 30 tháng Tư năm 1975 khi chính phủ cộng sản miền Bắc mở cuộc tổng tấn công miền Nam. Như thế đất nước tôi đã trải qua 30 năm chiến tranh.

Tưởng cũng cần nói thêm ở đây, ngày 2/9/1945 là dấu ấn lịch sử quan trọng của nước tôi. Ông Hồ đã biến nước tôi thành một nước theo chủ nghĩa cộng sản. Đa số người dân miền Bắc lúc ấy nghĩ rằng ông Hồ Chí Minh là người yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc. Ông chỉ dùng chủ nghĩa cộng sản như là phương tiện để đạt được cứu cánh giải phóng dân tộc. Điều này đã không đúng. Ông đã được huấn luyện để trở thành người cộng sản chuyên nghiệp vì nhiều tài liệu giải mật lưu trữ tại thư viện cộng sản ở thủ đô Moskva cho biết ông đến Moskva vào tháng 6 năm 1923 và đã theo học 2 năm tại trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông (The Communist University of the Toilers of the East, KUTV) từ tháng 10 năm 1923 đến tháng 6 năm 1925. Tại đây, ông được đào tạo lý luận chủ nghĩa Marx - Lenin, lịch sử cách mạng, công tác vận động quần chúng, và các kỹ năng lãnh đạo khác. Trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông đóng vai trò quan trọng trong việc định hình tư tưởngsự nghiệp cách mạng của ông. Tại đây, ông đã được huấn luyện để trở thành một người cộng sản chuyên nghiệp quốc tế, không những để lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam mà còn giúp cho các nước khác sau này. Ông cũng được trả lương hàng tháng và sinh hoạt đều đặn trong tổ chức Đệ Tam Quốc tế cộng sản.

 

****

 

Sau gần 100 năm đất nước tôi bị Pháp đô hộ và thêm 20 năm hai miền Nam Bắc đánh nhau, số người Việt Nam ở cả hai bên thiệt mạng lên tới khoảng ba triệu người. Đất nước và tài sản của dân chúng cả hai miền đều bị chiến tranh tàn phá đến mức độ chưa từng thấy trong lịch sửcho đến nay vẫn còn những di hại của bom, mìn chưa nổ và chất thuốc khai quang.

Đối với riêng tôi, măc dầu cuộc chiến ban đầu là cuộc chiến chống thực dân Pháp đầy lý tưởng và chính nghĩa, nhưng tôi nghĩ rằng cuộc chiến tranh 30 năm này (từ năm 1946 đến năm 1975), không gì khác hơn là cuộc nội chiến giữa những người Việt Nam với nhau trước là tranh dành quyền lực giữa những người lãnh đạo các tổ chức chính trị, sau là do ý thức hệ khác biệt, ý thức hệ quốc gia và ý thức hệ cộng sản. Đó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn, anh em mỗi người mỗi chiến tuyến. Mặc dù người Mỹ, người Tầu và người Nga là những thủ phạm chính, lịch sử đã ghi nhận có trên 300 ngàn quân lính Trung cộng và hàng ngàn quân Nga đã trực tiếp tham chiến, nhưng người Việt mới là số đông đã chẳng những không thương xót nhau mà còn quay ra thẳng tay giết hại lẫn nhau. 

****

Ngày 20-7-1954, Hiệp định đình chiến Genève được ký kết. Theo đó, Việt Nam sẽ tạm thời bị chia cắt bằng ranh giới là vĩ tuyến 17 để quân đội hai bên tập kết. Quân đội Pháp sẽ rút khỏi Việt Nam và trao quyền quyết định vận mệnh dân tộc cho người Việt Nam. Một năm sau đó sẽ tiến tới việc giao thương kinh tế và một năm sau nữa sẽ tiến hành tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Thế nhưng trình tự đó không bao giờ xảy ra vì bộ chính trị đảng cầm quyền miền Bắc đã cử đại tướng Nguyễn Chí Thanh bí mật vào Nam năm 1959 ra lệnh cho Trung ương Cục miền Nam đóng ở giữa rừng sâu trong chiến khu Đ, thuộc địa phận tỉnh Phước Thành công bố một tổ chức, tên được bộ chính trị miền Bắc chọn sẵn là “Mặt trận Dân tộc Giải Phóng Miền Nam” để phát động cuộc kháng chiến lần thứ hai chống Mỹ-Diệm. Thế là cuộc chiến bùng nổ, biến miền Nam trở thành hỏa ngục từ đấy.

 

Thật bất hạnh cho Việt Nam, số phận của quê hương tôi đã được an bài trên bàn hội nghị, bởi các nước lớn trên thế giới hay cũng có thể đó là nghiệp quả từ quá khứ của cả một dân tộc phải gánh chịu, khi đất nước chúng tôi bị rơi vào thế gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ trên toàn thế giới, giữa chủ nghĩa độc tài chuyên chính cộng sản và chủ nghĩa tự do tư bản hình thành sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Người Việt Nam chúng tôi, dù muốn hay dù không muốn cũng đều bị cuốn hút vào trong cuộc đấu tranh ý thức hệ này. Miền Bắc Việt Nam đứng về phe xã hội chủ nghĩa do Trung Quốc và Liên Xô lãnh đạo, mà chủ yếu là Trung Quốc. Miền Nam Việt Nam đứng về phe dân chủ tự dotư bản chủ nghĩa đứng đầu là Hoa Kỳ.

 

Mặc dầu cuộc chiến Việt Nam có thể được coi là cuộc nội chiến ngay từ những năm đầu thập niên 1940 nhưng về sau nó được tiếp tay bởi Hoa Kỳ đến hai lần. Hoa kỳ đã viện trợ quân sự cho thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tại Việt Nam mà không đáp ứng lời cầu cứu khẩn thiết của cựu hoàng Bảo Đại và ông Hồ Chí Minhlúc ấy ông Hồ Chí Minh là Chủ tịch một liên minh chính trị phức tạp trong đó gồm cả các thành phần quốc gia trí thức yêu nước và cộng sản gọi là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội. Liên minh muốn Việt Nam được tự trị, độc lập và liên kết với Mỹ, Anh và Ấn Độ. Thế là đất nước tôi lại tiếp tục bị Pháp đánh phá nhà tan cửa nát thêm 10 năm nữa cho đến ngày 20 tháng 7 năm 1954 mới chấm dứt bởi hiệp định đình chiến Geneve tạm chia đôi đất nước. Có người cho rằng thời kỳ này vẫn là thời kỳ kháng chiến chống Pháp và 20 năm tiếp theo đó là cuộc kháng chiến chống “đế quốc” Mỹ. Nhưng cũng có người cho rằng cuộc nội chiến chỉ xảy ra khi đất nước bị chia đôi vào năm 1954 như một bài hát của họ Trịnh “Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu. Một trăm năm đô hộ giặc Tây. Hai mươi năm nội chiến từng ngày...”.

 

Như thế, cuộc chiến trên đất nước tôi đã diễn ra liên tục suốt 30 năm từ năm 1946 đến năm 1975, trải qua hai giai đoạn từ 1946 đến 1954 và từ 1954 đến 1975. Cuộc chiến này có thể gọi bằng nhiều tên khác nhau, với những ý nghĩa khác nhau tùy quan điểm chính trị hay góc nhìn của mỗi người và của mỗi bên tham chiến. Dù gọi bằng tên gì đi nữa, khổ thay cho đất nước tôi, đã có khoảng 3,8 triệu người dân Việt vô tội đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong các cuộc lùng diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Riêng Ngũ Giác Đài Mỹ ước tính khoảng 950.000 quân nhân Bắc Việt và hơn 200.000 quân nhân VNCH đã ngã xuống ngoài chiến trận, cộng thêm 58.000 quân nhân Hoa Kỳ thiệt mạng nữa. Đó là chưa kể đến 300.000 người Việt mất tích ngoài biển Đông trên đường đi tìm tự do sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

 

***

Hồi tưởng lại, nếu như Hoa Kỳ hồi đó không nghe lời thuyết phục đường mật của chính phủ Pháp và thuận theo quan điểm của các nhà ngoại giao trong Cơ quan Tình báo Chiến lược Mỹ OSS rằng Hoa Kỳ nên theo phe chống thực dân, từ khước ủng hộ việc Pháp tái chiếm thuộc địa mà chuyển qua giúp đỡ cho Việt Minh, nhất là cứu đói đồng bào miền Bắc trong trận đói tháng 3 năm Ất Dậu; và nếu như (cũng lại nếu như) ông Hồ là người yêu nước, yêu dân tộc thực sự và không phải là đảng viên nồng cốt của đảng cộng  sản quốc tế thì biết đâu tình trạng hiện thời của một nước Việt Nam lẽ ra đã có tự dodân chủ và tiến bộ từ đó. Và đâu có cảnh người dân phải tháo chạy kinh hoàng đến hai lần “một lần cha bỏ xứ năm 1954, và một lần con bỏ nước năm 1975(lời của một bản hát).

 

Rồi sau hội nghị Geneve 1954, mặc dầu Mỹ không ký vào hiệp định nhưng Mỹ lại chính thức can thiệp vào chính quyền miền Nam Việt Nam một cách thô bạo. Qua sự đề bạt của Hồng Y Francis Spellman, Mỹ đã đưa ông Ngô Đình Diệm đang tu tại một chủng viện Thiên Chúa Giáo ở New York về làm Thủ tướng rồi sau đó ông Diệm truất phế Quốc trưởng Bảo Đại lên làm Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Sách lược của Mỹ lúc bấy giờ là muốn dùng miền Nam Việt Nam làm con đê để ngăn chặn làn sóng cộng sản lan tràn xuống phía Nam, đặc biệt là vùng Đông Nam Á theo học thuyết Domino, để rồi 20 năm sau, sau khi Tổng thống Nixon đi Bắc Kinh gặp Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai vào tháng 2 năm 1972. Ông Nixon đã đảo ngược chính sách “ngăn chặn Trung Quốc”, biến đổi Trung Quốc từ thù thành bạn. Hoa Kỳ quyết định giao hảo với Bắc Kinh và từ từ rút ra khỏi miền Nam Việt Nam, và khi bắt tay được với ông Mao Trạch Đông thì buông tay ông Nguyễn Văn Thiệu. Mỹ đã chính thức bỏ rơi miền Nam Việt Nam từ đó (năm 1972) vì quyền lợi kinh tế và chính trị của hai nước Mỹ và Trung Quốc

 

Nhìn lại giai đoạn lịch sử này, chúng ta thấy rằng việc mất miền Nam không phải do miền Nam nhu nhược, không phải do quân đội miền Nam thiếu khả năng chiến đấu mà là do sự phản bội của nước bạn “đồng minh”. Hoa Kỳ đã bỏ rơi VNCH từ năm 1972 và đã bội ước không ngăn chặn cuộc tấn công miền Nam của lực lượng cộng sản miền Bắc sau khi ký kết hiệp định Paris năm 1973. (Tài liệu chiến tranh Việt Nam đã được giải mật ghi rằng Hoa Kỳ đồng ý với Lê Đức Thọ là sẽ không yêu cầu lực lượng Bắc Việt rời khỏi miền Nam thể hiện qua văn bản Hiệp định Hòa bình không có điều khoản quân đội miền Bắc phải rút quân khỏi miền Nam.) Tương tự như Hoa Kỳ đã bỏ rơi Afghanistan năm 1981 và đang bỏ rơi Ukraine.

 

****

Phải công tâm mà nói rằng, miền Bắc đã chiến thắng miền Nam năm 1975 nhưng không phải trên chiến trường mà nhờ vào yếu tố tâm lý chán chiến tranh của nhân dân Mỹ, nỗi mỏi mệt của quần chúng và phong trào phản chiến càng ngày càng lớn mạnh cùng với áp lực chính trị ngay trong lòng tòa Bạch Ốc ở Washington, D.C. và nhất là tham vọng chính trị cá nhân của Henry Kissinger muốn bỏ rơi VNCH như "món quà tặng" nhằm lấy lòng Trung Quốc, mở ra chiến thắng chính trị và thương mại cho Mỹ với thị trường rộng lớn 1,4 tỷ dân Trung Hoa. Thêm vào đó Henry Kissinger, gốc người Do Thái muốn Hoa Kỳ cắt đứt quan hệ với Việt Nam mà dồn nỗ lực giúp Do Thái chống lại khối Ả Rập.

 

Ngày nay, người Việt Nam cộng sản và không cộng sản đều đã có nhiều kinh nghiệm về tình bạn hợp tác với các nước bạn, các nước gọi là anh em của mình để thấy rằng đồng minh hay bạn bè nào cũng chỉ ủng hộ một nước bạn chừng nào sự ủng hộ ấy phù hợp với lợi ích riêng của họ chứ không phải vì cùng theo đuổi một lý tưởng chung. Chính Thủ tướng Anh Lord Palmerston từng có câu nói để đời: “Không có bạn bè vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn. Chỉ có quyền lợi là vĩnh viễn”. Đó cũng là chính sách cố hữu của Hoa Kỳ từ xưa đến nay. Điều này đang thể hiện rõ rệt khi Mỹ đảo ngược chính sách biến đổi Việt Nam từ thù thành bạn khi hai nước nâng cấp quan hệ lên tầng cao nhất là chiến lược toàn diện . Trong chiến lược này thì đối với Hoa Kỳ, Việt Nam lại trở về chỗ đứng là “địa điểm chiến lược quan trọng nhất ở Đông Nam Á.”

 

Cổ nhân Đông phương cũng có câu “Thương hải tang điền” tức ruộng dâu biến thành biển xanh, và nhà Phật nói “cuộc đời vô thường” ý nói về sự vô thường của thế gian, sự thay đổi qua bốn tiến trình mà bản thân không thể kiểm soát hay thay đổi. Đó chính là Thành – Trụ - Hoại – Không và sinh, lão, bệnh, tử. Còn nhà triết học phương Tây Heraclitus đã từng khẳng định “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông” để nói về dòng đời luôn trôi chảy theo những biến thiên của cuộc sống. Cuộc sống vô thường, luôn chứa đựng những điều bất ổn, còn bước đi của lịch sử thì luôn song hành với nhịp sống của thời gian. Do đó, mọi mối liên hệ giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định nào đó, con người cần phải học cách thay đổi để thích nghi và để mối quan hệ giữa con người với con người sẽ được biến thiên theo dòng chảy của cuộc đời.

 

Thật đau khổ cho dân tộc Việt Nam, cho quê hương thân yêu của tôi, các nhà lãnh đạo cả hai miền đã không thích nghi được với hoàn cảnh, đã không có tầm nhìn xa ở cả hai phía: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa đã không vận dụng mọi nỗ lực để tự quyết, tự chủtự lực và tự cường cho mảnh đất mình cai trị, để đến nỗi bị các nước lớn bắt nạt, đàn áp và bị ép buộc phải quy hàng theo ước muốn của họ. Hy vọng Việt Nam ngày nay sẽ đứng vững với chính sách ngoại giao cây tre để không bị các cường quốc bắt nạt, bắt quỳ gối quy hàng.

Trích từ tập hồi ký “Vượt Thoát” sắp xuất bản

(Nguyễn Văn Hòa)

(30/4/2025)

Tạo bài viết
21/01/2018(Xem: 22452)
12/10/2016(Xem: 20412)
26/01/2020(Xem: 13426)
12/04/2018(Xem: 21553)
06/01/2020(Xem: 12108)
24/08/2018(Xem: 10567)
12/01/2023(Xem: 5027)
28/09/2016(Xem: 26108)
free website cloud based tv menu online azimenu
Thầy Chân Pháp Từ nói với tôi rằng đạo tràng Tâm Kim Cương do thầy đứng đầu, tổ chức pháp thoại vào chiều ngày thứ năm, và trung bình có khoảng 30, 40 người Việt trẻ tuổi tham dự.
Sáng ngày 5 tháng 5 năm 2025, đoàn chúng tôi theo chân TS Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch Công ty sách Thái Hà, đơn vị vừa xuất bản cuốn sách “Thánh đế Thánh đạo – Lời Phật dạy trực chỉ đến giải thoát” đến gặp riêng Đại lão Hòa thượng Tỳ kheo Bodhi, tác giả của chính cuốn sách này. Chúng tôi vô cùng hân hạnh và xúc động ngay từ khi chuẩn bị đi, khi đến nơi, lúc ngồi đợi, khi ngài bước ra gặp và trong quá trình bên Ngài.
Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, chư Phật tử và quý đồng hương hảo tâm Từ thiện. Hôm nay 29. April 2025 chúng con xin tiếp tục tường trình hình ảnh cứu trợ động đất Myanmar đợt 6. Sau thời gian cứu trợ thực phẩm, thuốc men, tiền bạc cho Chư Tăng Ni & người dân Miến mua nhu yếu phẩm, đến nay mọi thứ tạm ổn định Hội từ thiện chúng con tiếp tục chung tay với chư Tăng Ni cứu trợ tại Myanmar lo xây dựng những ngôi nhà tre nứa cho chư Tăng và người dân có chỗ trú ngụ, tu hành..