Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 45)

15/06/201312:00 SA(Xem: 13656)
Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 45)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 45)


Pháp Sư Tịnh Không

 

“Tùy thời ngộ nhập Hoa Nghiêm tam muội”

Hoa Nghiêm tam muộipháp giới nhất chân, cũng là chân tâm của chính mình. Đại đức xưa đã giải thích một cách đơn giản danh tướng này nhưng chúng ta nghe vẫn không hiểu. Cái gì gọi là pháp giới, cái gì gọi là tự tâm, cái gì gọi là liễu đạt, nếu bạn không làm rõ thì đối với những danh tướng thuật ngữ bạn không thể không nghi hoặc, từ đó không có các thọ dụng khác.

Đạo tràng chúng ta gần đây đang giảng kinh Hoa Nghiêm, cho nên đọc đến câu này, tôi nghĩ các đồng tu cũng không quá xa lạ. Thế nhưng rốt cuộc cái gì gọi là Hoa Nghiêm tam muội? Việc này cho dù chúng ta không thể ngộ nhập nhưng ít nhiều cũng hiểu một chút, ít nhất nó thuộc về thường thức Phật học. Đơn giản thiết yếu hơn, đại đức xưa từng nói: “Nhất chân pháp giới, duy thị tự tâm”. Thấu hiểu tám chữ thì gọi là Hoa Nghiêm tam muội.

Nghe có vẻ đơn giản, văn từ bình thường, không chữ khó nhưng ý nghĩa ẩn chứa bên trong thì người sơ học không dễ gì hiểu. Bạn đương nhiên cũng không hiểu được, bởi vì nếu hiểu thì bạn liền vào Hoa Nghiêm tam muội, còn không hiểu chứng tỏ bạn chưa ngộ nhập. Giống như câu trong thiền tông: “Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, ý nghĩa hoàn toàn tương đương tám chữ này. Tông môn nói: “Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật” không dễ hiểu. Giáo hạ thì tám chữ: “Nhất chân pháp giới, duy thị tự tâm”, cách nói dường như dễ hiểu hơn một chút nhưng kỳ thực vẫn khó hiểu. Độ khó của nó so với tám chữ của tông môn không cao không thấp.

Phật pháp thường hay nói đến tự tánh, các vị đều nghe qua rất nhiều, “chân như bổn tánh”. Tịnh Độ tông chúng ta gọi là nhất tâm. Danh tướng thuật ngữđại kinh tùy tiện lật vài trang cũng có thể tìm được mười mấy cho đến mấy mươi từ, thực ra đều nói lên một sự việc. Vậy vì sao một sự việc lại nói thành nhiều danh từ đến vậy? Do Thích Ca Mâu Ni Phật phương tiện khéo léo. Ý nghĩa là cho chúng ta biết, danh từ thuật ngữ không nhất định, chỉ cần chỉ ra một sự việc, còn nói cách nào cũng được. Cách giảng của Thế Tôn mục đích phá chấp trước của chúng ta. Đó là trí tuệ chân thật. Bệnh của chúng ta hầu như ở chấp trước. Nếu phá trừ chấp trước thì kiến giải, nhận biết của chúng ta liền không hề khác biệt với chư Phật, liền vào được cảnh giới của Phật. Tuy nhiên, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước không dễ gì đoạn. Chúng ta tiếp nhận và thể hội bốn mươi chín năm khổ tâm thiện xảo trong giảng kinh nói pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật, sau đó mới có thể học tập. Nếu ngay đến thể hội còn không thể thì chúng ta học từ đâu? Còn một ý nữa.

Lý về chân tướng vũ trụ rất sâu, ý nói bản thể. Lý sâu, sự rộng và phức tạp. Phật dạy chúng ta quan sát từ mọi mặt mới thấy sự phức tạp của hiện tượng. Do đó đổi mỗi mặt, mỗi góc độ khác nhau, Ngài liền dùng một danh từ khác để chúng ta tổng hợp các danh từ thuật ngữngộ nhập thật tướng của nó. Đây là cách khéo léo nói pháp. Trong chú giải kinh Hoa Nghiêm của đại sư Thanh Lương xác định tám chữ này rất đáng để chúng ta thưởng thức: “Nhất chân pháp giới, duy thị tự tâm”. “Tự” là chân tâm chính mình, nhất chân pháp giới cũng là chân tâm của chính mình. Vậy mười pháp giới y chánh trang nghiêm là gì? Chúng ta từ tám chữ này liền thể hội rằng “mười pháp giới duy thị vọng tâm”. Vọng tâm của chúng ta biến hiện ra mười pháp giới, chân tâm của chúng ta biến hiện ra pháp giới nhất chân. Phật xác quyết chân, vọng không hai. Bạn hiểu chân vọng không hai thì bạn đương nhiên tường tận nhất chân pháp giới cùng mười pháp giới cũng không hai. Đó là chân tướng sự thật. Thế nhưng rất khó để tường tận.

Vì sao hư không pháp giớitự tâm của chúng ta? Không luận chân tâm vọng tâm, vọng tâm chỉ là một cái tâm, còn chân tâmtự tâm, lìa khỏi tự tâm thì không có pháp giới. Đó là lý do tại sao Thế Tôn suốt bốn mươi chín năm vì chúng sanh nói tổng cương lĩnh của tất cả pháp. Phật nói tất cả kinh đều từ tám chữ này. Tám chữ là cội nguồn của Phật pháp. Pháp giới bao gồm nguyên lý, nguyên tắc, hiện tướng, chuyển biến, nhân quả. Tự tâm là năng hiện, năng biến. Pháp giới là sở hiện, sở biến. Chúng ta phải tỉ mỉ thể hội ý nghĩa sự tướng. Thể hội không được thì phải thường giữ nghi tình mà đưa ra tham vấn.

Kinh Phật có hai câu: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Pháp giới nhất chân cùng mười pháp giới y chánh trang nghiêmduy tâm sở hiện, trong đó trùng trùng biến hoáduy thức sở biến. Thức là vọng tâm, tâm là chân tâm. Thức từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà ra. Vọng tâm không lìa chân tâm, lìa khỏi chân tâm thì làm gì có vọng tâm? Kinh Lăng Nghiêm nói: “Vọng tâm như mặt trăng thứ hai, ấn mắt nhìn trăng thứ hai”, nhưng chúng ta vẫn không dễ gì hiểu được ý, vì sao vậy? Nếu bạn chân thật hiểu thì ý niệm phải trái nhân ngã của bạn hoàn toàn không có. Cho nên nếu bạn chân thật tường tận, chân thật hiểu thì trên hiện tướng này, bạn sẽ không giống như người thông thường, không giống người không hiểu. Những người không hiểu đều có “ngã”, ngày nay chúng ta gọi là ý niệm tự tư tự lợi. Người thật hiểu rõ thì quyết không có ý niệm của cái ngã, không có ý niệm tư riêng mà khởi tâm động niệm thảy đều vì chúng sanh, vì pháp giới. Vì cả thảy hư không pháp giới là chính mình, bạn sẽ tuyệt đối không đem cái thân này cho là chính mình, không đem cái nhà này thành của mình. Tận hư không khắp pháp giới là mình, lúc đó bạn liền thật hiểu rõ, đích thực tự tâm biến hiện ra.

Tuy nhiên, khi chúng sanh nghe hiểu lời giáo huấn của Phật Bồ Tát nhưng tại sao họ không thể ngộ nhập? Vì phiền não tập khí từ vô lượng kiếp đến nay, mê hoặc điên đảo chướng ngại cửa ngộ của họ, bế tắc cửa ngộ nên họ không thể ngộ nhập. Phật bốn mươi chín năm giảng kinh, nói tất cả pháp không ngoài sự việc này. Người thượng căn lợi trí nghe Phật nói pháp lập tức ngộ nhập, đại triệt đại ngộ. Người hạ hạ căn nghe xong không cầu hiểu sâu, cũng không nghi hoặc, Phật nói thế nào họ tin và hành theo thế đó, vậy cũng rất đáng yêu và đương nhiên họ có thể thành tựu. Người căn tánh trung đẳng nghe thì phiền phức liền to, càng nghe càng mê hoặc, càng nghe vấn đề càng nhiều, cho nên Thế Tôn phải mất bốn mươi chín năm để giải thích, thảy đều vì người căn tánh trung đẳng.

Chúng ta cũng từ chỗ này thể hội lòng đại từ đại bi tột đỉnh của Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài không sợ phiền phức mà tường tận đến giải thích cho chúng ta. Rõ ràng nhất, đại biểu cụ thể nhất chính là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh, nói rõ tám chữ. Nếu chúng ta thật không thể thể hội, thì Phật lại dùng tỷ dụ giải thích, chẳng hạn dùng “mộng huyễn bào ảnh” làm thí dụ nhiều nhất, hoặc dùng giấc mộng để thí dụ.

Chúng ta ai ai cũng có kinh nghiệm nằm mộng, nên Phật dùng cảnh mộng làm thí dụ. Khởi mộng là tâm, tâm này dù chân hay vọng cũng không nên nghiên cứu. Hiện tại người nước ngoài cho rằng cái mộng này là hạ ý thức. Tuy nhiên, hạ ý thức vẫn là tâm, tâm hay khởi mộng.

Cảnh giới trong mộng là tướng phần, có năng có sở. Năng khởi mộng, cảnh mộng biến hiện ra tướng, vậy có phải là hiện tướng hay khởi mộng của cái tâm đó không? Chúng ta phải cố gắng suy nghĩ. Giả như bạn vừa trong mộng tỉnh giấc, bạn sẽ không ngại ngồi trên gường nghĩ lại về cảnh giới trong mộng vừa rồi, mộng đó vì sao có? Tướng cảnh giới trong mộng rốt cuộc vì sao mà hình thành? Nghĩ về những điều này thường xuyên, bạn liền sẽ khai ngộ. Đó là Phật pháp.

Chúng ta biết, tâm không có tướng. Vì không có tướng nên nó mới hiện tướng, nếu nó có tướng thì nhất định không thể lại hiện tướng, đạo lý này trên kinh Hoa Nghiêm nêu rất rõ ràng. Hiện tại chúng ta vẫn chưa nói đến, đó chính là chân khôngduyên khởi. Vì tâm không có tướng nên mỗi buổi tối nằm mộng, tướng cảnh giới trong mộng không như nhau. Ngay khi trong mộng hiện ra cảnh giới chính là tâm của bạn đã biến thành tướng. Cái tướng đó như thế nào? Tướng của cảnh giới trong mộng, tướng cùng tánh là một không phải hai. Việc này cũng rất khó hiểu. Đại đức xưa giảng một thí dụ giúp chúng ta thể hội được ý này.

Lấy vàng làm món đồ đem thí dụ cho tự tánhnăng biến. Dùng vàng tạo ra một hình tướng thì cái tướng đó là sở biến. Nói cách khác, chúng ta có một đống vàng ròng. Hôm nay chúng ta đem đống vàng tạo thành tượng Bồ Tát Địa Tạng, nó liền hiện ra tướng. Thử hỏi cái tướng cùng cái tánh này là một hay hai? Tôn tượng Bồ Tát Địa Tạng cùng với khối vàng ròng là một hay hai? Nếu bạn trả lời là một, thì chúng tôi thấy tượng của Bồ Tát Địa Tạng nhưng không thấy vàng. Nếu chỉ xem thấy khối vàng ròng thì không có tượng Bồ Tát Địa Tạng. Hiển thị sự thật này không chỉ có một cũng không phải hai, nên không thể nói nó là một, cũng không thể nói nó là hai. Nếu bạn nói là một, rõ ràng tướng cùng tánh là hai sự việc. Nếu bạn nói nó là hai, vàng cùng món đồ đích thực là một không phải hai; lìa khỏi món đồ thì không có vàng. Cho nên chân tướng sự thật không hai không khác, đó mới là chân tướng của nó. Hy vọng mọi người tỉ mỉ thể hội, không thể nói một, cũng không thể nói hai; không thể nói giống nhau, cũng không thể nói khác nhau, phải xem bạn từ góc độ nào để quan sát. Cho nên cái tánh này hoàn toàn biến thành tướng.

Hồi tưởng lại cảnh mộng, trong cảnh mộng, tâm chúng ta hoàn toàn biến thành cảnh giới trong mộng, cũng giống như vàng hôm nay tạo thành hình tượng Bồ Tát Địa Tạng. Cho nên Phật nói hiện tướng này gọi là “toàn chân tức vọng”, bởi vì tướng là hư vọng, tướng không vĩnh viễn tồn tại, Phật pháp gọi chân vọng. Vọng tức tạm thời, chân tức vĩnh viễn bất biến. Tánh là chân, tướng là vọng. “Toàn chân tức vọng”, cả thảy cái tâm, chân tâm năng biến đã biến thành tướng phần trong mộng. Vậy tâm của bạn giống như cái gì? Cảnh giới trong mộng chính là dáng vẻ của tâm bạn, là tướng phần của tâm. Chân vọng không hai, tánh tướng là một. Nếu bạn ở trong mộng bỗng chốc hiểu rõ thì cả thảy cảnh mộng chỉ là tự tâm. Trong mộng cũng giống như pháp giới, lìa khỏi tự tâm làm gì còn cảnh giới. Cho nên trong mộng nhất định có chính mình, có con người của ta, hoặc giả thấy rất nhiều người, cũng thấy sơn hà đại địa, y chánh trang nghiêm.

Nếu bạn đã tường tận giác ngộ rồi thì lại hỏi, trong mộng có pháp nào không phải tự tâm của bạn? Đích thực cả thảy cảnh mộng, y chánh trang nghiêm của cảnh mộng là chính mình, là tự tánh. Chư Phật Bồ Tát nói đại triệt đại ngộ là ngộ cái gì? Ngộ sự việc này, thấu suốt tận hư không khắp pháp giới do chân tâm biến hiện. Ngoài tự tâm, không pháp nào làm được. Phàm phu mê cái gì? Cũng mê sự việc này, không biết hư không pháp giới y chánh trang nghiêm do tự tâm biến hiện, không biết tất cả vạn sự vạn vậttự tánh. Như vậy, chính mình không qua được chính mình, ngoài ra, còn không qua được với bất cứ ai. Trong khi thực tế thì mười phương ba đời tất cả chư Phật Bồ Tát đều là chính mình.

Trên kinh không phải thường dạy các vị niệm A Di Đà Phật tự tánh Di Đà, chính là Di Đà từ trong tâm của bạn biến hiện ra, chứ làm gì có Di Đà ngoài tâm. “Duy tâm Tịnh Độ” có nghĩa thế giới Tây Phương Cực Lạc trang nghiêm duy tâm biến hiện, nhất định không có Tịnh Độ ngoài tâm, không có Di Đà ngoài tâm. Di Đà như thị thì tất cả chư Phật Như Lai chẳng phải như thị hay sao. Tất cả Bồ Tát như thị, thậm chí đến ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục, có pháp nào không như thị? Sau khi bạn chân thật giác ngộ thì đó gọi là “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi”, không phải tự nhiên lưu xuất ra hay sao? Quan tâm chúng sanh, cúng dường chư Phật, có thứ nào lìa khỏi chính mình? Chân thật thông đạt thấu hiểu gọi là Hoa Nghiêm tam muội.

Tam muội” là chánh thọ. Cảnh giới của “Hoa Nghiêm” quá lớn, bao hàm cả tận hư không khắp pháp giới. Hiện tại chúng tôi cũng đang giảng kinh Hoa Nghiêm. Trong phần tựa, các vị xem thấy đại chúng dự pháp hội vô lượng cõi Phật vi trần số. Từ này để hình dung số người ngồi trong pháp hội là tất cả chúng sanh phân làm nhiều chủng loại khác nhau, giống như từng xã đoàn, vô lượng vô biên. Ý đó có nghĩa là cả thảy hư không pháp giới cũng chính là nói: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, luôn không bao giờ rời khỏi tâm tánh. Cho nên toàn bộ kinh từ đầu đến cuối đều dạy bạn ngộ nhập, đó là nét đặc sắc của bộ kinh này, mỗi câu mỗi chữ đều giúp bạn ngộ nhập. Nếu bạn nghe phần trên mà không ngộ thì cũng không lo, phía sau vẫn còn nhiều cơ hội. Một biến không thể ngộ nhập thì thêm một biến nữa. Mục đích giúp đỡ chúng ta chân thật nhận biết chân tướng của vũ trụ nhân sanh, nhận biết bổn lai diện mục của chính mình. Nhà Thiền giảng “mặt mũi vốn có trước khi cha mẹ sanh ra”, nên giáo học của Phật pháp không gì khác hơn giúp chúng ta nhận biết chính mình.

Hoa” là thí dụ, nguyên văn tiếng Phạn là “tạp hoa nghiêm sức”, ý nói pháp hộipháp môn tượng trưng cho một vườn hoa rất lớn. Phẩm loại hoa cỏ trong vườn đều tròn đầy như nhau không hề kém khuyết, gọi là tạp hoa.

Nghiêm” là trang nghiêm, trang nghiêm tự tánh, trang nghiêm pháp giới. Nó có hai tầng ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất là trang nghiêm tự tánh, hiển thị tánh, có năng lực biến hiện ra cảnh giới. Tầng ý nghĩa thứ hai là trang nghiêm đời sống của chúng ta. Đời sống vật chất, đời sống tinh thần đạt đến mỹ mãn, người hiện tại gọi là chân thiện mỹ huệ.

Do đó, Hoa Nghiêm tam muội đơn giản chỉ là nương duyên khởi của pháp giới nhất chân vô tận. Các vị phải ghi nhớ, “pháp giới nhất chân” trong Hoa Nghiêmchân như bổn tánh, cũng là lý “nhất tâm bất loạn” trong Tịnh Độ tông. Danh từ không như nhau nhưng ý nghĩa cảnh giới hoàn toàn như nhau.

Phật dạy làm thế nào để niệm Phật? Kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng ta: “Phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm”, kinh A Di Đà dạy chúng tanhất tâm hệ niệm”. Bản dịch của đại sư La Thập dịch thành “nhất tâm bất loạn”, bản dịch của đại sư Huyền Trang là “nhất tâm hệ niệm”. Bạn xem, chú trọng chủ yếu chữ “nhất”. Còn chúng ta học Phật lại thường lơ là chữ “nhất” nên học rất khổ, tốn nhiều thời gian, tinh thần mà vẫn không thể vào được cửa. Quả thực không có kỳ hẹn khi nào vào. Tâm của bạn “nhất” thì liền vào được. Còn nhị tâm thì không vào. Bạn muốn nhập môn, thiền tông gọi là kiến tánh, tịnh tông gọi là nhất tâm bất loạn, chỉ nhất tâm mới được vào.

Cái gì là “nhất tâm”? Một tạp niệm cũng không có, vì một tạp niệm thì tâm không nhất. Sự việc này nói thì dễ nhưng làm không dễ. Theo kinh nghiệm tu học, chúng ta hiểu rõ nhất tâm khoảng thời gian ngắn thì được nhưng thời gian dài thì không được, do xen tạp vọng tưởng. Đại đức xưa đúc rút ra sự thật: “Đọc kinh không bằng đọc chú, đọc chú không bằng niệm Phật”. Tụng kinh quá dài nên khi tụng rất dễ khởi vọng tưởng. Chú ngắn hơn kinh thì cơ hội khởi vọng tưởng tương đối ít, nhưng vẫn dễ khởi vọng tưởng. Ví dụ Chú Đại Bi, mọi người đọc thuần thục hơn tám mươi câu nhưng từ đầu đến cuối có chắc bạn không một vọng niệm nào hay không? E rằng vẫn một hai vọng tưởng. Các vị phải biết, xen tạp một hai vọng niệm thì Chú Đại Bi sẽ không linh. Nên không thể nói Chú Đại Bi không linh, mà bởi vì bạn xen tạp vọng tưởng. Do đó đọc chú không bằng niệm Phật.

Niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật. Trong sáu chữ, đích thực vọng niệm không thể xen tạp vào, nên sáu chữ này hiệu quả hơn nhiều so với niệm chú. Nếu thấy sáu chữ vẫn còn hơi nhiều thì bốn chữ A Di Đà Phật cũng có thể thành công.

Tôi truyền cho các vị đồng tu cách mười niệm, chính là mười câu A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật,... mười lần, trong đó không một vọng niệm. Không nên sợ rằng thời gian quá ngắn, thực tế chỉ cần một hai phút là có hiệu quả. Mỗi ngày tu thêm vài lần, niệm nhiều hơn vài biến thì hiệu quả càng tăng. Bởi vì bạn một lòng chuyên niệm, bạn không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Mười câu không gián đoạn phù hợp với Bồ Tát Đại Thế Chí từng nói “tịnh niệm tương tục”.

Tịnh niệm là không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Cộng tu và tự tu không giống nhau. Trong cộng tu, vọng tưởng sẽ giảm, còn tự tu vọng tưởng sẽ nhiều. Nhất là niệm Phật đường của chúng ta trên lầu bốn. Có đồng tu đến nói với tôi, bước vào niệm Phật đường xem thấy thảy đều là Phật, dường như chính mình cũng là Phật vậy. Thế thì tốt! Bạn khởi lên ý niệm đó là Phật niệm. Bạn không khởi các vọng niệm khác, đó là tương ưng. Còn khi bạn ở nhà niệm Phật thì không tương ưng. Vì phàm phu như chúng ta thường bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh, nên chúng tôi cung cấp cho các vị hoàn cảnh niệm Phật, để Phật đến ảnh hưởng bạn, không để các thứ khác ảnh hưởng bạn. Xây niệm Phật đường làm tăng thượng duyên cho mọi người, đạo lý chính ngay chỗ này. Hay nói cách khác, niệm Phật đường này chính là Hoa Nghiêm tam muội, cho nên nhất định phải nương vào nhất tâm và nương vào chân tánh.

Vô tận duyên khởi ám chỉ tận hư không khắp pháp giới, tất cả cõi nước chư Phật y chánh trang nghiêm đều từ nhất tâm mà biến hiện. Cái nhất tâm này của chính mình. Có lẽ bạn lập tức hoài nghi tâm mình làm gì lớn mạnh đến như vậy? và rằng “Tôi thật có thể biến hay sao? Vậy tôi muốn biến một con bò, nhưng tại sao nghĩ thế nào cũng không biến ra?”Từ đó lại khởi vọng tưởng, thành ra ba đời chư Phật đều bị hàm oan. Tâm này rốt cuộc như thế nào, ở nơi đâu, bạn hãy trở về đọc kinh Lăng Nghiêm sẽ biết.

Trong kinh Lăng Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật hỏi A Nan tôn giả tâm ở đâu? A Nan trả lời bảy chỗ, Phật đều lắc đầu phủ định. A Nan vốn dĩ cho rằng mình rất thông minh, nhưng khi bị Phật hỏi mới biết mình vẫn còn phàm phu sanh tử, mê hoặc điên đảo, không biết thứ gì. Ông quay lại thỉnh giáo với Phật, xin Phật chỉ dạy rốt cuộc tâm ở chỗ nào. Thích Ca Mâu Ni Phật liền giảng một đoạn dài, mười lần hiển kiến, nói rõ căn tánh sáu căn chính là tâm của chính mình. Có sáu căn tánh nhưng chỉ nói một căn, đó là tánh thấy của nhãn căn. Một căn thông suốt thì căn tánh năm căn còn lại đều là chân tâm. Đó là hiện tượngchân vọng không hai”.

A Lại Da thứcvọng tâm, thiền tông thì cho rằng A Lại Da Thứcchân vọng hòa hợp, vì sao? Thể của A Lại Da thứcchân tâm, hiện tướng tác dụng của A Lại Da Thức lại là vọng tâm, nên chân vọng hòa hợp không hề lìa nhau. Cũng giống như dùng vàng làm món đồ. Vàng cùng món đồ không rời nhau, hai mà không hai, đó mới là chân tướng sự thật. Phật hy vọng chúng ta hiểu rõ đạo lý, cho thấy hư không pháp giới là chính mình. Nếu nói hư không pháp giới cùng chính mình đồng một thể, thì chỗ này chỉ có thể nói là gần kề, ngay giữa vẫn có một cách biệt. Hư không pháp giới là chính mình vẫn còn một tầng cách biệt. Khi thấy hư không pháp giới là chính mình, không có chút ngăn cách nào thì chúng ta mới hiểu rõ vì sao Thích Ca Mâu Ni Phật giảng trong kinh Hoa Nghiêm rằng: “Tình dữ vô tình đồng viên chủng trí”.

Câu nói này rất khó hiểu, chỉ có người vào được Hoa Nghiêm tam muội mới gật đầu, còn người chưa vào được thì càng nghe càng mê hoặc. Chân thật hiểu, gọi là “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”, kinh Bát Nhã nói đó là vào được căn bản trí, hoặc thuộc về căn bản trí. Rồi từ nơi đây khởi hành. Chân tướng sự thật hoàn toàn thông đạt tường tận thì khởi hành của bạn đương nhiên không như nhau. Khởi hành là gì? Kinh điển Phật giảng, Như Lai cùng những vị đại Bồ Tát trong mười pháp giới tùy loại hoá thân, tùy cơ nói pháp, chính là họ khởi hành.

Các đồng tu nhất định phải chú ý, người triệt để giác ngộ được gọi là Phật, người giác ngộ nhưng vẫn chưa triệt để thì gọi là Bồ Tát. Cho nên Bồ Tát tuy chân thật giác ngộ nhưng chưa đạt đến cứu cánh viên mãn. Mặc dù vậy, họ vẫn có năng lực tùy loại hóa thân. Chúng ta xem kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát Viên Giáo Sơ Trụnăng lực này, đáng dùng thân gì để độ thì họ liền hiện ra thân đó, giống như năm mươi ba vị đồng tham phần sau kinh Hoa Nghiêm. Năm mươi ba vị thị hiện đều là người phàm, nam nữ già trẻ các ngành các nghề đều có, đó chính là đời sống xã hội hiện thực của chúng ta. Những người này thông minh, không như chúng ta hiện tại một ngày từ sớm đến tối trải qua đời sống hồ đồ, không biết chút gì đối với chân tướng sự thật, cho nên trong tâm đầy vọng tưởng, lo lắng, phiền não. Nhưng người minh bạch thì thảy đều không như vậy.

Người minh bạch đến giúp người không minh bạch, gọi là Bồ Tát độ hoá chúng sanh. Bồ Tát là người minh bạch. Độ hoá là giúp đỡ chúng ta giác ngộ. Thế nhưng khi họ giúp, chúng ta có thể giác ngộ không? Không nhất định, vì căn tánh của người không như nhau. Người căn tánh lanh lợi rất dễ dàng, các Ngài vừa giúp thì họ liền giác ngộ. Còn người độn căn thì rất khó, không dễ gì. Những ai có căn tánh lanh lợi? Thành thật mà nói, phàm hễ người không quá tính toán, tâm phân biệt rất nhạt, tâm chấp trước cũng rất nhạt, bất cứ việc gì lớn hoá nhỏ, nhỏ hoá không, không ảnh hưởng gì, loại người này dễ khai ngộ trong pháp đại thừa. Ngược lại, phàm hễ tính toán từng li, phân biệt chấp trước, người này Phật Bồ Tát xem thấy rất khó dạy, kinh Địa Tạng gọi là “can cường nan hoá”.

May mà Phật Bồ Tát độ chúng sanh, các Ngài không vội vàng. Đời này không thể thành tựu thì đợi đến đời sau, đời sau không thể thành tựu thì đợi đến đời sau nữa. Cho dù chúng sanh đọa vào cõi nào, các Ngài đều rõ ràng tường tận. Chúng ta đời này ở cõi người, Ngài biến ra một người đến giúp chúng ta. Tuy ta không tiếp nhận nhưng cũng nghe qua không ít, như vậy trong A Lại Da Thức đã trồng được thiện căn. Đời sau giả như chúng ta làm không tốt, bị đọa vào cõi súc sanh, thì Phật Bồ Tát lại sẽ biến thành súc sanh để làm bạn với chúng ta, ngày ngày giảng kinh nói pháp cho chúng ta nghe.

Trong súc sanh cũng có Bồ Tát đang giảng kinh nói pháp. Chẳng phải các vị thường hay nghe nói, súc sanh cũng niệm Phật, cũng vãng sanh, cũng đứng mà ra đi. Chư Phật Bồ Tát mãi mãi không rời khỏi chúng sanh, “Phật thị môn trung, bất xả nhất nhân”. Thế nhưng có một điều kiện, đó là phải có ý niệm cầu giác ngộ thì Phật mới không bỏ bạn, mới mãi mãi đi theo giúp đỡ bạn. Nếu bạn không có ý niệm cầu giác ngộ thì Phật đành ở bên cạnh mà nhìn, chờ đợi đến lúc nào bạn có ý niệm thì Ngài mới đến. Không phải Ngài không từ bi mà vì bạn không muốn giác ngộ, không muốn thoát sanh tử ra ba cõi, không muốn thành Phật. Điểm này gọi là vạn hạnh, hoặc trang nghiêm quả Phật. Vô tướngthể hiện ra tất cả tướng, tùy cơ giáo hoá, tùy cơ nói pháp, tùy loại hiện tướng. Đây là ý nghĩa của Hoa Nghiêm, trang nghiêm tự tánh, trang nghiêm pháp giới, trang nghiêm chúng sanh.

Nhất tâm tu học gọi là tam muội, dành cho người sơ học chúng ta. Chúng ta nhất tâm tu học thì gọi là Hoa Nghiêm tam muội. Ở đây, chúng ta phải ứng dụng một cách cụ thể, phải thực tiễn ngay trong cuộc sống, tu Hoa Nghiêm tam muội bằng cách y theo phương pháp lý luận của kinh Hoa Nghiêmtu học, khế nhập cảnh giớikinh Hoa Nghiêm đã nói. Bạn phải vào cảnh giới mới được. Có thể cho rằng tôi đang khuyên bạn tu Hoa Nghiêm tam muội? Không sai, tôi khuyên các vị tu Hoa Nghiêm tam muội, nhưng chân thật phải y theo kinh Hoa Nghiêm mà tu. Bạn xem, chúng ta giảng qua kinh Hoa Nghiêm từ đầu đến cuối một lần. Hiện tại tôi dự định giảng năm năm, nhưng giảng phần đầu thì bạn không biết được phần sau; giảng đến phần sau thì bạn quên hết phần trước; không cách gì để tu. Vậy, còn một phương pháp tốt nhất, đến niệm Phật đường trên lầu bốn niệm A Di Đà Phật, đó chính là cách viên mãn tròn đầy Hoa Nghiêm tam muội.

Kinh Hoa Nghiêm đến sau cùng kết quy lại thành kinh Vô Lượng Thọ. Bồ Tát Phổ Hiền mười đại nguyện vương quy về Cực Lạc. Cho nên đại đức xưa gọi kinh này là trung bổn Hoa Nghiêm là rất có đạo lý. Kinh này tóm lược nội dung kinh Hoa Nghiêm, là tinh hoa của kinh Hoa Nghiêm. Bộ kinh càng lớn càng rối rắm, trong khi chân thật nói đến tu hành thì càng đơn giản càng tốt. Đơn giản đến sau cùng chỉ còn bốn chữ A Di Đà Phật. Bốn chữ này là Hoa Nghiêm tam muội. Nếu bạn tụng đến công phu thành khối, niệm đến nhất tâm bất loạn, thì bạn liền ngộ nhập Hoa Nghiêm tam muội.

Rất nhiều đồng tu niệm Phậtniệm Phật đường, cảnh giới không tệ, đều đã ngộ nhập, nhưng họ không biết đó là Hoa Nghiêm tam muội. Khi nói ra họ mới biết họ đã vào Hoa Nghiêm tam muội. Hoa Nghiêm tam muội có cạn có sâu. Hiện tại chúng ta vào được cạn,chưa đủ độ sâu. Nếu đủ sâu sẽ giống chư Phật Bồ Tát, tùy loại hoá thân, tùy cơ nói pháp. Tuy không thể giống chư Phật Bồ Tát tự tại như vậy, nhưng chúng ta ngay đời này cũng đạt quả vị gần giống, người thông thường hay nói “thấy người nói tiếng người, thấy quỷ nói lời quỷ”, lời bạn nói ra đều có đạo lý, đều khiến người nghe giác ngộ.

“Cụ túc tổng trì bách thiên tam muội”

Bách thiên tam muội, vô lượng tam muội, đó là dụng, cũng giống như kinh Bát Nhã đã nói là Bát Nhã vô tri. Vô tricăn bản trí, còn Hoa Nghiêm tam muộicăn bản. Lại nói “vô sở bất tri”. Vô sở bất tri là đức dụng, đức năng của nó, chính là tùy loại hoá thân, tùy cơ nói pháp. Tuy tùy loại hoá thân, tùy cơ nói pháp, nhưng trong lòng một chút ô nhiễm cũng không hiện hữu, gọi là Bách Thiên tam muội hay vô lượng tam muội.

Tổng trì” là Đà La Ni môn theo tiếng Phạn. “Trì” ngày nay chúng ta gọi là nắm lấy. Ý nghĩa của “tổng trì” là nắm lấy tổng cương lĩnh, tổng nguyên tắc. Tổng trì của chúng tapháp môn tổng trì giáo hoá chúng sanh. Có nghĩa là bạn đạt năng lực giúp đỡ và dạy bảo đối với chúng sanh chín pháp giới, từ pháp giới Bồ Tát xuống đến pháp giới địa ngục. Đối với chúng sanh chín cõi, bạn đều có năng lực, trí tuệ, có phương tiện khéo léo để giúp đỡ họ. Như vậy, bạn chân thật đạt được pháp môn tổng trì, tức Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh.

Chúng ta đã biết, kinh Vô Lượng Thọtinh hoa của kinh Hoa Nghiêm. Nếu bạn nắm vững kinh Vô Lượng Thọ thì ắt hẳn sẽ biết. Thế nhưng, kinh Vô Lượng Thọ vẫn rất dài. Từ xưa đến nay, tổ sư đại đức cho rằng bốn mươi tám nguyện ở phẩm thứ sáu “Phát đại thệ nguyện” giữ vai trò tổng trì của bộ kinh. Các tổ sư đại đức cũng đã công nhận, trong bốn mươi tám nguyện thì nguyện thứ mười tám quan trọng nhất. Hay nói cách khác, pháp môn tổng trì trong bốn mươi tám nguyện chính là nguyện thứ mười tám, nói về “Mười niệm ắt sanh”. Sau cùng qui kết đến danh hiệu công đức không thể nghĩ bàn. Cứ như vậy mà qui nạp lại thì pháp môn tổng trìdanh hiệu A Di Đà Phật.

Bạn nhất tâm xưng niệm, không vọng tưởng, không phân biệt, không chấp trước, thì lúc này nhất tâm của bạn không có giới hạn, tâm của bạn tận hư không khắp pháp giới. Còn nếu có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì tâm của bạn liền nhỏ, liền có giới hạn. Cho nên khi bước vào niệm Phật đường phải buông bỏ vạn duyên, buông bỏ tất cả thân tâm thế giới, đều không cần nghĩ tưởng, chỉ nhất tâm xưng danh. Tâm này là chân tâm tận hư không khắp pháp giới, sức mạnh không thể nghĩ bàn. Bạn nhất tâm niệm thì bạn liền tâm tâm tương ưng với chư Phật Như Lai.

Phần trước chúng ta đã dùng sóng điện để làm thí dụ, “nhất tâm xưng niệm” tần suất tương đồng với tần suất của chư Phật Như Lai, tự nhiên sẽ liên kết thành một thể như kênh đài liên thông nhau. Thông rồi thì gia trì, chư Phật Như Lai gia trì, bảo hộ bạn. Điều đó có nghĩa, sóng của tâm chúng ta tương đồng với sóng tâm của Ngài, nhưng chỉ cần có chút vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì không thông. Nguyện thứ mười tám nhấn mạnh ý này.

Như vậy chúng ta nắm rõ đỉnh cao nhất của Phật pháp, nắm chắc được pháp môn tổng trì cao nhất. Đến niệm Phật đường duy trì câu Phật hiệu thì còn gì bằng. Câu Phật hiệu chính là bốn mươi tám nguyện. Bốn mươi tám nguyện chính là kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ chính là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh. Kinh Hoa Nghiêm chính là tất cả pháp mà bốn mươi chín năm Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên giảng.

Vì sao người ở nơi khác niệm Phật và người ở niệm Phật đường này thọ dụng không như nhau? Đạo lý gì vậy? Thực tế có rất nhiều người niệm Phật hiểu rõ đạo lý này. Người minh bạch đang niệm Phật khác với các niệm Phật đường khác. Tuy niệm A Di Đà Phật nhưng đối với đạo lý của A Di Đà Phật lại hàm hồ rối rắm không rõ ràng. Cũng làm ra vẻ niệm, âm thanh niệm cũng không sai nhưng tần suất không như nhau nên không thể tương thông. Nơi đây ngày ngày giảng kinh, ngày ngày giảng đạo lý nên niệm Phật đường này thọ dụng khác hơn, đó là điểm khác biệt về từ trường, chúng ta ở đây đang phát sóng âm, sóng điện không như nhau. Cũng giống như xem truyền hình, ở đây không có nhiễu sóng, bạn đến đây xem hình ảnh rất rõ ràng, còn đến nơi khác xem cũng có thể thấy nhưng hình ảnh đó chỉ mờ mờ ảo ảo vì nhiễu sóng. Nhiễu sóng là do tất cả chúng sanh nghĩ tưởng xằng bậy. Nơi đây mọi người niệm Phật đều dùng tâm thanh tịnh, nên không bị quấy nhiễu. Vừa bước vào niệm Phật đường, bạn liền cảm thấy hoan hỉ, tâm địa rất thanh tịnh.

Nhiều đồng tu ở nơi khác đến đây niệm Phật, khi trở về muốn xây dựng một niệm Phật đường giống nơi này để mọi người cùng nhau niệm. Tuy nhiên, hiệu quả vẫn kém hơn một bậc. Phải mỗi ngày giảng kinh, ngày ngày khế nhập, giải hành tương ưng mới được. Chỉ có hành môn mà thiếu giải môn thì vẫn có phiền não. Đại sư Thanh Lương từng nói trong kinh Hoa Nghiêm Sớ Sao rằng “giải không hành thì tăng thêm tà kiến, có hành không giải thì tăng thêm vô minh”. Nhất định giải hành phải tương ưng. Ưu điểm của đạo tràng chúng ta ở chỗ giải hành tương ưng.

Có lẽ đồng tu nghe thấy hoài nghi, vì nghe nói ngày trước niệm Phật đường của lão pháp sư Ấn Quang không có giảng kinh, chỉ một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Thời đại của lão pháp sư Ấn Quang khác thời chúng ta, căn tánh của chúng ta không giống họ. Vào lúc đó, người bước vào niệm Phật đường tuy không hiểu sâu đạo lý nhưng họ không có vọng tưởng. Họ chân thật buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, nhất tâm bước vào niệm Phật đường niệm Phật, vậy thì không cần phải giảng kinh. Nếu nghi hoặc của chúng ta nhiều, phân biệt nặng, chấp trước sâu, bạn không ở trong kinh giáo để tiêu trừ hóa giải loại tâm này thì bước vào niệm Phật đường cũng không có lợi ích. Con người, thời điểm, nơi chốn không như nhau, vì vậy vào lúc đó loại phương pháp của Ngài Ấn Quang khế hợp với căn cơ thời đại đó. Nhưng ngày nay, phương pháp của Ngài không thể khế hợp với căn cơ đại chúng. Nếu cố dùng thì hiệu quả nhận được kém xa không thể so sánh với thời đại trước. Nguyên tắc trên kinh này là tùy cơ nói pháp, tùy cơ ban giáo. Phương thức ban bố giáo hoá không giống thời trước. Phương thức đó của Ngài đem áp dụng vào hiện tại chúng ta thì người được lợi ích sẽ ít. Còn loại phương pháp hiện tại của chúng ta nếu đem về quá khứ của Ngài thì không những không có lợi ích mà còn gây thêm phiền phức. Cho nên nhất định phải hiểu khế cơ khế lý, đó mới là phương tiện khéo léo.

Trong “Bách thiên tam muội”, chúng ta phải đơn giản giải thích. Tam muội này cùng ý nghĩa của Hoa Nghiêm tam muội không như nhau. Hoa Nghiêm tam muội trực tiếp có thể gọi là chánh thọ, thế nhưng chánh thọ có cạn sâu rộng hẹp không đồng. Hoa Nghiêm tam muộiđạt đến cứu cánh viên mãn. Chỉ cần ngộ nhập Hoa Nghiêm tam muội thì người đó trở thành Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát, tịnh độ tông gọi họ là lý nhất tâm bất loạn, không phải là sự nhất tâm. Lý nhất tâm bất loạn mới là Hoa Nghiêm tam muội, còn sự nhất tâm bất loạn thì không phải. Cho nên ý nghĩa của tam muội trong Hoa Nghiêm tam muội rất sâu, còn ý nghĩa tam muội trong Bách thiên tam muội thì cạn, hiện tại chúng ta có thể học tập.

Đơn giản mà nói thì “thiện tâm nhất xứ trụ bất động” gọi là tam muội. Tiêu chuẩn của thiện ở đâu? Chúng ta dùng năm giới mười thiện đơn giản nhất của nhà Phật, tâm tuyệt đối không dao động. Trong tất cả thời, tất cả nơi, tất cả hoàn cảnh nhân sự và hoàn cảnh vật chất đều bất biến, bạn phải kiên trì giữ lấy.

- “Thân” không sát sanh, không trộm cắp, đồng tu tại gia không tà dâm.

- “Miệng” không vọng ngữ, không hai chiều, không ác khẩu, không thêu dệt.

- “Ý” không tham, không sân, không si.

Bạn cứ kiên trì mười thiện, mọi lúc mọi nơi đều không thay đổi thì là tam muội. Bạn dùng loại tâm này trong cuộc sống đối nhân xử thế tiếp vật, không luận làm bất cứ sự việc gì thì đó chính là Bách Thiên.

Bách thiên từ trên sự mà nói, không luận bất cứ sự tướng gì đều tương ưng với mười thiện tâm, đều không rời khỏi mười thiện tâm, gọi là Bách Thiên tam muội hoặc vô lượng tam muội. Chúng ta phải học tập. Hoa Nghiêm tam muội tuy tường tận hiểu rõ nhưng không dễ gì ngộ nhập, còn Bách Thiên tam muội thì có thể giúp chúng ta ngộ nhập Hoa Nghiêm tam muội, chúng ta niệm Phật sẽ nắm chắc phần vãng sanh.

Trong cuộc sống thường ngày, duyên là hoàn cảnh nhân sự, cảnh là hoàn cảnh vật chất. Hoàn cảnh nhân sự và hoàn cảnh vật chất đều bao gồm cả thảy đời sống chúng ta. Chúng ta luôn không thể thoát khỏi hai loại hoàn cảnh này. Ở trong hai loại hoàn cảnh, nhất định phải tương ưng với thập thiện nghiệp đạo, nhất định phải làm cho được. Sau đó giữ chặt một câu danh hiệu A Di Đà Phật, thì bạn mới đầy đủ tổng trì Bách Thiên tam muội.

Hiện tại chúng ta có thể làm được điều đó. Đồng tu ở Singapore có thời gian rảnh liền phải đến niệm Phật đường này mà niệm Phật. “Cụ túc tổng trì Bách Thiên tam muội” có thể thực tiễn. Hãy tưởng tượng xem, bạn ở niệm Phật đường giữ lấy được tổng trì, Bách Thiên tam muội cũng đầy đủ, khi niệm Phật sẽ không khởi ác niệm, sáu căn đều sẽ tương ưng với mười thiện. Nơi đây tiếp nhận huấn luyện dùng vào đời sống, vào công việc, trong giao tiếp, bạn liền được lợi ích chân thật.

TRỤ THÂM THIỀN ĐỊNH, TẤT ĐỖ VÔ LƯỢNG CHƯ PHẬT”.

Đoạn phía trước nói “định huệ đẳng trì”, đoạn này chỉ hai câu, nói “từ thể khởi dụng”, chúng ta phải làm cách nào học tập? Thâm thiền định là gì? Thế Tôn trong kinh Đại Tập nói, một câu danh hiệu A Di Đà Phật chính là thâm diệu thiền. Các vị liền nghĩ không cần phải đi tham thiền nữa, vậy thì sai. Pháp môn niệm Phậtthâm diệu thiền, không phải thiền thông thường. “Trụ thâm thiền định” dạy bạn đem tâm trụ ngay trong danh hiệu A Di Đà Phật. Mọi lúc mọi nơi, trong lòng đều có A Di Đà Phật.

Tôn giả Tu Bồ Đề trên kinh Kim Cang thỉnh giáo với Thích Ca Mâu Ni Phật hai vấn đề. Một là làm thế nào hàng phục vọng tưởng? “Vân hà hàng phục kỳ tâm”. Vọng niệm của ta quá nhiều, làm thế nào có thể tiêu trừ là một vấn đề lớn. Vấn đề thứ hai là tâm phải trụ vào đâu? Thích Ca Mâu Ni Phật khai thị giảng giải hai vấn đề này qua bộ kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. Chúng ta sau khi khế nhập vào pháp môn tịnh độ, xem thấy Thích Ca Mâu Ni Phật trả lời tôn giả Tu Bồ Đề hai vấn đề này vẫn cảm thấy rối rắm. Các vị đọc kinh Kim Cangvân hà ưng trụ”, “vân hà hàng phục kỳ tâm”, các vị đã biết hay chưa? Vẫn chưa biết. Thế thì chẳng phải uổng phí hay sao. Thích Ca Mâu Ni Phật làm gì nói lời thừa, Ngài giảng với những người đó là ứng với căn cơ của chúng sanh có loại căn tánh đó. Họ nghe được cách giảng này của Thích Ca Mâu Ni Phật thì liền giác ngộ, thấu hiểu, ứng cơ nói pháp. Chúng ta không phải căn cơ trên hội Bát Nhã nên nghe không hiểu, còn trách Thích Ca Mâu Ni Phật nhiều lời.

Với căn tánh hiện tại của chúng ta nếu thỉnh giáo Thích Ca Mâu Ni Phật làm thế nào hàng phục vọng tâm thì nhất định Ngài sẽ đơn giản mà khuyên một câu A Di Đà Phật, hết thảy vọng niệm đều diệt hết. Bạn xem, làm gì nói nhiều lời thừa.

Lại hỏi tâm này phải làm thế nào an trú? Tâm an trú trên câu A Di Đà Phật. Như vậy, một câu A Di Đà Phật cả thảy vấn đề đều giải quyết viên mãn tròn đầy, cao minh hơn nhiều so với kinh Kim Cang. Qua đó bạn mới thể hội được công đức của danh hiệu không thể nghĩ bàn, Kim Cang Bát Nhã không thể so sánh. Tụng kinh Kim Cang hết nửa ngày vẫn chưa hiểu nhưng một câu A Di Đà Phật mới thật có hiệu quả, có thể đánh bạt vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, giúp tâm chúng ta an trụ, gọi là “trụ thâm thiền định”.

Vì sao tất cả chư Phật Như Lai đều cực lực đề xướngtán thán pháp môn này? Đối với tất cả chúng sanh chín pháp giới, các Ngài không ngừng giới thiệu, thúc đẩy. Pháp môn này đơn giản dễ hiểu, ổn định dễ dàng, thành tựu cao hơn nhiều so với các pháp môn khác. Bạn tu pháp môn Bát Nhã, tu thiền tông, “minh tâm kiến tánh” mới chỉ là Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát; tu đến thập hồi hướng tròn đầy thì phải dùng một A Tăng Kỳ kiếp, lại tu đến Thất Địa phải mất hai A Tăng kỳ kiếp, tu đến Pháp Vân Địa phải mất ba A Tăng kỳ kiếp, khó khăn cỡ nào. Còn một câu A Di Đà Phật sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, một phẩm phiền não chưa đoạn nhưng trí tuệ đạo lực, thần thông đức năng “tùy loại hóa thân, tùy cơ nói pháp”, tương đương với Bồ Tát Bát Địa. Các Phật pháp đại thừa khác làm sao so sánh được.

Không phải chúng ta tu tịnh độ nên khoa trương chính mình, mà sự thật là như vậy, quyết không phải khoa trương mình mà chèn ép người khác. Đây hoàn toàn do chư Phật Như Lai nói. Các pháp môn khác không phải không tốt mà các pháp môn đó có căn cơ nhất định. Chỉ có pháp môn này “ba căn trùm khắp, lợi độn gồm thâu”. Thượng thượng căn cũng tu pháp môn này. Văn Thù, Phổ Hiền là bậc thượng thượng căn, chúng ta thấy trên hội Hoa Nghiêm, các Ngài phát nguyện cầu sanh tịnh độ, phát nguyện thân cận A Di Đà Phật. Đó chân thật là thượng thượng căn, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc ở cõi Thật Báo Trang Nghiêm Độ thượng thượng phẩm thượng sanh, liền thành Phật. Hạ hạ căn thuộc về phàm phu chúng ta, một phẩm phiền não cũng chưa đoạn, nên sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc cõi Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sanh.

Thế giới Tây Phương Cực Lạcpháp giới bình đẳng. Chỗ này quá hi hữu, phàm phu chúng ta sanh đến đó đều ở chung với Văn Thù, Phổ Hiền. Trong khi mười phương thế giới không có tình huống này. Bạn không đồng giai tầng thì không cách gì ở chung được. Như địa cầu Phàm Thánh Đồng Cư Độ, có Phật Bồ Tát tu hành, có A La Hán tu hành nhưng phàm phu chúng ta không nhìn thấy, vì không đồng một giai tầng. Thế giới Cực Lạc không như vậy, Văn Thù, Phổ Hiền và những vị Bồ Tát Đẳng Giác cùng ở chung với phàm phu, cùng xếp hàng ngồi nghe A Di Đà Phật giảng kinh. Đó là chỗ mà mười thế giới không có. Cho nên thế giới Tây Phương Cực Lạc gọi là pháp giới bình đẳng, nhân bình đẳng, đều niệm A Di Đà Phậtvãng sanh; đến thế giới Tây Phương Cực Lạc quả bình đẳng, thọ dụng bình đẳng, tất cả đều bình đẳng. Đây là pháp môn không thể nghĩ bàn.

Trên mặt tác dụng mà nói, tác dụng vô lượng vô biên. “Tất đỗ chư Phật”, vô lượng chư Phật Như Lai bạn thảy đều thấy. Chỉ có thế giới Tây Phương Cực Lạc mới có thể làm được. Vô lượng chư Phật bao gồm chúng ta trong đó, cho nên người thế giới Tây Phương Cực Lạc xem thấy chúng ta đây đều thành Phật. Nếu còn có một chúng sanh chưa thành Phật, thì tức là chính họ chưa thành Phật. Nghe có vẻ kỳ lạ, nếu xem thấy chúng ta đều thành Phật, thì Phật đến độ làm gì? Không sai. Phật xem thấy chúng ta thành Phật nhưng hiện tại vẫn là một vị Phật hồ đồ, mê mà không giác nên giúp đỡ chúng ta giác ngộ. Họ biết chúng tabổn giác vốn có, bất giác vốn không”, nên họ có lòng tin, nhất định giúp đỡ chúng ta giác ngộ. Lý luận này căn cứ vàobổn giác vốn có, bất giác vốn không”, là Phật thật, quyết không phải Phật giả.

Đại kinh này không phải kinh thông thường. Nếu kinh thông thường thì chúng ta không nói những lời này, chỉ phí sức giải thích tỉ mỉ, mất nhiều thời gian mà người khác chưa chắc thể hội. Hiện tại trong giảng đường giảng kinh Vô Lượng Thọ, giảng kinh Hoa Nghiêm; kinh Hoa Nghiêm cùng kinh Vô Lượng Thọ là một, bổ khuyết lẫn nhau. Mọi người ngày ngày ở đây huân tập liền đạt thuận tiện nhiều hơn. Tôi dạy các vị đồng tu xem tất cả chúng sanh đều là Phật, phàm phu chỉ có một mình ta. Không luận họ làm thiện ác, chúng ta đều phải nghĩ các Ngài tùy loại hoá thân, tùy cơ thị hiện cho chúng ta xem. Ta cần ở trong cảnh giới thị hiệntu hành. Tu cái gì? Tu hạnh bình đẳng, đó là thành tựu Phật đạo của chính mình. Thiện hạnh của họ chúng ta thấy rõ ràng, tâm địa thanh tịnh không nhiễm, không thể dính mắc. Ác hạnh của họ chúng ta cũng thấy tường tận, cũng thanh tịnh không nhiễm. Cho nên ở trong cảnh giới chúng ta tu tâm thanh tịnh, tu tâm bình đẳng, tu tâm chánh giác. Nếu không có những cảnh giới này hiện tiền thì thanh tịnh bình đẳng giác của chúng ta đến đâu để tu? Những cảnh giới này giúp chúng ta thành tựu thanh tịnh bình đẳng giác. Vậy họ không phải là thiện tri thức của ta thì là gì? Họ không phải chư Phật Như Lai thị hiện thì là gì?

Ngoài ra còn một đạo lý mà kinh Phật thường nói, mọi người cũng quen thuộc, đó là “cảnh tùy tâm chuyển”. Chúng ta dùng tâm thanh tịnh bình đẳng giác để nhìn tất cả chúng sanh thì tất cả chúng sanh liền thành Phật. Thanh tịnh bình đẳng giác trên đề kinh này là biệt hiệu của A Di Đà Phật. Cho nên cảnh duyên thành tựu thanh tịnh bình đẳng giác cho chính chúng ta. Ta dùng để xem pháp giới chúng sanh tình dữ vô tình đồng viên chủng trí. Chúng sanh hữu tìnhthanh tịnh bình đẳng giác, chúng sanh vô tình cũng là thanh tịnh bình đẳng giác, đó gọi là tùy thời ngộ nhập Hoa Nghiêm tam muội.

Tôi dạy các vị phương pháp này, nếu bạn thường hay đem tâm chuyển đổi lại, lâu ngày dài tháng trong bất tri bất giác có thể tùy thời ngộ nhập Hoa Nghiêm tam muội. Chúng taniệm Phật đường niệm Phật, sức mạnh đó rất lớn. Chuyển biến sóng tư tưởng bất thiện của tất cả chúng sanh thế gian, chúng tanăng lực làm được. Thế gian tuy nhiều tai nạn, cho dù chúng ta không đủ năng lực hoá trừ, nhưng nhất định cũng làm cho tai nạn giảm nhẹ hoặc kéo lui về sau.

Sóng tư tưởng của chúng ta thanh tịnh bình đẳng giác, sức mạnh của tần sóng rất mạnh, nếu nhiều người như vậy thì mọi người cùng nhau tu tập, lại được tất cả chư Phật Như Lai gia trì. Không phải tôi tùy tiện nói. Chúng ta tường tận lý cùng sự thì tín tâm của chúng ta liền khẳng định, không chút hoài nghi. Chúng ta bước vào niệm Phật đường chân thật tự độ - độ người, cứu mình - cứu người, cứu độ tất cả chúng sanh. Nếu sự cùng lý không tường tận, không thấu triệt thì họ làm gì có tín tâm kiên định. Không có tín tâm kiên định, tuy niệm Phật nhưng sóng tư tưởng không được sức mạnh như vậy, hay nói cách khác, không đủ sức mạnh để chuyển nghiệp lực của chúng sanh. Chúng ta đích thực may mắn gặp đại pháp thuần chánh này, pháp môn đệ nhất chư Phật Như Lai độ chúng sanh thành Phật đạo, giống như cư sĩ Bàng Tế Thanh nói: “Một ngày từ vô lượng kiếp đến nay hi hữu khó gặp”. Giả như chúng ta thường ngày không thể “trụ thâm thiền định”, không thể “tất đỗ vô lượng chư Phật”, công phu tu tập không có lực thì phải thực tiễn hai câu nói tiếp theo.

Ư NHẤT NIỆM KHOẢNH, BIẾN DU NHẤT THIẾT PHẬT ĐỘ

Kinh văn cho chúng ta biết tình hình sinh hoạt của đại chúng sau khi ngộ nhập Hoa Nghiêm tam muội. Văn tự tuy không nhiều nhưng hàm nghĩa rất sâu rộng. Đại dụng thứ nhất, họ có thể thấy vô lượng chư Phật, “trụ thâm thiền định, tất đỗ vô lượng chư Phật”. Đại dụng thứ hai, họ có năng lực trong khoảnh khắc biến du tất cả cõi Phật. Câu này ý nói, không gian đời sống của họ rộng lớn. Do đây có thể biết Hoa Nghiêm tam muội đích thực là cảnh giới không thể nghĩ bàn.

Nhất niệm khoảnh” có nghĩa thời gian rất ngắn. Kinh văn có rất nhiều cách nói đều y cứ trên kinh điển do các đại đức xưa chọn lấy nên chúng ta mới tương đối dễ dàng lý giải. “Nhất niệm khoảnh” gọi là một sát na. Một khảy móng tay có sáu mươi sát na. Một phần sáu mươi của một khảy móng tay gọi là một sát na, cũng là một niệm. Trong thời gian ngắn như vậy, họ đạt năng lựcbiến du nhất thiết Phật độ”.

Chữ “nhất thiết” không chỉ bao gồm hết mười phương mà còn bao gồm cả ba đời. Quá khứ vị lai tất cả cõi nước chư Phật, họ đều có thể biến du.

Biến” là không sót lọt. Trong một niệm viên mãn họ đạt đến mười phương ba đời vô lượng vô biên cõi nước chư Phật. Cảnh giới đó rất khó tưởng tượng đối với chúng ta. Vì sao khó? Vì chúng ta còn phân biệt, chấp trước nên xem kinh văn đều không dễ gì lý giải. Phàm phu chúng ta hạn cuộc ở một thân tướng thì không thể phân thân, đừng nói khoảnh một niệm chúng ta không thể làm được, mà thời gian có dài hơn chúng ta cũng không làm đến được.

Tôi đã nói với các vị nhiều lần, Pháp Thân Đại Sĩ chính là Bồ Tát từ Viên Giáo Sơ Trụ trở lên, họ không có thân tướng, không có chấp “ngã”. Vì vô tướng nên họ mới có thể hiện tất cả tướng, vô tướng vô bất tướng. Vô trí họ có thể hiện tất cả trí, không gì không biết. Cho nên kinh Phật nói, họ có thể đồng thời hiện ra vô lượng vô biên thân tướng.

Thân tướng hiện ra có giống nhau không? Không. Họ hiện ra vô số thân tướng khác nhau. Cũng như trong Phẩm Phổ Môn, ba mươi hai ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, đáng dùng thân gì để độ thì Ngài liền hiện ra thân đó. Ba mươi hai ứng thân là ba mươi hai loại lớn. Trong mỗi loại có vô lượng vô biên sắc tướng, mỗi sắc tướng không đồng nhau. Có phải Bồ Tát có ý hiện ra những tướng này không? Không. Có ý thì không thể hiện. Hiện tại chúng ta không thể hiện do chúng ta có ý. Chỉ vô ý mới có thể hiện. Ý tức là phiền não, chấp trước, vọng tưởng, phân biệt chướng ngại đức dụng của tự tánh. Bạn không có ý thì bạn liền tự tại, liền như chư Phật Bồ Tát tự tại thị hiện. Xem kinh Hoa Nghiêm, những sự tướng, cảnh giới, đạo lý này được nói rất rõ ràng tường tận, đó là thật, không phải hư vọng.

Lịch sử Phật giáo Trung Quốcthời đại Tùy Đường có những người đạt công năng đặc dị. Bộ sách mang tên Thần Tăng truyện ghi chép đến vài trăm trường hợp. Khi tôi mới bắt đầu học Phật, tôi đã rất thích xem loại sách này. Sau đó tôi biết những năng lực đó đều là bản năng của tất cả chúng sanh. Các Ngài có, chúng ta cũng có. Các Ngài thị hiện, nhưng chúng ta không cách gì thị hiện, vì các Ngài không có chướng ngại, còn chúng tachướng ngại bản năng nên năng lực không thể hiển hiện. Đúng như kinh Hoa Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật nói, “tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng của Như Lai”. Chúng sanh không chỉ bao gồm nhân loại mà còn tất cả súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Trí tuệ của mọi người cùng Như Lai quả địa không hề khác nhau; đức năng của mọi người cùng Phật cũng không hề khác biệt.

Tướng” là hiện tướng y chánh trang nghiêm giống như Phật. Phật rất cảm thán mà nói những chúng sanh này “chỉ bởi vọng tưởng, chấp trước mà không thể chứng đắc”, Phật nói hết gốc bệnh của chúng ta. Bởi vì chúng tavọng tưởng, phân biệt, chấp trước nên trí tuệ đức tướng không thể hiện tiền, đó chính là nghiệp chướng. Nếu bạn trừ bỏ chướng ngại thì trí tuệ năng lực liền hiện tiền. Thế gian, xuất thế gian, thế nhân thường nói thiên thượng nhân gian, quá khứ, vị lai, bạn không thứ gì không biết, đó là trí tuệ của bạn.

Hiện tại khoa học gia thường hay nghĩ vũ trụ, sanh mạng từ đâu mà có? Họ truy cứu, thăm dò, nhưng thành thật mà nói, họ sẽ vĩnh viễn không tìm được đáp án chính xác. Vì sao? Vì chướng ngại của họ chưa đoạn dứt. Chướng ngại chướng mất trí tuệ của họ thì làm sao có thể nghiên cứu, thăm dò. Họ thảy đều rơi vào vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà không cách gì hiểu được chân tướng sự thật.

Phật nói, nếu chân thật muốn hiểu rõ chân tướng sự thật cũng không khó, chỉ cần buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì trí tuệ đức tướng vốn sẵn trong tự tánh của bạn liền hiện tiền. Đến lúc đó sẽ thấu suốt chân tướng. Chân tướng rốt cuộc như thế nào? Như trên kinh Hoa Nghiêm, nhưng chúng ta vẫn chưa thấy. Phật dạy chúng ta trừ bỏ chướng ngại chân tướng sự thật. Sau nghe Phật nói kinh, làm ấn chứng cho chúng ta, xem thử chân tướng sự thậtchúng ta đã thấy, đã tiếp xúc có như Phật nói hay không? Đó là một cách dùng khác của kinh điển làm chứng cho chúng ta.

Mục đích cuối cùng của học Phật là gì? Vì sao phải học Phật? Vì để hồi phục lại bổn lai diện mục của chúng ta mà thôi. Nói cạn một chút thì mục đích học Phật chính là dạy bạn nhận biết chính mình và hoàn cảnh đời sống của chính mình. Nếu không nhận biết, không hiểu rõ thì Phật pháp gọi là phàm phu, mê hoặc. Tường tận thì gọi là giác ngộ. Sau khi giác ngộ, bạn tự nhiên có loại năng lực này. Không gian đời sống của bạn không còn bị bó buộc ở một khu vực mà vô cùng rộng lớn, tận hư không khắp pháp giới, nơi nào có cảm thì nơi đó liền có ứng. Chư Phật Bồ Tát hiện thân biến du mười phương cõi nước không phải có ý mà đi. Chúng sanh có cảm thì các Ngài liền có ứng, cảm ứng tương thông. Cho nên Thế Tôn trong hội Lăng Nghiêm nói rằng “chư Phật Bồ Tát tùy loại hoá thân, tùy cơ nói pháp”. Bạn xem, tự tại dường nào! Loại năng lực này tổng kết quy nạp mà nói chính là các Ngài “tùy thời ngộ nhập Hoa Nghiêm tam muội”.

Hoa Nghiêm tam muội là tường tận chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Nhân sanh là bản thân ta, vũ trụ chính là hoàn cảnh đời sống. Hoa Nghiêm Tam Muội cũng gọi là Hải Ấn tam muội. “Hải” là thí dụ cho sâu rộng, “Ấn” giống như bình thường chúng ta dùng mộc để đóng dấu. Chúng ta đóng một ấn chương chứa rất nhiều văn tự, sau khi đóng xuống, văn tự này đồng thời hiện tiền không có trước sau. Chúng ta viết chữ còn có trước sau nhưng cái ấn in xuống thì không trước sau, ý nghĩađồng thời”. Trong đại kinh Phật có hai câu nói nổi tiếng mà nhiều đồng tu đều ghi nhớ, Phật nói “ba đời xưa nay, không rời ngay niệm”. Ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai chỉ thời xưa thời nay. “Ngay niệm” này là nhất niệm khoảnh. Đạt “nhất niệm khoảnh” mới có thể biến du tất cả cõi Phật.

Lại nói “mười phương thế giới, không rời ngay chỗ đó”, kinh Phật thường nói “vi trần lông tóc, không rời ngay chỗ đó”, phàm phu chúng ta gọi là “cảnh giới giải thoát bất tư nghì”. Pháp thân đại sĩ đã chứng và vào được cảnh giới Hoa Nghiêm tam muội này, cho nên họ đồng lúc đồng nơi, tận hư không khắp pháp giới.

Người hiện tại tin tưởng khoa học nhưng thực tế họ đã hiểu khoa học hay chưa? Chưa chắc. Chưa chắc hiểu mà vẫn tin tưởng gọi là mê tín. Họ cho rằng chúng ta mê tín Phật pháp, chúng ta nói họ mê tín khoa học, tất cả đều mê tín. Hiểu tường tận mới không gọi là mê tín, còn chưa hiểu rõtin tưởng gọi là mê tín. Người học Phật thông thường đầu óc đều tương đối bình lặng, sáng suốt. Người ta nói chúng ta mê tín, chúng ta nghĩ lại xem mình có mê tín hay không? Không sai. Vì Phật nói những điều này, chúng ta đích thực vẫn chưa hiểu tường tận, dù trên lý luận thì rõ ràng nhưng sự thật chúng ta vẫn chưa thấy. “Trụ thâm thiền định, tất đỗ vô lượng chư Phật”, chúng ta còn chưa được thâm thiền định, chưa thấy được chư Phật nhưng vẫn tin tưởng Phật không lừa gạt chúng ta. “Ư nhất niệm khoảnh, biến du nhất thiết Phật độ”, câu này càng không thể nghĩ bàn, càng không thể làm được, nhưng chúng ta cũng tin tưởng. Sự tin tưởng này gọi là mê tín.

Người ta chê chúng ta mê tín A Di Đà Phật, không phải mắng chúng ta mà đó là sự thật. Chúng ta đích thực mê tín thì làm sao có thể trách người khác. Nhưng bạn phải biết, tuy họ chê chúng ta mê tín nhưng họ mê còn đáng lo hơn chúng ta nhiều. Chúng ta mê một loại mê còn họ mê hai loại mê. Họ không biết tí gì về Phật pháp mà dám nói chúng ta mê tín nên họ là mê mê tín. Phải làm rõ việc này, phải hiểu tường tận thì mới có thể nói họ chánh tín hay mê tín. Chưa làm cho rõ ràng, thì họ nói bạn mê tín và họ cũng mê tín, hoặc họ nói bạn mê tín và họ mê mê tín.

Phật pháp cao siêu ở chỗ, sau khi giảng, Thích Ca Mâu Ni Phật luôn nhắc chúng ta phải tự đi chứng thực. Tự mình chứng minh mới gọi là chánh tín. Hay nói cách khác, Phật khuyên chúng ta nhất định phải vào Hoa Nghiêm tam muội thì sự việc mới liền chứng thực, mới biến thành cảnh giới của chính mình. Điểm này rất quan trọng. Kinh đại thừa thường nói, “dài ngắn đồng thời, rộng hẹp tự tại”. “Dài ngắn đồng thời” chỉ thời gian, “rộng hẹp tự tạichỉ không gian. Không gian cùng thời gian đều không thật. Bạn xem trong kinh điển Pháp Tướng, không gian thời gian định vị ở địa vị Bất Tương Ưng Hành Pháp. Bất Tương Ưng Hành Pháp là một loại khái niệm trừu tượng của con người nhưng không phải sự thật.

Do khoa học phát triển, người hiện tại dần dần có cách nhìn đối với sự việc không giống như người trước. Đối với thời trước, nếu bạn nói thời gian là giả thì rất khó lý giải, còn hiện tại nói thời gian là giả thì mọi người dễ dàng hiểu. Vì sao? Vì có sai biệt thời gian. Hiện tại ở đây đang là tám giờ, nhưng bên Úc châu là mười giờ. Mỗi khu vực có thời gian khác biệt. Thời gian là giả, phương vị không gian, bốn phương cũng giả. Bạn dựa trên điểm nào để nói? Điểm này di động, phương vị của bạn hoàn toàn bị di động. Cho nên thời gian cùng không gian không nhất định, không phải định pháp, đó là khái niện trừu tượng, hay nói cách khác, căn bản không có sự thật này.

Nhà khoa học cận đại Einstein từng phát biểu, quá khứ, hiện tại, vị lai đồng thời tồn tại. Câu nói này thật không đơn giản. Ông biết nó đồng thời tồn tại nhưng không cách gì trở lại quá khứ cũng không cách gì bước vào tương lai. Trên lý luận thì biết nhưng dùng phương pháp gì có thể đột phá trục đạo thời gian thì hiện tại vẫn chưa nghĩ ra. Chỉ có Phật pháp đột phá từ rất sớm nên họ mới có thể trở về quá khứ, bước vào tương lai, mới có thể “biến du tất cả cõi Phật” một cách tự tại.

Phương pháp nhà Phật dùng chính là thiền định.Thiền địnhhoàn toàn đoạn dứt phân biệt, chấp trước. Thế gian không làm được Tứ Thiền Bát Định vì họ có ý niệm. Vào trong thậm thâm thiền địnhvẫn có ý niệm của thiền định thì không được. Chỉ cần có thiền định thì liền hồi phục một phần năng lực, nhưng không thể biến du tất cả cõi Phật. Nếu được một chút định nhỏ, thân chúng ta ở Singapore nhưng sự việc xảy ra trên khu vực thế giới lân cận, chúng ta không cần dùng truyền hình vẫn nhìn thấy. Không những trong định có thể nhìn thấy việc xảy ra hiện tại mà còn có thể thấy được những việc xảy ra vào quá khứ hoặc tương lai. Việc này không cần phải thiền định thật sâu, mà định nhỏ cũng làm được. Thế nhưng, để thấy các tinh cầu khác ngoài địa cầu thì sức định cần phải sâu, định nhỏ thông thường không thấy được.

Ngày xưa lúc tôi đang giảng kinh, có một vị lão cư sĩ là quân nhân đã kể với tôi câu chuyện. Vào thời kỳ kháng chiến, quân đội đóng ở Giang Tây, bên cạnh có một đạo quán. Vị lão đạo trong đạo quán này cao tuổi, tu hành chuẩn mực, tiên phong đạo cốt, ai ai cũng kính ngưỡng. Một hôm, lão đạo phái người đến thông báo cho quân đội của ông nên dọn nhà. Mọi người hỏi tại sao? Lão đạo nói ba ngày sau chỗ này sẽ bị hồng thuỷ nhấn chìm. Mọi người thấy khó tin vì thời tiết ở đây đang rất tốt, không có dấu hiệu gì của lũ lụt. Địa thế nơi lão đạo ở cũng không cao. Mọi người liền phái người đi nghe ngóng xem thử lão đạo có dọn nhà hay không. Lão đạo quả thật đã dọn nhà nên họ cũng cố nghe theo. Sau ba ngày quả nhiên sơn hồng bạo phát, nơi đó bị nhấn chìm.

Còn một việc nữa. Một hôm lão đạo nói với quân đội của ông rằng khi nhập định, lão thấy có một trận chiến phương vị hướng đông Trung Quốc, cự ly tương đối xa, cuộc chiến này rất tàn khốc. Đều là quân nhân, tướng quân cao cấp, nên đối với tin tức này họ đều tinh thông và cho rằng không có. Trải qua ba tháng sau, chính phương vị lão đạo đã nói xảy ra chiến tranh, người Nhật Bản tập kích Trân Châu Cảng. Mọi người trong quân đội liền cảm thấy kỳ lạ vì sao lão đạo có thể nhìn thấy sự việc trước ba tháng? Vì lão đạo đột phá được thời gian nên có thể thấy đến vị lai, nhìn thấy trận chiến này. Vì vậy, thời không đích thực có thể siêu việt nhưng chỉ là siêu việt nhỏ.

Trong Thần Tăng Truyệncâu chuyện của một vị nào đó tôi không còn nhớ vì tôi đọc sách này cũng khoảng bốn năm mươi năm trước. Có một vị pháp sư từ Ấn Độ đến Trung Quốc truyền đạo giảng kinh nói pháp. Khi vị pháp sư này quay về, liền có rất nhiều người thân cận với pháp sư nấu rất nhiều món ăn để tiễn lên đường. Pháp duyên của vị pháp sư này rất thù thắng. Ngày đầu tiên người ta mời Ngài ăn cơm, Ngài đều đi. Mọi nhà hoan hỉ vì thấy pháp sư xem trọng mình. Bạn xem, có biết bao người mời Ngài! Họ gặp nhau đều khoe với nhau rằng: “Hôm nay pháp sư đến nhà tôi ứng cúng”. Ngày thứ hai đến thập lý trường đình tiễn đưa, mọi người cũng đều hồ hởi khoe nhau “buổi trưa hôm qua pháp sư đã đến nhà tôi”. Tổng cộng ngày hôm đó có khoảng mấy trăm người khoe được pháp sư đến nhà. Do đó chúng ta mới biết, vị pháp sư này có bản lĩnh phân thân, đồng một thời gian ăn cơm trưa ông có thể phân mấy trăm thân để đến nhà mỗi người. Việc này ghi chép trong Cao Tăng Truyện.

Phật nói chúng ta thảy đều có năng lực như vậy. Vị pháp sưnăng lực đó thì chí ít Ngài cũng là A La Hán tam quả tiểu thừa. Thần túc thông chính là biến hoá. Tây Du Ký nói Tôn Ngộ Thông có bảy mươi hai phép biến hoá, trong khi tam quả đã có năng lực này, không nhất định chỉ có bảy mươi hai biến hoá. Tôn Ngộ Không còn kém xa so với Tư Đà Hoàn. Vị pháp sư đồng thời có thể phân thân, điều này nói rõ “ư nhất niệm khoảnh, biến du nhất thiết Phật độ” là sự thật.

Phật pháp nhất định phải tu. Nếu chúng ta muốn hạnh phúc chân thật, tự tại an vui thì chỉ trong Phật pháp mới có thể được. Các pháp môn khác cho dù có cũng rất hạn hữu, không như Phật phápnăng lực rộng lớn đến vậy.

Phần trên đã nói “tự lợi”, bạn chính mình đạt được điều tốt, có được thọ dụng. Còn phần phía sau kinh văn nói “lợi tha”, mục đích giúp đỡ xã hội đại chúng.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

 

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.