Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 62)

17/06/201312:00 SA(Xem: 13333)
Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 62)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 62)


Pháp Sư Tịnh Không

 

Kinh văn: “Pháp Tạng bạch ngôn: “Kỳ nghĩa hoằng thâm, phi ngã cảnh giới. Duy nguyện Như Lai, ứng Chánh Biến Tri, quảng diễn chư Phật, vô lượng diệu sát. Nhược ngã đắc văn, như thị đẳng pháp, tư duy tu tập, thệ mãn sở nguyện””.

Phía trước chúng ta xem thấy Bồ Tát Pháp Tạng thỉnh pháp với lão sư, cũng chính là thỉnh giáo. Lão sư trả lời rất hay. Trước tiên từ trong thí dụ khích lệ Ngài, người chỉ cần chân tâm cầu đạo, có thể tinh tấn không giải đãi thì quyết định sẽ có thành tựu. Chỗ này cũng chính là nhà Phật thường nói: “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”. Bồ Tát Pháp Tạng phát ra nguyện quá hy hữu, chân thật là đáng được chúng ta tán thán tận đáy lòng. Ngài không chỉ mong cầu làm Phật, mà còn yêu cầu thành tựu của Ngài siêu vượt các chư Phật. Đại nguyện này đã được tán thán của lão sư. Lão sư dạy bảo Ngài, sự việc này Ngài phải chính mình quán sát lại là tu học pháp phương tiện gì Ngài mới có thể thành tựu, mới có thể mãn nguyện. Câu nói này chúng ta phải tường tận. Pháp Tạng ở trong hội của Thế Gian Tự Tại Vương thời gian rất dài, không phải thời gian ngắn, bình thường thân cận giáo huấn thì rất nhiều, huống hồ Ngài lại là người thượng căn lợi trí, cho nên đức Phật mới nói như vậy. “Ông chính mình nghĩ xem dùng phương pháp gì”, ý nghĩa chính là nói không cần ta phải dạy ông nữa, đây là bảo Ngài tự tu. Lại nói: “Như sở tu hành, nhữ tự đương tri”, tu như thế nào ông cũng rõ ràng, ông cũng tường tận. Sau cùng lại nói: “Thanh tịnh Phật quốc”, nguyện vọng của Ngài “nhữ ưng tự nhiếp”. Trả lời này của đức Phật gọi là trả lời bên lề. Trong đây có ba chữ “Tự”, ý nghĩa rất là sâu, không hề khác với thiền cơ trong Thiền tông, là trực chỉ nhân tâm. Với cách trả lời này, thực tế mà nói, đối với Pháp Tạng thì được, Ngài hiểu được, Ngài thấu hiểu, thế nhưng người căn tánh trung hạ sau khi nghe rồi không được lợi ích. Pháp Tạng ở ngay chỗ này, cũng chính là Ngài đã nắm lấy được cơ hội giáo dục cho chúng ta hiện tại, Ngài vì tận hư không biến pháp giới tất cả chúng sanh hướng đến Thế Gian Tự Tại Vương Phật thỉnh pháp. Các vị thử nghĩ xem, nhân duyên này thù thắng cỡ nào! Cho nên, Ngài tuy là tường tận cũng giả như là chưa tường tận. Chỗ này cũng giống như diễn kịch vậy.

Pháp Tạng thành Phật chính là A Di Đà Phật thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đại nguyện của A Di Đà Phật đích thực không như nhau. Đại nguyện của Ngài, nếu dùng lời nói hiện tại để nói, chính là cùng đồng một thể sinh mạng đa nguyên văn hoá, trong thuật ngữ Phật pháp nói “năm thừa đều vào báo độ”, chỗ này chính là đa nguyên văn hoá. Năm thừa là nhân thừa, thiên thừa, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, không phải một loại. Chủng tộc ở trong đây, trình độ căn tánh của chúng sanh muôn ngàn khác biệt, làm thế nào có thể dạy những chúng sanh này? Chỗ này cũng chính là thường nói trên đến đẳng giác Bồ Tát, dưới đến chúng sanh địa ngục, hữu tình chín pháp giới đồng vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Sự việc này đại khái tất cả chư Phật Như Lai không phải không làm được, Phật có năng lực làm được, thế nhưng các Ngài không nghĩ đến, chỉ có Phật A Di Đà nghĩ đến. Đương nhiên có cách nghĩ, có cách làm thì có thành tựu. Thành tựu này chính là thế giới Tây Phương Cực Lạc của ngày nay, thế giới này đích thực là trong mười phương cõi Phật đều không có. Đương nhiên sự việc này không phải trí tuệ của chính Bồ Tát có thể hiểu ra được, cho nên Pháp Tạng ở chỗ này nói, đây cũng là trả lời Tự Tại Vương Như Lai.

“Tư Kỳ Hoằng Thâm”, “Tư Kỳ” chính là phía trước nói là “nhữ tự tư duy”, “nhữ tự đương tri”, “nhữ ưng tự nhiếp”, ba cái tự này. Ý nghĩa này quá sâu quá rộng. Ba chữ “tự” này sẽ quay về chỗ nào? Quay về lại bổn nguyện của A Di Đà Phật, Ngài siêu thắng cõi nước chư Phật đều ở ngay ba chữ “tự” này. Người xưa thường nói: “Pháp Tạng là từ quả hướng đến nhân”. Câu nói này hiện tại chúng ta gọi là thừa nguyện tái sanh, ý nghĩa chính là nói Pháp Tạng từ kiếp lâu xa đã thành Phật rồi, đây là thị hiện. Chúng ta tán đồng cách nói này. Thích Ca Mâu Ni Phật ba ngàn năm trước xuất hiệnthế gian này của chúng ta, ở Ấn Độ xưa, Ngài cũng không phải là chân thật phàm phu tu hành thành Phật, mà cũng là thị hiện. Trên kinh Phạm Võng, Thế Tôn Ngài tường tận nói với chúng ta, Ngài nói lần này đến biểu diễn là lần thứ tám ngàn. A Di Đà Phật thị hiện lần này ở thế giới Cực Lạc, lần biểu diễn này rốt cuộc là lần thứ bao nhiêu? Phật không hề nói với chúng ta, nhưng ngay trong tưởng tượng của chúng ta, đại khái cũng không ít lần. Đây là cảnh giới trên quả địa Như Lai, Bồ tát đương nhiên không biết, cho nên “phi ngã cảnh giới”.

Ở trong đây còn hàm chứa một tầng ý nghĩa rất sâu, Bồ tát không thể triệt để hiểu rõ cảnh giới của Phật, chân thật không phải là giả. Bồ tát không được oai thần bổn nguyện của chư Phật gia trì cũng không cách gì vì mọi người nói rõ cảnh giới của Phật. Thế nhưng chân thật phát tâm tu hành, chân thật phát tâm hoằng pháp thì nhất định được Phật lực gia trì. Đương nhiên chúng ta cũng phải bắt chước tổ sư đại đức cầu Phật gia trì. Pháp sư trước khi lên đài giảng kinh phải ở dưới đài lễ Phật ba lạy để cầu Tam Bảo gia trì, nếu không thì khi lên bụt giảng sẽ không nói ra được lời nào. Đại đức xưa lên đài giảng kinh chúng ta chưa thấy qua, nhưng những trước tác mà đại đức xưa đã làm chúng ta xem thấy rất nhiều. Bạn xem thấy trước tác của các Ngài, vừa lật ra chương đầu tiên chính là kệ tụng cầu Phật gia trì, vừa mở đầu liền cầu Phật gia trì. Trước khi hạ bút cầu Phật gia trì thì trước khi lên đài cũng không ngoại lệ, đều mong cầu Phật gia trì. Ý nghĩa của câu này thì sâu, trong đó liền hàm chứa chuyên cầu Phật lực gia trì.

Tiếp theo Ngài nói: “Duy nguyện Như Lai, ứng chánh biến tri”. Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, đây là ba trong mười hiệu của Phật, ba danh hiệu này chính là đại biểu đầy đủ. Chỗ này viết lên mười hiệu thì quá phiền phức, quá rườm rà, để chúng ta đọc ba danh hiệu này liền nghĩ đến đầy đủ mười hiệu. Đây là tán thán đối với Phật. Trong mười đại nguyện vương, đây là xưng tán Như Lai. Mười hiệu là xưng tán. Từ bi, đức hạnh, trí tuệ của Như Lai thảy đều bao gồm ngay trong đó.

Câu phía sau là thỉnh cầu Phật “quảng diễn chư Phật vô lượng diệu sát”. “Diễn” là diễn thuyết, Ngài không dùng quảng tuyên, quảng thuyết, mà dùng “quảng diễn”, ý nghĩa của diễn so với thuyết phong phú hơn nhiều. Diễn là không chỉ nói, mà còn phải biểu diễn cho chúng ta xem thấy. Phật thực tế mà nói rất từ bi, thỏa mãn cái nguyện của Ngài, vì Ngài nói rõ hư không pháp giới, vô lượng vô biên cõi nước chư Phật, thể tánh, pháp tướng, phải quấy, khổ vui trong đây, vô số nhân quả khác nhau. Do đây có thể biết, nội dung tu học trong Phật pháp rất phong phú, nội dung chân thật, thế nên Phật nhất định vì Ngài giới thiệu tất cả cõi nước chư Phật. Nhân dân hạnh phúc, gia đình mỹ mãn, xã hội hài hòa an định, quốc gia phong đức, thế giới hòa bình, tốt đẹp đến cùng tận, đây là mục tiêu giáo học của Phật pháp. Pháp Tạng ở ngay chỗ này thỉnh cầu, Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai vì Ngài khai thị. Ở ngay chỗ này chúng ta phải nên biết hư không pháp giới do đâu mà có? Vậy rốt cuộc việc này là thế nào? Đây là vấn đề lớn, đại học vấn, chỉ có Như Lai mới có thể tường tận, Bồ Tát cũng không biết được.

Thế Tôn xuất hiệnthế gian này, trên kinh Pháp Hoa nói rất rõ ràng, Phật vì một đại sự nhân duyên xuất hiện ở đời. Cái gì là đại sự? Có người nói sanh tử đại sự. Nói thì không hề sai, thế nhưng ý nghĩa của sanh tử rất sâu. Hiện tại chúng ta, việc sanh tử này không phải là việc lớn, sáu cõi luân hồi cái gì là việc lớn? Nhà Phật nói ý nghĩa của sanh tử này rất rộng, rất sâu, có phân đoạn sanh tử, có biến dị sanh tử, ở trong đây rất phức tạp. Để mọi việc thảy đều rõ ràng, thảy đều tường tận thì Phật phải đến giáo huấn. Thực tế mà nói, hư không pháp giới từ đâu mà có? Việc này còn lớn hơn việc sanh tử gấp nhiều lần, việc này nếu làm cho rõ ràng, làm cho tường tận thì việc lớn sanh tử đương nhiên cũng phải giải quyết. Phật nói với chúng ta, nguồn gốc của nó là “một niệm tự tánh”. Nếu như chúng ta với một niệm tự tánh tương ưng, tư tưởng tương ưng, kiến giải tương ưng, ngôn hạnh tương ưng, Cực Lạc diệu sát liền viên mãn hiện tiền; chúng ta vừa rồi mới nói nhân dân hạnh phúc, gia đình viên mãn, xã hội hài hòa, quốc gia giàu mạnh, thế giới hòa bình cũng đều có thể thực hiện, mỗi một người đều trải qua đời sống hạnh phúc tốt đẹp. Phải tương ưng mới được. Các vị đều nên biết, chúng ta ngày nay chịu khổ chịu nạn. Vì sao phải chịu khổ? Vì sao phải chịu nạn? Chính là tư tưởng lời nói của chúng ta trái ngược với tự tánh, chúng ta nghĩ sai rồi, thấy sai rồi, nói sai rồi, làm sai rồi, cái sai lầm này mê hoặc điên đảo. Trái với tâm tánh chính là điên đảo, không thể tương ưng chính là mê hoặc. Do vì nguyên nhân này tạo thành vô số không như ý của chúng ta.

Tại vì sao có thể có loại hiện tượng này xảy ra? Phật nói được rất rõ ràngy báo tùy theo chánh báo chuyển. Tư tưởng kiến giải của chúng tachánh báo, thân thể cùng hoàn cảnh đời sống của chúng tay báo, y báo tùy theo chánh báo chuyển. A Di Đà Phật vì sao ở thế giới Cực Lạc? Người ta là niệm niệm hạnh hạnh đều tương ưng với tự tánh viên mãn, cho nên thế giới gọi là Cực Lạc. Chúng ta ngày nay, chúng sanh của thế giới này, có thể nói là hoàn toàn không tương ưng, cho nên thân không tự tại, thân có đau bệnh, có sanh-lão-bệnh-tử; hoàn cảnh đời sống không tự tại, có cầu bất đắc khổ, có ái biệt ly khổ, có oán tắng hội khổ, hiện tại còn có cái khổ thiên tai nhân họa, phiền phức quá lớn. Đây cũng là trong Phật pháp thường nói: “Duy thức sở biến”, cũng là ở trên kinh Phật đã nói “tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”. Chúng ta ngày ngày khởi vọng tưởng, không biết được vọng tưởng này ảnh hưởng lớn đến như vậy. Vọng tưởng này của chúng ta, thực tế mà nói, không thể nói là hư không pháp giới đều bị ảnh hưởng. Bị ảnh hưởng là tất nhiên, thế nhưng hiện tượng sóng động này cự ly càng xa thì cái sóng đó càng yếu, rất yếu nhẹ, ảnh hưởng thì nhỏ, thế nhưng ở trong phạm vi thái dương hệ chúng ta, thái dương hệ không lớn, chúng ta khởi tâm động niệm sẽ ảnh hưởng trong thái dương hệ, ảnh hưởng vận hành của những tinh cầu này, hay nói cách khác, tạo thành từ trường trong thái dương hệ. Đây là việc rất rõ ràng, do vì tất cả chúng sanhvọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Cái vọng tưởng, phân biệt, chấp trước này, dùng lời hiện tại mà nói là tình cảm hóa. Tình cảm của mỗi một người chúng ta mấy ngày là cao trào, mấy ngày là hết cao trào, từ trường này liền sanh ra thay đổi. Nhất định không thể nào giữ mãi được cao trào, chỉ có Phật Bồ tát mới có thể làm được. Chúng ta một ý niệm thiện khởi lên là cao trào, một ý niệm ác khởi lên thì là hạ thấp, đích thực có tính chu kỳ. Sự việc này người xưa đã hiểu rõ, những người thông minh của Đông phươngTây phương đều biết.

Hiện tại chúng ta sử dụng thuận tiện nhất là tuần lễ, một tuần lễ là bảy ngày, bảy ngày là một tuần hoàn nhỏ, một tháng là tuần hoàn lớn, một năm thì tuần hoàn lớn hơn, đây là tính chu kỳ. Trong một năm có xuân hạ thu đông, mùa đông có tính chu kỳ. Một tuần lễ thì lặp lại, người xưa Trung Quốc chúng ta cũng nói bảy ngày là một lần lặp lại. Bảy ngày là một lần thay đổi, bạn liền biết được bảy năm thì một lần thay đổi lớn, một cái tính chu kỳ lớn. Ở Trung Quốc, trong thế tục thì 30 năm là một đời, nên gọi là “phong thủy luân lưu chuyển”. Đó chính là nói rõ tính chu kỳ. Chỗ này các vị tỉ mỉ mà đọc lịch sử, các vị quán sát từ xưa đến nay, các vị liền xem thấy thay đổi của tính chu kỳ rất rõ ràng. Loại biến hóa này là cộng nghiệp chiêu cảm. Cộng nghiệp của đại chúng ảnh hưởng biệt nghiệp của chính chúng ta, không thể nào không bị ảnh hưởng. Loại ảnh hưởng này chính là hiện tại gọi là hiện tượng sóng động. Trong lòng chúng ta phóng ra sóng động, cái thân thể này là một vật chất, chúng ta biết được rất nhiều tế bào tạo thành, tế bào là nguyên tử tạo thành, nguyên tử là điện tử tạo thành, đều là sóng động. Trong đại hoàn cảnh, tình hình của sóng động rất phức tạp, nó ảnh hưởng chúng ta, chúng ta cũng ảnh hưởng chúng nó, như vậy tạo thành một từ trường rất phức tạp. Người Trung Quốc chúng ta thường nói “phong khí”, người nước ngoài gọi là từ trường. Từ trường lớn là vũ trụ, cùng với chúng ta rất mật thiết là hệ ngân hà và thái dương hệ, đặc biệtthái dương hệ. Hệ ngân hà thì càng to lớn, thái dương hệ thì nhỏ, có quan hệ rất mật thiết với chúng ta.

Nếu như các vị có chút hiểu được đạo lý này rồi, bạn thấy rất nhiều đồng tu ở niệm Phật đường lầu bốn Cư Sĩ Lâm chúng ta niệm Phật cảm được từ trường rất thù thắng, bước vào niệm Phật đường này liền có thể sanh tâm hoan hỉ, bước vào giảng đường này cũng có thể sanh tâm hoan hỉ. Từ trường không như nhau, cho nên bạn tỉ mỉ mà thể hội, mà quán sát, ở ngay nơi đây niệm Phật so với ở nơi khác niệm Phật, tình cảm của bạn có giống nhau không? Bạn chính mình liền có được đáp án này. Bạn ở trong giảng đường này nghe kinh, chúng ta đổi một nơi khác, đổi một giảng đường khác, bạn xem khi nghe kinh thì tình cảm của chúng ta có như nhau hay không? Không như nhau. Do đây có thể biết, phong thủy vẫn thật có. Phong khí, từ trường, phong thủy là một sự việc, nói ra danh từ không như nhau nhưng là một sự việc. Cho nên, chúng ta giảng kinh ở nơi đây, tại vì sao Cư Sĩ Lâm phải tốn rất nhiều tiền như vậy để trang nghiêm đạo tràng? Các vị xem thấy phi thiên chung quanh bốn bề đều là đặt làm ở Trung Quốc, sau khi treo lên rồi so với trước khi chưa treo lên không hề như nhau, hay nói cách khác, chúng ta liền bị nó ảnh hưởng. Cho nên, cách bày ở trên bàn như thế nào, đồ trang nghiêm bài trí thế nào đều phát ra sóng động, những sóng động này ảnh hưởng tình cảm của chúng ta. Cho nên, trang nghiêm đạo tràng là giúp cho mọi người bước vào đạo tràng trong tự nhiên liền có thể buông bỏ vạn duyên, liền có thể được thân tâm thanh tịnh. Đây là tăng thượng duyên cho chúng ta nghe kinh, nghe pháp, niệm Phật. Có được tăng thượng duyên như vậy, chúng ta ở trong đạo tràng đó thân tâm thanh tịnh, một lòng một dạ nghe pháp, niệm Phật, cảm được từ trường của chư Phật đến gia trì, cho nên giảng đường cùng niệm Phật đường có chư Phật Bồ tát đang hộ trì. Đạo tràng này chư Phật Như Lai thường hay quang lâm, long thiên hộ pháp gần như là không có gián đoạn. Đây chính là nói rõ, chúng ta tại vì sao nhất định phải đến chỗ này để niệm Phật.

Có một số đồng tu nghe nói thế gian này có tai nạn, năm 1999 có tai nạn, cách nói này không thể nói là không có đạo lý. Bởi vì năm này từ trường của thái dương hệ chúng ta là quá thấp, rất không tốt, ảnh hưởng tình cảm tất cả chúng sanh hữu tình trên địa cầu chúng ta, đây là đại từ trường không tốt, cho nên nói tai nạn này là có đạo lý. Đây cũng chính là tính chu kỳ, cái tính chu kỳ này đại khái là 500 năm, 500 năm là một chu kỳ tính. Đây chính là thái dương hệ, chín hành tinh lớn sắp xếp vận hành. Sắp xếp năm nay rất là đặc biệt, thông thường các nhà tinh tướng nói đây là năm đại hung, không kiết lợi, ở trên không trung xếp thành chữ thập, ngay trong địa cầu, từ trên địa cầu thấy được, tám hành tinh lớn bao gồm thái dương.

Đồng tu chúng ta phát tâm, từ thứ hai bắt đầu phát tâm mỗi ngày đều niệm Phật 24 giờ. Quá tốt! Chúng ta cầu mong Phật Bồ Tát bổn nguyện oai thần gia trì chúng ta không bị ảnh hưởng của từ trường này, có thể ở trong hoàn cảnh này vẫn cứ giữ được chánh niệm. Từ trường này rất dễ dàng khiến cho người khởi lên tà tư, phàm hễ tinh cầu có sự xếp đặt này thì xã hội sẽ rất loạn, con người sẽ nghĩ tưởng xằng bậy. Đây là có căn cứ, đạo lý rất sâu.

Ngày trước tôi ở Hoa Kỳ, tôi có người bạn là cư sĩ Hạ Cẩm Sơn. Đồng tu ở Hoa kỳ, đặc biệt là ở Châu Á đại khái đều rất quen biết ông, người ta đều gọi ông là Hạ lão sư. Ông xem phong thủy được rất hay. Ngày trước, khi Lôi Căn làm tổng thống có mời ông đến nhà Trắng để xem phong thủy. Ông rất nổi tiếng. Ông đã từng nói với tôi, phòng ốc chúng ta cự ngụ, mỗi một gian phòng đều phải nên là hình vuông, hình chữ nhật thì người ở rất dễ chịu; nếu như là nhiều góc cạnh, năm góc cạnh, sáu góc cạnh, thì người ở gian phòng đó, ngủ nghỉ ở trong gian phòng đó quá 100 ngày nhất định nghĩ tưởng xằng bậy. Tôi nhớ được câu nói này của ông, cũng có lúc làm thử nghiệm thử xem. Lần trước tôi đến Úc Châu, bên cạnh chỗ chúng ta ở có bán một tòa nhà, chủ nhà là một người Hoa-Malaysia. Tòa nhà đó sát vách chúng ta, mua được thì rất thích hợp. Tôi liền vào trong để xem thử, thì thấy phòng ốc bên trong, mỗi một gian phòng đều là hình năm góc. Tôi liền hỏi họ, người ở trong phòng này là thế nào? Ông có ba cô con gái. Tôi hỏi con gái của ông có vấn đề gì không? Ông nói, vấn đề thật lớn. Vấn đề gì vậy? Không nghe lời, một ngày từ sớm đến tối đều đi lung tung, nghĩ tưởng xằng bậy. Oh! Không sai. Phòng ốc của ông đều là hình năm góc, ở nơi đó 100 ngày nhất định nghĩ tưởng xằng bậy. Chỉ có một cái của người chủ ở, nơi hai vợ chồng ông ở thì là hình vuông. Người nước ngoài ưa thích làm nhiều góc nhiều cạnh, cái này làm phòng khách thì được, bởi vì người khách thì không thể ở quá 100 ngày, quyết định không thể thường trụ. Tôi muốn mua nhà của họ, nhưng tôi xem thấy phòng ốc trong nhà đều là hình năm góc thì cái nhà này tôi không thể mua, vì người của chúng ta ở trong căn nhà đó cũng sẽ nghĩ tưởng xằng bậy giống như mấy người con gái của ông. Đây chính là phàm phu sẽ bị ảnh hưởng của hoàn cảnh, bạn không thể không lưu ý.

Nhưng những người có được sức định thì họ không hề gì. Họ thì thế nào? Cảnh tùy tâm chuyển, vậy thì không hề gì. Chúng ta còn bị ảnh hưởng bởi cảnh giới bên ngoài, hay nói cách khác, cảnh giới bên ngoài còn có thể mê hoặc bạn, vậy thì bạn không thể không chọn lựa hoàn cảnh. Trung Quốc thời xưa, mẹ của Mạnh tử ba lần chọn lựa là vì sao vậy? Vì con trai của họ chọn lấy một hoàn cảnh sinh sống. Chúng ta không có trí tuệ, không có sức định, chúng ta sẽ bị hoàn cảnh bên ngoài mê hoặc, vậy làm sao mà không chọn lựa chứ? Vì vậy đạo tràng Cư Sĩ Lâm này, chúng ta chọn lựa là từ trường của Chư Phật Như Lai, mười phương Tam Bảo gia trì, cảnh giới này liền thù thắng, cho nên đạo tràng này từ trên đến dưới, mọi người đều tiếp xúc được một mảng hòa khí. Tục ngữ nói rất hay: “Gia hòa vạn sự hưng”. Hòa khí cũng là từ trường tạo thành, ở nơi khác thì bất hòa, ở ngay nơi đây thì họ lại hòa. Chỗ này chúng ta xem thấy, trong nhà chúng ta, trong nhà chính mình ở Đài Loan thì không hòa, ở Úc Châu cũng không hòa, đến ở nơi đây thì họ lại hòa. Nguyên nhân gì vậy? Đây chính là có quan hệ với từ trường, có quan hệ với sự gia trì của chư Phật Bồ Tát. Cho nên, tu học không thể không chọn lựa đạo tràng, đạo tràng không thể không trang nghiêm. Chân thật trang nghiêmnhất tâm, nhất tâmchân thật trang nghiêm. Một lòng vì đại chúng, một lòng vì Phật pháp, đây là chân thật trang nghiêm. Quyết không thể có một niệm riêng tư, có một niệm riêng tư thì tương ưng với ma, một niệm tâm thanh tịnh, một niệm vì chúng sanh, vì Phật pháp, thì liền tương ưng với chư Phật Bồ tát. Đây là chúng ta nói đến “vô lượng diệu sát”. “Diệu sát”, một người ở ngay trong một đời không dễ dàng gì gặp được, gặp được rồi thì quyết định không thể buông bỏ.

Thế nhưng cũng có số ít đồng tu ở đạo tràng này, sau khi niệm được một thời gian thì sanh phiền não, bước vào đạo tràng này thì tâm của họ tán loạn, tâm không thể định lại, đây là do nguyên nhân gì? Tập khí nghiệp chướng từ vô lượng kiếp đến nay hiện tiền. Hiện tượng này cũng là hiện tượng bình thường, thế nhưng bạn phải có nghị lực để khắc phục, phải phát tâm chân thành để sám hối. Đây là cái ải để tu hành. Sau khi đột phá được rồi, cảnh giới của bạn liền sẽ nâng lên được một tầng. Quyết không thể bởi vì phiền não này dày vò mà thoái tâm, mà không trở lại, vậy thì bạn sai rồi. Các vị phải nên biết, ngạn ngữ thường nói: “Một nhà no ấm ngàn nhà oán”, một mình bạn đời sống được tốt, người khác xem thấy đỏ mắt đố kỵ, chướng ngại. Điều này quyết định không thể né tránh. Bạn tu hành được không tệ, công phu đắc lực, oan gia trái chủ của bạn từ vô thỉ kiếp gây phiền phức. Họ tu cũng không tệ, họ muốn lìa khỏi sáu cõi, muốn đến thế giới Cực Lạc, vậy oán của chúng ta không thể báo, cừu cũng không thể báo, nợ cũng không thể đòi, vậy thì không được, làm sao có thể để cho họ đi? Nghĩ ra hết cách để kéo bạn lại, bạn liền gặp phải một số ma nạn. Những ma nạn này từ nơi đâu mà có? Oan gia trái chủ. Bạn ngay đời này là người tốt, không đắc tội với người nào, đời trước thì sao? Đời trước nữa thì sao? Đời đời kiếp kiếp oan gia trái chủ của chúng ta không biết là có đến bao nhiêu. Những người này ngày nay xem thấy chúng ta tu hànhthành tựu làm gì mà không đố kỵ, làm gì mà không đến gây phiền phức? Cho nên chúng ta mỗi ngày đọc kinh cũng tốt, nghe pháp cũng tốt, niệm Phật cũng tốt, chân thành hồi hướng cho những oan gia trái chủ này. Tôi tu có được cái tốt, các vị đều có phần, mọi người đều có phần. Nếu như các vị chướng ngại tôi thì các vị mọi người đều không có phần công đức. Thành tựu của chúng ta chính là thành tựu của mọi người. Chính mình thành Phật, tương lai thứ nhất chính là độ những oan gia trái chủ này, cùng họ có duyên. Tại vì sao trong kệ hồi hướng nói là “trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ ba đường khổ”? Đạo lý chính ngay chỗ này, hy vọng trên đạo Bồ Đề, những oan gia trái chủ này ít gây phiền não, ít chướng ngại. Nhất định phải thành tâm thành ý đem công đức đã tu được đều hồi hướng đến cho họ.

Niệm Phật đường niệm Phật 24 giờ đồng hồ không gián đoạn, chúng ta chia ban để niệm, niệm Phật đường này là niệm Phật đường bình thường. Hôm qua, Sư Ngộ Toàn nói với tôi, hiện tại có kiếp nạn, chúng ta niệm Phật 24 giờ đồng hồ, qua kiếp nạn rồi chúng ta lại hồi phục lại bình thường. Cái gì gọi là bình thường? Vậy hiện tại mỗi ngày niệm Phật 24 giờ là không bình thường hay sao? Niệm Phật 24 giờ đồng hồ không gián đoạn mới gọi là bình thường. Cho nên niệm Phật đường đã mở rồi thì vĩnh viễn niệm Phật 24 giờ đồng hồ không gián đoạn. Các vị phải nên biết, như vậy thì chư Phật xem thấy hoan hỉ, long thiên ủng hộ. Ngày trước Phật Bồ Tát hai ba ngày đến một lần, khi mọi người làm như vậy thì Phật Bồ Tát ngày ngày đến xem, không phải là hai ba ngày hay một tuần lễ đến thăm một lần, mà sẽ đến chăm sóc mọi người mỗi ngày.

Hoan nghênh đồng tu, chỉ cần có thời gian, ngày đêm đều có thể đến niệm Phật đường niệm Phật. Niệm mệt rồi, họ có chuẩn bị nơi nghỉ ngơi cho bạn. Nghỉ ngơi khỏe rồi phải mau vào niệm Phật đường để niệm Phật. Tôi vẫn là một câu thành thật, khi nghỉ ngơi không nên cởi áo tràng ra thì tính cảnh giác tương đối cao. Khi cởi áo tràng rồi thì sẽ ngáy khò khò, quên hết tất cả, Phật cũng quên luôn. Không nên cởi áo tràng, nghỉ ngơi một lát, nghỉ ngơi một giờ đồng hồ, hai giờ đồng hồ thì tốt, rất dễ dàng cảnh giác. Niệm Phật như vậy công phu không gián đoạn, chúng ta ngày đêm Phật hiệu không gián đoạn, đích thực không chỉ tiêu đi nghiệp chướng của chính mình, mà còn có thể giúp cho tất cả chúng sanh khổ nạn thế giới này tiêu tai giải nạn.

Nhược ngã đắc văn, như thị đẳng pháp, tư duy tu tập, thệ mãn sở nguyện”.

Đây là thái độ làm học trò. Người làm thầy giáo có được học trò như vậy, đây cũng là bảo. Ngày trước lão sư Lý nói qua với tôi là từ xưa đến nay, một học trò tốt muốn tìm một vị lão sư giỏi là khó, có thể gặp mà không thể mong cầu. Thầy cũng nói, một vị lão sư giỏi muốn tìm một học trò tốt thì càng khó, rất không dễ dàng. Hôm nay chúng ta ở chỗ này xem thấy Pháp Tạng là một học trò tốt, Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai là vị thầy tốt, hợp với sư chất, cho nên có được thành tựu thù thắng như vậy. Việc này chúng ta phải nên tường tận, nếu như gặp được cái cơ duyên này phải biết trân trọng. Chúng ta làm sao biết được Ngài là một học trò tốt? Ngài đầy đủ ba huệ. Bạn xem, “nhược ngã đắc văn”, phía sau là “tư duy tu tập”, Văn-Tư-Tu ba huệ, chân thật có thể đem lời thầy dạy thọ trì đọc tụng, y giáo phụng hành, Ngài thật làm.

Văn-Tư-Tu ba huệ, ở chỗ này đơn giản sơ lược giới thiệu qua với các vị, vạn nhất không nên xảy ra hiểu lầm. Thí dụ chúng ta ở nơi đây giảng kinh, hai giờ đồng hồ này bạn ở nơi đây nghe, sau khi nghe rồi có phải là khi quay về nghĩ ngơi thêm nhiều, nghiên thảo lại thì đó là tư duy? Nghĩ tường tận rồi, chúng ta lại làm theo, đó là tu hành? Nếu là cách làm này thì bạn cũng là Bồ Tát rồi. Ba huệ là Bồ Tát tu, Thanh Văn, Duyên Giác đều không làm được. Chúng ta như vậy mà nghe hiểu tư tu thì thảy đều sai hết. Văn-Tư-Tu gọi là ba huệ, văn huệ, tư huệ, tu huệ. Huệ là gì vậy? Huệ là huệ của giới-định-huệ. Như vậy mới biết được Bồ Tát tu cùng với sơ học chúng ta không giống nhau. Tiểu thừa tu giới-định-huệ, Bồ Tát Đại thừa tu ba huệ. Đại thừaxây dựng ở trên nền tảng của Tiểu thừa. Trì giới được định khai trí tuệ, sau khi huệ khai rồi thì mới có văn-tư-tu ba ý nghĩa này, trong huệ đầy đủ ba ý nghĩa này.

Văn là gì? Văn biểu thị tiếp xúc, tai nghe là văn, mắt thấy cũng gọi là văn, lưỡi nếm vị cũng gọi là văn, thân tiếp xúc cũng gọi là văn, dùng một chữ để đại biểu. Tại vì sao không dùng “kiến” làm đại biểu? Bồ Tát Văn Thù ở trong hội Lăng Nghiêm nói với chúng ta: “Thử phương chân giáo thể, thanh tịnh tại âm văn”. Chúng sanh thế giới Ta Bà, trong sáu căn thì nhĩ căn là mạnh nhất, cho nên dùng chữ này làm đại biểu. Dùng văn-tư-tu, không dùng kiến tư tu là ý nghĩa này, nó đại biểu tiếp xúc.

Tư là gì vậy? Tư là đại biểu tường tận, vừa tiếp xúc là tường tận. Sau khi tiếp xúc còn nghĩ tưởng mới tường tận thì đã đọa lạc ngay trong sáu thức rồi, không thể tư. Cho nên tư ở ngay chỗ này đại biểu rõ ràng, tiếp xúc liền rõ ràng. Rõ ràng đương nhiên là không mê, không mê thì gọi là tu. Cho nên các vị phải nên biết, văn-tư-tu là đồng thời, không có trước sau thứ lớp, không có cách khoảng của thời gian, cho nên gọi là Huệ chính là giới-định-tuệ, đó mới gọi là huệ. Bồ Tát tu ba huệ. Ba huệ tu ở chỗ nào vậy? Tu ở bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, cho nên ba huệ thực tiễn ngay trong sáu Ba La Mật, sáu cương lĩnh ngay trong cuộc sống thường ngày thực tiễn ở ngay chỗ này. Chỗ này đồng tu cần phải làm cho rõ ràng. Pháp Tạng ở ngay chỗ này không phải là phàm phu, từ câu này chúng ta liền biết được Ngài đã thành tựu giới-định-huệ rồi. Đây là cao túc dưới hội của Thế Gian Tự Tại Vương Phật, học trò tốt, đệ tử tốt, Ngài có được thành tựu như vậy.

“Thệ mãn sở nguyện”. Ngài phát đại thệ nguyện, chỉ cần lão sư dạy bảo Ngài, Ngài sau khi nghe rồi nhất định có thể thực tiễn nguyện vọng của Ngài. Nguyện vọng của Ngài chính là phía sau sẽ nói rộng cầu, chọn lựa. Đây là nói rõ thế giới Cực Lạc không phải là dựa vào không mà hư tạo, không phải tùy theo ý của chính mình mà tạo, mà là tập hợp thành tựu tốt nhất của tất cả cõi nước chư Phật, xả bỏ tất cả cảnh giới thô ác của cõi nước chư Phật, chọn lấy tinh hoa tốt nhất để kiến tạo thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc thù thắng là ở ngay chỗ này. Đây là nguyện vọng của Ngài.

Chúng ta tiếp tục xem xuống phía dưới, đây là “Phật vi tuyên thuyết”, là Phật khai thị cho Ngài.

Kinh văn: “Thế Gian Tự Tại Vương Phật, tri kỳ cao minh, chí nguyện thâm quảng”.

Hai câu nói này là quán cơ nói pháp. Nếu như không phải loại căn cơ này, nói cho họ nghe rồi cũng không ích gì. Phật đối với học trò này, biết được Ngài là “cao minh”. “Cao” là nói Ngài có đức hạnh, “minh” là nói Ngài có trí tuệ, đây là điều kiện cơ bản của học trò tiếp nhận lão sư dạy bảo. Có trí tuệ, không có đức hạnh, thiện tri thức sẽ không dạy bạn. Có đức hạnh, không có trí tuệ, thiện tri thức vẫn là rất bằng lòng đến dạy bạn. Đức hạnh là bậc nhất.

Khổng Lão Phu Tử dạy học cũng lấy đức hạnh xếp ở hàng đầu. Phu Tử có bốn khóa mục, thứ nhất là đức hạnh, thứ hai là ngôn ngữ, chúng ta nghe rồi không thể không cẩn trọng. “Khẩu vi họa phước chi môn”. Trong Nội Điển Giảng Tòa Chi Nghiên Cứu có nêu lên rất nhiều thí dụ, một lời hưng bang, một lời mất nước. Một người thành tựu của một đời, gia đình hưng vượng, quốc gia hưng thịnh, ngôn ngữthen chốt. Cho nên, Phu Tử ở ngay nơi đức hạnh chính là dạy bạn phải ăn nói như thế nào, bạn phải biết nói chuyện. Thứ ba mới dạy chánh sự. Chánh sự, dùng lời hiện đại để nói, chính là dạy bạn một số kỹ thuật để mưu sinh, hiện tại chúng ta gọi là giáo dục kỹ năng, giáo dục năng lực kỹ thuật. Sau khi bạn học rồi, bạn tương lai ở trong xã hội có được một kỹ năng sở trường, có năng lực mưu sinh, có năng lực phục vụ xã hội. Sau cùng mới là văn học, đề cao đời sống tinh thần của bạn. Đây giống như một loại thi từ ca phú vậy, loại này xếp ở sau cùng.

Giáo học của nhà Phật cũng là đem đức hạnh trí tuệ xếp ở thứ nhất, ở trong bổn kinh đặc biệt xem trọng ngôn ngữ. Thế Tôn ở trên bổn kinh dạy chúng ta tu hành cần phải tuân thủ ba loại tịnh nghiệp, đem “khéo giữ khẩu nghiệp” để ở hàng đầu. Cái ý này chẳng phải hoàn toàn giống với Khổng Lão Phu Tử hay sao? Đem “khéo giữ thân nghiệp, khéo giữ ý nghiệp” đặt ở phía sau. Miệng dễ dàng tạo nghiệp.

“Chí nguyện thâm quảng” rất là khó được. Bạn có đức hạnh, có trí tuệ, có học vấn, bạn không có chí nguyện không có từ bi, vậy cũng uổng phí, bạn chỉ có thể tự lợi, không thể lợi tha, cho nên nhất định phải có tâm đại từ bi. Chí nguyện này chính là đại từ đại bi. Mỗi niệm vì pháp giới tất cả chúng sanhlo nghĩ, không chỉ là đại từ bi, mà còn là thanh tịnh đại từ bi, bình đẳng đại từ bi. Việc này khó được.

“Thâm quảng”, Pháp Tạng Ngài phải phổ độ mười phương ba đời tất cả chúng sanh bình đẳng cùng đăng đắc A Di Đà Phật cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Bạn nói xem, hi hữu dường nào! Học trò như vậy đến nơi nào để tìm? Chư Phật Như Lai đời đời kiếp kiếp giáo hóa tất cả chúng sanh cũng khó gặp được một học sinh tốt đến như vậy, cho nên câu này là quán cơ, trong phán khoa nói “tri cơ”. Phía sau lại vì Ngài nói pháp, đáp ứng nhu cầu của Ngài.

Kinh văn: “Tức vi tuyên thuyết, nhị bách nhất thập ức chư Phật sát độ, công đức nghiêm tịnh, quảng đại viên mãn chi tướng, ứng kỳ tâm nguyện, tất quán dữ chi. Thuyết thị pháp thời, kinh thiên ức tuế”.

Pháp Tạng thỉnh pháp, Thế Tôn vì Ngài “quảng diễn chư Phật vô lượng diệu sát”. Phật quả nhiên vì Ngài tuyên thuyết “nhị bách nhất thập ức chư Phật sát độ”. “Nhị bách nhất thập ức” không phải là số tự. Nếu như muốn nói là số tự, số tự này không lớn. Trên kinh A Di Đà nói với chúng ta, thế giới Cực Lạc cách thế giới Ta Bà chúng ta mười vạn ức cõi nước Phật. Hai trăm mười ức mà so với mười vạn ức thì số tự này quá nhỏ. Các vị phải nên biết, số tự ở chỗ này là biểu pháp. Nếu như chúng ta lấy trên kinh Hoa Nghiêm, trên Đại Trí Độ Luận đã nói, thì đây là đại biểu viên mãn. Trong Phật pháp dùng số tự đại biểu viên mãn thường hay dùng số bảy. Bảy là đại biểu viên mãn, cho nên trên kinh A Di Đà nói bảy là biểu thị viên mãn. Trên kinh Hoa Nghiêm dùng mười biểu thị viên mãn, một đến mười là biểu thị viên mãn, nó không phải số tự.

Ở bổn kinh phía trước chúng ta xem thấy, kinh văn bổn kinh tuy không nhiều, nhưng giáo nghĩa của bổn kinh này viên mãn đầy đủ tất cả nghĩa lý, cho nên ở trong kinh này, những giáo nghĩa của Đại thừa, Tiểu thừa, Hiển giáo, Mật giáo, Tông môn, Giáo hạ thảy đều đầy đủ. Phía trước chúng ta đọc đến “Hiền Hộ đẳng thập lục chánh sĩ”, mười sáu đại biểu viên mãn. Trong Mật tông thường dùng hai mươi sáu để đại biểu viên mãn. Hai trăm mười ức là bảy đại viên mãn. Ba lần bảy là hai mươi mốt. Hai trăm mười ức chính là hai mươi mốt đại viên mãn. Trong Mật tông cũng thường dùng hai mươi mốt để đại biểu viên mãn. Cho nên, hai trăm mười ức cõi nước chư Phật chính là phía trước Pháp Tạng đã mong cầu chư Phật vô lượng diệu sát, Phật không hề giảm bớt đi. Ngài thỉnh cầuvô lượng cõi Phật, đức Phật chỉ nói cho Ngài hai trăm mười ức, vậy chẳng phải là cắt bớt đi rất nhiều hay sao? Như vậy làm sao có thể đầy đủ được nguyện vọng của học trò? Từ xưa đến nay, lão sư dạy bảo học trò là quán sát căn cơ của học trò, trong căn tánh còn có một điều quan trọng là xem thành ý của họ. Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích. Pháp Tạng hôm nay có mười phần thành kính, nếu như Thế Gian Tự Tại Vương chỉ nói cho Ngài nghe hai trăm mười ức cõi nước chư Phật thì là có lỗi với Ngài. Nếu như hai trăm mười ức là số tự, vậy thì chỉ một phần thành kính. Người ta mười phần thành kính, bạn chỉ nói một phần pháp thì bạn làm sao xứng được với họ chứ? Nếu như họ chỉ có một phần thành kính, Phật nói pháp với họ không thể nói hai phần, vì sao vậy? Hai phần thì họ không thể dung nạp, họ chỉ có cái lượng như vậy. Thị hiện của Thế Tôntùy cơ ứng lượng, bạn cần đến bao nhiêu thì cho bạn bấy nhiêu, bạn có thể tiếp nhận bao nhiêu thì cho bạn bấy nhiêu, cho nên đây là đại biểu đại viên mãn, chính là ý nghĩa vô lượng mà phía trước đã nói.

Phật đã nói cho Ngài những gì? Nói ra “công đức, nghiêm tịnh, quảng đại, viên mãn” trong tất cả cõi nước chư Phật. Đây là nêu ra bốn cái thí dụ làm một đại biểu. “Công” là công phu của bạn tu học. Công phu tu học của bạn lớn thì bạn có được quả báo lớn, bạn công phu tu học sâu thì bạn được quả báo sâu, cho nên công đức, chữ đức này cùng với chữ đắc của đắc thất là một ý nghĩa. Công là nhân, đức là quả báo, cho nên công đức không giống với phước đức, chúng ta cần phải phân biệt cho rõ ràng. Thí dụ trì giới, trì giới có công thì là có định, định chính là đức. Trì giới nếu không có công thì bạn không thể được định, thế nhưng trì giới là phước, nghiêm trì cấm giới bạn được phước báo, bạn không thể có được thiền định. Được thiền định thì trì giới liền có công. Cho nên giới luật có giữ được nghiêm hơn nhưng không thể được định thì bạn trì giới không có công, không có công phu. Tại vì sao không có công phu? Phiền não của bạn vẫn khởi hiện hành. Định có thể phục phiền não, có thể đoạn phiền não. Tại vì sao trì giới không thể được định, không có công phu? Phạm phải một cái lỗi lầm thật to lớn là “thường thấy lỗi thế gian” thì bạn trì giới sẽ không có công phu. Không chỉ khôngcông phu, hơn nữa còn có phiền não, tại vì sao vậy? Do xem thường người khác, chính mình cho rằng chính mình giới hạnh rất cao siêu, người tu hành thông thường đều không bằng, đều không thể so sánh, đó là tăng thêm cống cao ngã mạn. Nếu như cách tu hành kiểu này thì quả báo sẽ không tốt, vì sao? Thọ báo trong A Tu La. A Tu Laphước báo nhưng cống cao ngã mạn, cho nên quả báo ở trong đường A Tu La. Có lẽ bạn cảm thấy A Tu La cũng không tệ. Điều này chưa chắc. Bạn đi đọc kinh Lăng Nghiêm thì biết, A Tu Lanhân gian A Tu La, có ngạ quỷ A Tu La, có súc sanh A Tu La, bạn đến cõi nào để làm A Tu La? Không nhất địnhcõi trời, bạn phải có phước phần của cõi trời thì bạn mới có thể lên được trời A Tu La. Nếu như khôngphước đức của cõi trời, thì A Tu La của bạn không ở cõi trời. Những cái nhân nhân quả quả này chúng ta phải làm cho thật rõ ràng, thật tường tận, một chút cũng không thể sai biệt.

Công đức cùng phước đức không như nhau. Người thế gian thí tài, thí pháp đều là phước. Pháp sư ở trên giảng đài giảng kinh nói pháp là pháp bố thí, cũng là phước báo, cũng là làm phước đức, không phải là công đức. Làm thế nào giảng kinh nói pháp mà phước đức biến thành công đức? Người xưa nói với chúng ta “tùy văn nhập quán”, như vậy bạn giảng kinh nói pháp chínhcông đức, liền siêu quá phước đức, bạn giảng đến kinh văn này, cái tâm của chính mình liền vào được cảnh giới này. Nếu như không thể vào được cảnh giới của kinh văn thì thảy đều là phước đức, đời sau được thông minh trí tuệ. Cho nên trì giới có công, được định chính là đức. Tu định có công, khai huệ chính là đức. Cho nên bạn liền biết được, công là nhân, đức là quả. Chỉ có công đức mới là chân thật trang nghiêm, vì sao vậy? Trong công đứcđức hạnh, có trí tuệ. Giới địnhđức hạnh, từ định khai huệ, đó là trí tuệ chân thật. Đức hạnh trí tuệ mới là trang nghiêm chân thật.

“Tịnh” là thanh tịnh. Nếu như không phải từ giới-định-huệ mà thành tựu, thì làm gì được thanh tịnh? Thế giới Tây Phương Cực LạcTịnh Độ. Tịnh Độ từ do đâu mà có? Tịnh Độ từ tâm thanh tịnh mà có. Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh. Chúng ta ở trong lúc giảng giải đã từng nói qua với các vị nhiều lần, người đến trung niên về sau đều cảm thấy sức khỏe là quan trọng, đều yêu tiếc thân thể của chính mình, thương tiếc thân mạng của chính mình, vậy làm sao giữ gìn? Tâm thanh tịnh là quan trọng. Tâm thanh tịnh thì thân liền thanh tịnh, liền được khỏe mạnh sống lâu. Có lẽ có đồng tu từng nghe người ta nói, thọ mạng của người là nhất định. Trường thọ là trong mạng họ đã chú định được trường thọ, trong mạng không có được tuổi thọ dài đến như vậy thì cũng không cách gì kéo dài. Người hiện tại nói y dược phát triển, rất nhiều người tuổi thọ dài hơn so với một thế kỷ trước, lời nói này chúng ta nghe qua cảm thọ không như nhau. Nếu như chân thật những y dược này có thể trị liệu bảo dưỡng, có thể kéo dài được tuổi thọ, thì định luật nhân quả đã bị đánh đổ rồi chăng? Làm gì có loại đạo lý này? Người chân thật hiểu rõ chân tướng sự thật, họ sẽ không đồng ý cách nói này. Có thể nói giữ cho giảm ít bệnh tật, hoặc là làm cho tật bệnh giảm nhẹ, nhưng quyết định không thể kéo dài được tuổi thọ.

Hơn nữa bệnh đau ở trong Phật pháp nói có ba loại, cho nên rất nhiều loại bảo khang chỉ có thể làm cho thân thể khỏe mạnh, chỉ có thể giữ được loại bệnh này, bệnh oan nghiệp thì không thể giữ. Như trong Từ Bi Tam Muội Thủy Sám, Quốc sư Ngộ Đạt bị ghẻ mặt người thì thuốc vô hiệu, bất cứ thứ thuốc nào ở thế gian này đều không hiệu quả đối với nó. Oan gia trái chủ đến tìm bạn, đó không phải là bệnh sinh lý mà là bệnh oan nghiệp. Hiện tại ở trong xã hội này, ở trong nước, ở ngoài nước, chúng ta xem thấy rất nhiều nơi nói là có một số thứ gì đó nhập vào thân, thân thể ý thức của họ đều không thể tự chủ, nghe người khác xếp đặt, đó là gì vậy? Oan nghiệp nhập thân. Dược liệu có tiến bộ hơn, bác sĩ có giỏi hơn cũng không có cách gì trị hết loại bệnh này. Điều này chứng minh năng lực của dược liệu rất có hạn, đây là bệnh không thể trị hết.

Bệnh oan nghiệp vẫn có phương pháp hóa giải, gặp phải thứ này, chúng ta tụng kinh bái sám, niệm Phật hồi hướng cho họ. Nếu họ chịu tiếp nhận thì họ liền rời khỏi, bệnh của bạn liền khỏi. Bệnh oan nghiệp, bạn phải chân thật thành tâm thành ý mà làm, có lúc rất có hiệu nghiệm, đại đa số đều có thể tiếp nhận, đều có thể hóa giải.

Loại thứ ba gọi là bệnh nghiệp chướng thì càng đáng lo, tức là chính mình hoặc là quá khứ hoặc là đời này tạo tội nghiệp cực trọng, đó là chiêu cảm bệnh đau, không phải là oan quỷ đến tìm bạn, lại không phải là bệnh ở trên thân, cái bệnh đó thì rất khó trị.

Ba loại bệnh trạng này chúng ta tùy thời tùy lúc đều có thể gặp phải, đều có thể gặp được. Bệnh nghiệp chướng chỉ có một phương pháp có thể trị liệuchân thành sám hối, triệt để sám hối thì được. Đây là sám trừ nghiệp chướng. Cho nên các vị nhất định phải nên biết, tất cả trị liệu của thế gian, người Trung Quốc chúng ta thường hay mê tín tẩm bổ, công hiệu rất là có hạn. Tâm thanh tịnh là đệ nhất. Người tâm thanh tịnh, người tâm chân thành, người tâm từ bi thì oan gia trái chủ xem thấy cũng không dám tùy ý đến hãm hại bạn, vì sao vậy? Bạn có thần hộ pháp bảo hộ, có những thiện thần đến giúp đỡ bạn, họ không thể đến gần. Nếu như tâm của bạn không thanh tịnh, bạn còn có ý niệm tự tư tự lợi, còn có ý niệm tham-sân-si-mạn, thì phiền phức này sẽ rất lớn, oan gia trái chủ của bạn liền có được thuận tiện, có dịp để báo thù, bạn không có thiện thần bảo hộ, không có thần hộ pháp giúp đỡ.

Chúng ta xem thấy ở trong Từ Bi Tam Muội Thủy Sám, oan gia trái chủ của Quốc sư Ngộ Đạt không phải là một đời, đều là đời trước, tại vì sao không thể báo thù Ngài? Đến đời thứ hai là Ngài xuất gia, đời thứ ba cũng xuất gia, đến lần này gặp được là đời thứ mười. Đời thứ mười Ngài cũng xuất gia, Ngài có tu trì, có thần hộ pháp bảo hộ, oan gia này không thể đến gần. Đến khi đời thứ mười, Ngài làm Quốc sư. Các vị phải nên biết, đại đức trong nhà Phật, địa vị cao đến như vậy quyết không phải là thành tựu của một đời, tu học của một đời không đến được vị trí này. Quốc sư Ngộ Đạt mười đời là cao tăng, khiến chúng ta nghĩ đến thời xưa, những vị đại thiện tri thức này được quốc vương đại thần tôn kính không phải là tu hành của một đời, mà là thành quả của nhiều đời nhiều kiếp tu hành. Ngài là thầy của Hoàng đế, ai mà không tôn kính Ngài? Hoàng đế cúng dường cho Ngài một cái bảo tòa trầm hương, sau khi Ngài tiếp nhận rồi liền sanh ra cái tâm ưa thích, một ý niệm ngạo mạn sanh khởi, cảm thấy người xuất gia trong thiên hạ đều không bằng được Ngài. Cái ý niệm này vừa mới sanh thì thần hộ pháp liền đi mất, ông không còn đức hạnh, thoái chuyển rồi, nên đều bỏ đi hết, oan gia trái chủ tìm đến thân, gần như lấy đi cái mạng. Cho nên, đức hạnh không thể kém khuyết đi chút nào. Một ý niệm sai thì đáng ngại rồi, nếu như mỗi niệm đều sai thì nhất định đọa lạc, đi vào ba đường. Chúng ta đọc qua những điển tích này phải biết đề cao cảnh giác, những người đó đều là tấm gương cho chúng ta, chúng ta phải học theo gương tốt. Những người này thị hiện ra rất nhiều lỗi lầm, chúng ta phải nỗ lực phản tỉnh, quyết định không thể phạm. Mười đời là cao tăng mà khởi lên ý niệm ác liền rước lấy phiền phức đến như vậy, chúng taphàm phu, chúng ta khởi tâm động niệm tạo nghiệp, tương lai sẽ ra sao chứ?

Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo kinh phải thường đọc. Trên kinh đó là Thế Tôn đại từ đại bi nói ra tâm bệnh của người xuất gia thời Mạt Pháp, chúng ta thường hay mỗi niệm nghĩ xem chính mình có phạm hay không? Nếu như chính mình còn phạm phải rất nhiều, còn phạm rất nặng, thì chính mình phải nên biết, tiền đồ của ta quyết địnhA Tỳ Địa ngục, không nên cho rằng niệm Phật thì có thể vãng sanh, không dễ dàng như vậy. Thế giới Cực Lạc là “chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ”. Tâm địa bất thiện, người xưa nói niệm Phật niệm đến “gió thổi không lọt, mưa không thấm ướt”, bạn cũng không thể vãng sanh. Cho nên niệm Phật chân thật vãng sanh phải niệm đến thế nào? Niệm đến tâm thanh tịnh. Chỗ này ngay trong lúc giảng giải cũng thường hay nhắc nhở các đồng tu, niệm Phật phải niệm hết đi phiền não, phải niệm hết đi tập khí. Sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, cái tâm này vừa động thì liền một câu A Di Đà Phật đem cái ý niệm đó đè xuống. Đây gọi là công phu. Một mặt niệm Phật, một mặt khởi vọng tưởng thì có ích gì chứ? Đó chính là người xưa nói: “Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn, đau mồm rát họng chỉ uổng công”. Cho nên mục đích của niệm Phật, trên kinh Di Đà nói rất hay: “Nhất tâm bất loạn”.

Mục đích của niệm Phật là phải niệm đến nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn chính là tâm thanh tịnh hiện tiền. Sau đó mới chân thật hiểu được, người xưa thường nói “tâm tịnh thời cõi nước tịnh”, đây là điều kiện quyết định được sanh Tịnh Độ. Tâm địa thanh tịnh, lời trong tông môn nói là “ngoài không dính mắc, trong không động tâm”, tâm liền thanh tịnh. Những thứ năm dục sáu trần bên ngoài đang mê hoặc chúng ta, chúng ta có chút tham đắm thì hỏng rồi, cho nên ý niệm đó vừa khởi thì niệm A Di Đà Phật, lập tức đổi ngay cái ý niệm đó. Người xưa đã nói là “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Đề khởi một câu A Di Đà Phật là giác, phải giác được nhanh, không nên để cho ý niệm này tiếp nối. Cách niệm Phật là niệm như thế, công phu niệm Phật là từ chỗ này mà luận. Trong không động tâm, bên trong không có vọng tưởng, không có phiền não. Bên trong phiền não, vọng tưởng khởi lên thì A Di Đà Phật đem nó đè xuống, công phu ở chính ngay chỗ này. Bên ngoài không dính mắc, trong không động tâm, niệm Phật như vậy thì đúng pháp, như lý như pháp, niệm Phật như vậy thìcông đức. Niệm Phật là công, hàng phục phiền não là đức. Không chỉ không bị mê hoặc bởi tất cả pháp thế gian, mà xuất thế gian pháp cũng không bị mê hoặc, một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng, ở cái thế gian này tất cả tùy duyên mà không phan duyên. Tùy duyên thì tự tại, đây là hạnh phúc chân thật. Chữ “tịnh” này chúng ta phải xem trọng, đặc biệt xem trọng.

“Quảng đại viên mãn chi tướng”.

Quảng đại viên mãn là cực kỳ hình dung. Hình dung cái gì? Hình dung công đức quảng đại viên mãn, nghiêm tịnh quảng đại viên mãn. Phật đem tất cả cái tướng lý sự nhân quả công đức nghiêm tịnh trong mười phương vô lượng vô biên cõi nước chư Phật, trước tiên giới thiệu rõ ràng cho Bồ Tát Pháp Tạng. Không chỉ nói với Ngài, phía trước yêu cầu quảng diễn, cho nên phía sau nói “ứng kỳ tâm nguyện, tất hiện dữ chi”. Phật nói đến cõi nước của vị Phật nào liền đem hiện tượng của cõi nước Phật đó trình hiện ở ngay trước mặt Ngài, giống như hiện tại chúng ta xem truyền hình vậy, mọi hình sắc của thế giới này làm cho bạn thấy rõ ràng. Không chỉ giảng cho bạn, mà là từng cái từng cái hiện ra cho bạn xem, “Tất hiện dữ chi”. Mười phương thế giới vô lượng vô biên, đây không phải là thời gian ngắn mà có thể phân biệt được.

“Thuyết thị pháp thời, kinh thiên ức tuế”.

Nhất tuế là một năm. Bạn xem thấy Tỳ kheo Pháp Tạng cầu học với Thế Gian Tự Tại Vương Phật bao nhiêu thời gian vậy? “Thiên ức tuế”. Chúng ta ở nơi đây học được hai năm ba năm thì đã nghĩ là thời gian dài đến như vậy, người ta ở nơi đó học là ngàn ức năm. Đương nhiên Ngài thọ mạng dài, phía trước đã nói qua, Thế Gian Tự Tại Vương trụ thế, giảng kinh nói pháp 42 kiếp. Thích Ca Mâu Ni Phật chúng ta năm xưa ở đời, giảng kinh nói pháp 49 năm. Chúng sanh thế gian này nghiệp chướng sâu nặng, thọ mạng ngắn ngủi, sống ở thế gian này nhất định phải chịu sanh-lão-bệnh-tử khổ, nghiệp báo. Cho nên, chúng ta từ xem thấy tình hình xã hội đó của Thế Gian Tự Tại Vương, thọ mạng của Ngài rất dài, Ngài giảng kinh nói pháp 42 kiếp thì Ngài trụ thế nhất định sẽ dài hơn như thế. Thích Ca Mâu Ni Phật chúng ta giảng kinh nói pháp 49 năm, thọ mạng của Phật là 79 tuổi. Người Trung Quốc chúng ta nói 80 tuổi là nói tuổi mụ, Phật là 79 tuổi nhập diệt. Nếu như chiếu theo thí dụ này mà nói, khi thêm vào một lần nữa, vào lúc đó thọ mạng của người, tổng cộng bảy - tám mươi kiếp, cho nên thời gian ngàn ức năm đối với họ cũng không xem là thời gian ngắn. Có thời gian dài đến như vậy mới có thể đem cái tướng quảng đại viên mãn công đức nghiêm tịnh cõi nước chư Phật nói với Ngài rõ ràng, mới thị hiện rõ ràng cho Ngài. Không có thời gian dài đến như vậy thì làm sao được? Đây cũng là nói với chúng ta, tu hành nhất định là nhiều kiếp, tuyệt đối không phải thời ngắn thì có thể thành tựu. Hiện tại còn có người nói “bổn nguyện niệm Phật” gì đó, đợi đến khi lâm chung, niệm một câu A Di Đà Phật liền có thể vãng sanh. Việc này thì thật là khó được, quá thù thắng. Bình thường có thể nghĩ tưởng xằng bậy, đến khi lâm chung một niệm thì được rồi, đây là đặc biệt sai lầm. A Di Đà Phật cầu học còn phải dùng thời gian một ngàn kiếp để nghe kinh nghe pháp, còn bạn thì không cần nghe bất cứ thứ gì, khi đến lúc lâm chung một câu A Di Đà Phật thì có thể làm Phật, làm gì có việc dễ dàng đến như vậy? Vạn nhất không nên hiểu sai đi kinh Vô Lượng Thọ.

Kinh văn: “Nhĩ thời Pháp Tạng, văn Phật sở thuyết, tất giai đỗ kiến khởi phát vô thượng, thù thắng chi nguyện”.

Ở phía trước, chúng ta xem thấy những sự tướng cần học ở nhân địa của A Di Đà Phật đều là muốn dạy bảo chúng ta phải học tập. Phật Bồ Tát chính là làm ra tấm gương cho chúng ta xem. Cầu học, điều thứ nhất là phải có lòng tin đối với lão sư. Học nghiệp đạo nghiệp của chính chúng ta có thể có thành tựu hay không, then chốt chính ngay chỗ này. Cho nên, Pháp sư Ấn Quang Ngài mới nói: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Đây chính là người xưa Trung Quốc thường nói tôn sư trọng đạo. Kỳ thật, người làm lão sư làm gì mà mong muốn học trò tôn trọng đối với họ. Nếu lão sưý niệm này, có giữ tâm này, thì không phải là lão sư tốt. Cung kính đối với lão sư chính là cung kính đối với đạo nghiệp, cung kính đối với cái chính mình đã tu, đã học, còn lão sư dạy học luôn luôn là lấy cái này để làm tiêu chuẩn. Học trò này có một phần thành kính thì dạy họ một phần, có hai phần tâm thành kính thì dạy họ hai phần. Họ có mười phần tâm thành kính, lão sư dạy họ chín phần thì có lỗi với học trò này. Họ chỉ có một phần tâm tôn kính, lão sư dạy họ hai phần thì quá nhiều rồi. Vì sao vậy? Một phần dư ra không thể dung nạp vào được, cái tâm lượng của họ quá nhỏ. Giống như chúng ta khát nước, hỏi người ta xin nước, chúng ta cầm một cái ly nhỏ, người ta cho nước vào đầy thì được rồi, nếu thêm nhiều vào thì tràn đổ ra ngoài. Nếu khi họ cầm một cái ly to đến, bạn chỉ cho họ có một nửa thì bạn làm sao xứng được với họ? Chúng ta cầu học, cầu đạo, cái lượng này là gì? Tâm thành kính. Then chốt thành bại của chúng ta chính ngay chỗ này.

Chúng ta ở chỗ này xem thấy, Pháp Tạng cùng Thế Gian Tự Tại Vương Phật, học trò có tâm thành kính viên mãn, cho nên lão sư dạy bảo đối với Ngài viên mãn. Trên kinh nói, lão sư biết được học trò này cao minh, “chí nguyện thâm quảng”, đây là đầy đủ thành kính viên mãn, cho nên mới nói với Ngài đại pháp viên mãn, tuyên thuyết hai trăm mười ức tướng quảng đại viên mãn công đức nghiêm tịnh cõi nước chư Phật. Không chỉ nói cho Ngài nghe, mà còn đem mười phương tất cả cõi nước chư Phật triển hiện ở ngay trước mặt Ngài để Ngài chính mình xem, để Ngài chính mình chọn lựa. Những chỗ này chúng ta cần phải học tập, chúng ta phải tường tận.

Chúng ta xem tiếp nghĩ tưởng của Thế Tôn. Trong Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh đã thị hiện, phu nhân Vi Đề Hy gặp phải biến cố của quốc gia, gặp phải đại nạn, không còn muốn ở thế gian này nữa, mong cầu Tịnh Độ chư Phật, cầu Thích Ca Mâu Ni Phật chỉ điểm cho bà. Thế Tôn rất là từ bi, cũng rất là cao minh, đem Tịnh Độ chư Phật mười phương thị hiện ở ngay trước mặt bà, bảo bà chính mình chọn lựa. Phu nhân Vi Đề Hy chọn lựa được thế giới Tây Phương Cực Lạc của A Di Đà Phật. Thế giới Tây Phương Cực Lạc không phải là do Thích Ca Mâu Ni Phật chọn cho bà, không phải đức Thích Ca khuyên bà đi, mà là mười phương thế giới chư Phật bày ra ngay trước mắt bà, bà chính mình chọn lấy cõi bà ưa thích đi đến. Vậy thì các vị nghĩ xem, phu nhân Vi Đề Hy cũng không phải là người thông thường, nếu bạn hỏi bà tại vì sao muốn chọn lấy thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật mà không chọn lấy các cõi nước chư Phật khác? Ngạn ngữ thường nói: “Đừng sợ không biết hàng, chỉ sợ hàng đụng hàng”. Mười phương cõi nước chư Phật bày ra ngay trước mặt, bạn có thể so sánh mà, thế giới Cực Lạc tốt. Có rất nhiều người hoài nghi, tại vì sao phải đi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc? Bạn hoài nghi cũng không tệ, nhà Phật tám vạn bốn ngàn pháp môn, mỗi môn đều thông đại đạo, bạn ưa thích tu pháp môn nào thì tu pháp môn đó, Phật tuyệt đối không miễn cưỡng một người nào. Phật đều không miễn cưỡng một người, chúng tatư cáchmiễn cưỡng người chứ? Đại sư Thiện Đạo nói: “Duyên ngộ của mỗi người khác nhau”, cho nên thuận lợi mà họ có được cũng sẽ không như nhau. Có duyên phận gặp được pháp môn này không phải là việc dễ dàng. Phật ở ngay trong kinh này nói ra rất rõ ràng, rất tường tận, gặp được duyên phận này nhất định phải trân trọng.

Thế nhưng các vị phải nên biết, trong tất cả pháp môn, đây là pháp môn thù thắng nhất thì làm gì mà không bị ma chướng chứ? Làm gì mà không bị đố kỵ? Đạo tràng này của chúng ta cũng không ngoại lệ, giảng đường của chúng ta có người phá hoại, niệm Phật đường của chúng ta cũng có người phá hoại. Tôi không đến nhưng tôi rõ ràng, tôi tường tận, vì sao vậy? Nếu như không có người phá hoại, mọi người đều rất hoan hỉ, chúng sanh thế giới này sẽ không có tai nạn, xã hội làm sao mà loạn đến như vậy? Không thể nào. Ai đến phá hoại? Ma đến phá hoại, ma đến nhiễu loạn, nên có câu là “đạo cao một thước, ma cao một trượng”. Thế xuất thế gian pháp nếu bạn muốn làm một việc tốt, người đố kỵ, chướng ngại, phá hoại bạn thì quá nhiều quá nhiều. Đây là hiện tượng rất bình thường. Nếu như bạn làm một việc tốt rất thuận lợi, không có người phá hoại, đó là không bình thường, chúng ta chưa thấy qua, từ xưa đến nay chưa thấy qua. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa ở đời, bên ngoài có lục sư ngoại đạo, trong có lục quần Tỳ kheo, trong ngoài nhiễu loạn. Thế Tôn ở đời còn là như vậy, huống hồ thời kỳ Mạt Pháp. Vấn đềchúng ta chính mình phải làm được chánh, chúng ta chính mình có thành tựu, người khác có nói thế nào, có làm thế nào là việc của họ. Nhất là ở xã hội hiện tại này, dân chủ tự do mở cửa, chỉ cần họ không phạm pháp luật của quốc gia thì không có ai có quyền can thiệp họ. Cho nên ở hiện tại, chúng ta học giáo, chúng ta niệm Phật, quản tốt chính mình thì đúng rồi, sự việc của người khác, có duyên thì giúp đỡ họ, không có duyên thì chờ đợi cơ hội lần sau. Lần sau không nhất địnhmột đời này, có thể là đời sau nhưng cũng có thể là nhiều đời nhiều kiếp về sau. Không nên lo lắng vội vàng, ngay đời này thì phải cho họ có thành tựu, chư Phật Như Lai cũng không làm được, bạn có bản lĩnh lớn đến như vậy không? Cho nên xem thấy loại tình hình này chúng ta liền hiểu rõ, đây là chư Phật Như Lai đang huấn luyện lòng nhẫn nại của chúng ta, huấn luyện định huệ của chúng ta. Phật Bồ Tát luôn luôn đem mọi thứ triển hiện ngay trước mắt bạn, để bạn chính mình chọn lựa, cách này tốt.

Tôi cũng không phải là vừa mở đầu liền ưa thích đối với pháp môn Tịnh Độ. Lão sư Lý năm xưa khuyên tôi, Ngài chân thật là có phương tiện khéo léo. Tôi theo thầy mười năm, tôi cũng không nhớ rõ ràng là thầy khuyên bảo tôi bao nhiêu lần. Thế nhưng tôi chỉ là không phản đối mà thôi, chứ không có tiếp nhận. Người khuyên tôi, ông ưa thích pháp môn đó, tôi thì ưa thích pháp môn khác đó mà, nhất là trên kinh Bát Nhã nói được rất rõ ràngpháp môn bình đẳng không có cao thấp, bạn tu pháp môn đó rất tốt, tôi tu pháp môn này cũng không sai, hà tất phải giống nhau?

Vì sao tôi phải chọn lựa pháp môn này chứ? Chân thật là nhờ vào 17 năm trước, khi giảng kinh Hoa Nghiêm, tôi ở trên kinh Hoa Nghiêm làm một so sánh, pháp môn Tịnh Độ không tệ, đích thực là thù thắng, cho nên người xưa nói Hoa Nghiêm, Pháp Hoa chỉ là dẫn đạo kinh Vô Lượng Thọ mà thôi. Lời nói này tôi tán thành, vì sao vậy? Tôi đi vào từ con đường này, tôi là từ Hoa Nghiêm, Pháp Hoa dẫn tôi đến Tịnh Độ. Làm thế nào dẫn đến Tịnh Độ? Tôi xem thấy ở trên kinh Hoa Nghiêm, Văn ThùPhổ Hiền cầu sanh thế giới Cực Lạc. Đây không phải là người thông thường, mà là hai trợ thủ của Tỳ Lô Giá Na Phậtthế giới Hoa Tạng, chúng ta gọi Hoa Nghiêm Tam Thánh, hai người này đều là cổ Phật tái lai, thị hiện làm Bồ Tát Đẳng Giác, họ ở trong vô lượng pháp môn chọn ra Tây Phương Tịnh Độ, cho nên tôi sâu sắc tin tưởng đó là sự chọn lựa trí tuệ cao độ. Chúng ta không có năng lực này. Về sau lại đọc đến Thiện Tài Đồng Tử 53 lần tham học, Thiện Tài Đồng Tử cũng là chọn lấy pháp môn này, một đời thành tựu, viên mãn thành Phật, không hề đợi đến đời thứ hai. Tôi là xem thấy những sự tướng này mới hoát nhiên đại ngộ. Biết được cái gì? Căn cứ vào vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chính mình thì không thể thành tựu, phải y theo giáo huấn của Phật Đà thì chúng ta mới có một đường đi. Thế là nghĩ đến trong Di Giáo Ba Kinh đã nói, trước khi bạn chưa chứng được A La Hán thì không nên tin vào ý của chính mình, phải nương vào giáo huấn của Phật. Sau khi chứng được A La Hán, bạn có thể tin vào ý của chính mình, vì sao vậy? Bạn đã thành được chánh giác, bạn không mê, có thể tin được chính mình. Trước khi chưa chứng được A La Hán, nếu tin tưởng chính mình, đó đều là làm những việc luân hồi. Vì sao vậy? Bạn là tâm luân hồi, tin tưởng tâm luân hồi tạo nghiệp, vậy không luân hồi thì là gì? Những đạo lý chân tướng sự thật này chúng ta không thể không rõ ràng, không thể không tường tận thì ở trong thời đại này, trên kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Tà sư nói pháp như cát sông Hằng”, chúng ta ở trong hoàn cảnh này mới có thể đứng vững chân được, mới có hy vọng một đời thành tựu. Vừa khởi lên một vọng tưởng thì phiền phức liền to lớn. Chỉ cần bạn có một vọng tưởng, ma xem thấy, ma làm tăng thượng duyên cho bạn, đến giúp cho bạn một tay, sẽ làm cho vọng tưởng của bạn thêm lớn đến bảy phần, tám phần, chín phần, mười phần. Bạn chính mình không hề biết. Ma giúp cho bạn đọa lạc, giúp cho bạn đọa ba đường ác, bạn còn sẽ rất ưa thích ma, còn sẽ rất cảm tạ ma. Ma không có gì khác hơn, phương pháp hấp dẫn người chính là danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần, giúp cho bạn tăng thêm tham-sân-si-mạn. Chư Phật Bồ Tát thì hoàn toàn trái ngược với đây, chư Phật Bồ Tát muốn gia trì bạn, làm cho bạn thêm lớn định huệ, tăng thêm Giới-Định-Huệ, diệt trừ tham sân si của bạn. Đó là Phật pháp, đó là Phật lực gia trì. Cái gì là Phật gia trì, cái gì là ma gia trì, chính mình phải rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo. Chúng ta khởi tâm động niệm là tương ưng với Phật hay là tương ưng với ma? Ở vào thời đại hiện tại này, không thể khôngtâm cảnh giác, không thể không tường tận.

Đoạn kinh văn này hôm nay nói “Nhĩ thời” chính là ngay khi Thế Gian Tự Tại Vương Phật vì Ngài giảng kinh nói pháp, vì Ngài triển hiện ra cõi nước chư Phật. Phật nói pháp cho Ngài nghe, Ngài đều nghe hết, “văn Phật sở thuyết”. Phật triển hiện cảnh giới ở ngay trước mặt Ngài, Ngài cũng xem thấy, “giai tất đỗ kiến”. Ở ngay chỗ này rõ ràng nhận được Phật lực gia trì, vì sao vậy? Nếu như không được Phật lực gia trì, mười phương cõi nước chư Phật bạn không có năng lực xem thấy. Ngài chính mắt xem thấy, trong tâm tường tận, “đỗ” là mắt thấy, chữ “kiến” phía sau chính là trong tâm rõ ràng tường tận. Thế là “khởi phát vô thượng thù thắng chi nguyện”, đây chính là đại nguyện A Di Đà Phật vì sao mà có, vì sao Ngài có thể có 48 nguyện. Bốn mươi tám nguyện là từ chỗ nào mà phát khởi vậy, chỗ này đã nói rõ ràng cho chúng ta. Cho nên mấy phẩm phía trước là lịch sử của thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Đại nguyện có được là có lý do, ở trong chú giải của người xưa lược cử ra mấy sự thật.

Thứ nhất, Vô Thượng Thù Thắng Chi Nguyện chỉ ra là y chánh (y báo chánh báo) trang nghiêm của thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Y báohoàn cảnh tu học, hoàn cảnh sinh hoạt, chánh báo là những người này vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc trang nghiêm không gì bằng, trong tất cả cõi nước chư Phật khác không hề có. Trang nghiêm ở chỗ nào? Trang nghiêmbất thoái. Người tu hành trong mười phương cõi nước chư Phật đều có thoái chuyển, thế giới Tây Phương Cực Lạc không có thoái chuyển, không có lui sụt. Có một số trong cõi nước chư Phật có lẽ cũng có không thoái chuyển, thế nhưng viên mãn không thoái chuyển thì đích thực không nghe nói qua. Vãng sanh đến bất cứ nơi nào của thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng gọi là Viên Chứng Tam Bất Thoái. Các vị tưởng tượng xem, loại trang nghiêm này trong toàn bộ Đại Tạng Kinh cũng không hề nói qua trong cõi nước chư Phật nào có sự việc này. Rốt cuộc thì sự việc này thế nào, chúng ta đến phẩm phía sau, trong 48 nguyện sẽ nói tỉ mỉ với các vị. Đây là Bồ Tát Pháp Tạng quán sát mười phương thế giới chư Phật, chỗ nào tốt thì Ngài chọn lấy, chỗ nào không tốt thì Ngài xả bỏ, cho nên thế giới Tây Phương Cực Lạc là đại tập thành thù thắng trang nghiêm của mười phương cõi nước chư Phật. Chỗ tốt trong tất cả cõi nước chư Phật thảy đều có, khuyết điểm trong cõi nước chư Phật hoàn toàn không có. Ngài đích thực là thỏa được cái nguyện của Ngài nếu Ngài thành Phật, hơn nữa phải siêu quá tất cả chư Phật, Ngài làm đến được.

Thứ hai là “thọ lạc”.

Thế giới đó gọi là thế giới Cực Lạc, không có khổ. Chúng tathế gian này nhiều khổ, nhất là hiện tại cả thế giới này động loạn bất an, lòng người không có chỗ nương tựa, ở trong Phật pháp gọi là không có chỗ quy y, hiện rõ ra tâm khí bao chao. Vào lúc bình thường, nếu như có hiện tượng tâm khí bao chao xuất hiện, thì người này nếu không bị bệnh thì là có tai nạn. Vì sao vậy? Không bình thường, tâm khí bao chao thì phải bị bệnh hoặc là phải gặp phải dự báo tai nạn trước. Cái dự báo này không tốt. Nếu như cả xã hội này, đại đa số người đều có tâm khí bao chao, đều là cuống cuồng bất an thì phiền phức, khu vực này sẽ có bệnh, sẽ có tai nạn. Chỗ này chúng ta từ ngay trong lịch sử quá khứquán sát. Bạn xem thấy trong nước hoặc ngoài nước, phàm hễ có những dự báo xuất hiện thì phía sau liền có tai nạn. Họa phước đều có dự báo. Con người này tâm địa rất an tịnh, cử chỉ an tường, đó cũng là một dự báo, con người này phước báo sẽ mau xuất hiện, đó là dự báo của phước. Cho nên, họa phước đều có dự báo. Thế giới Tây Phương Cực Lạc thọ lạc không gì sánh bằng, hưởng thọ an vui, mười phương tất cả cõi nước chư Phật không hề có, cho nên thế giới này gọi là thế giới Cực Lạc.

Thứ ba là “quang thọ thù thắng”.

Quang biểu thị trí tuệ. Phật trí tuệ viên mãn, người sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, mỗi một người đều được oai thần bổn nguyện của A Di Đà Phật gia trì, người người tràn đầy trí tuệ, không phải là trí tuệ của một người, người người đều có trí tuệ giống như Phật, người người đều có thọ lượng giống như Phật, đều là Vô Lượng Thọ. Cái vô lượng thọ này dài bao nhiêu? Kinh văn phía sau có nói tỉ mỉ, không có người nào có thể tính ra được thọ mạng của họ. Tất cả chúng sanhthế gian này có ai mà không cầu hưởng phước, có ai mà không cầu thông minh trí tuệ, có ai mà không cầu trường thọ? Bạn xem, ba thứ này ở thế giới Tây Phương Cực Lạc đều đầy đủ viên mãn, hơn nữa là tất cả cõi nước chư Phật đều không thể sánh được. Chúng ta ở chỗ này xem thấy, khi Thế Gian Tự Tại Vương Phật ở đời, giảng kinh nói pháp cho chúng sanh nghe 42 kiếp, chúng ta rất ngưỡng mộ, thời gian dài đến như vậy! Nhưng nếu so với thế giới Tây Phương Cực Lạc thì cũng không thể sánh được, Thế Gian Tự Tại Vương Phật thọ mạng quá ngắn. Cho nên chân thật nếu được vô lượng thọ thì rất thuận tiện, rất dễ dàng, chính là cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ. Có chỗ tốt nhiều đến như vậy, lợi ích nhiều đến như vậy, họ còn không muốn đi, đây chính là nghiệp chướng hiện tiền, nghiệp lực của chính mình làm chướng ngại đi cơ duyên thù thắng này.

Ba loại trang nghiêm, thọ lạc và quang thọ đã nói ở trên đều là nói quả báo, quả báo quá thù thắng khiến cho người vô cùng ngưỡng mộ. Thế nhưng làm thế nào để đi? Có thể đi được hay không? Tất cả cõi nước chư Phật đều có thể vãng sanh, điều kiện của mỗi cõi Phật không như nhau. Có rất nhiều đồng tu ưa thích Bồ Tát Di Lặc, rất hoan hỉ vãng sanh Di Lặc nội viện. Lại nghe nói Di Lặc nội viện rất gần, ở trời thứ tư Dục Giới, thế giới Tây Phương Cực Lạc quá xa, cách thế giới Ta Bà mười vạn ức cõi nước Phật thì quá xa, nên muốn đi tìm Bồ Tát Di Lặc. Thế nhưng bạn có nghĩ đến điều kiện vãng sanh Đâu Suất nội viện là gì hay không? Duy tâm thức định. Nếu bạn không thể thành tựu được loại đại định này, Tịnh Độ Di Lặc bạn không thể đi. Điều kiện quá cao, thực tế mà nói là chúng ta không làm được. Vào đầu năm dân quốc, Lão Hòa thượng Hư Vân là sanh Tịnh Độ Di Lặc. Ở trong Niên Phổ của Ngài, các vị xem thấy Ngài có sức định, thật có công phu. Nếu công phu của bạn giống như Lão Hòa thượng Hư Vân thì được, bạn mới có thể sanh Di Lặc nội viện. Nếu bạn không thể so được với Lão Hòa thượng Hư Vân, e rằng bạn vẫn phải luân hồi. Trong luân hồi thì cơ hội đọa vào ba đường ác nhiều. Việc này bạn phải rõ ràng, phải tường tận.

Tỳ kheo Pháp Tạng thật cừ khôi, ân đức quá lớn đối với chúng sanh pháp giới. Vì sao vậy? Điều kiện vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc rất đơn giản, rất dễ dàng. Cái khó này ở nơi Ngài rồi. Bởi vì điều kiện vãng sanh rất thấp, nên bất người nào cũng có thể đi, trên từ Bồ Tát Đẳng Giác, dưới từ chúng sanh địa ngục A Tỳ, chỉ cần bạn bằng lòng đi, chỉ cần bạn muốn đi, bạn liền đầy đủ tín nguyện. Bạn chịu niệm một câu danh hiệu A Di Đà Phật, đó là hành. Tín-Nguyện-Hành, ba điều kiện này bạn đầy đủ, bạn liền có thể vãng sanh. Bạn vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc liền bất thoái thành Phật, một đời thành Phật, không cần đợi đến đời thứ hai. Đây là đại nguyện vô lượng thù thắng.

Sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc lợi ích vô lượng vô biên, cái lợi ích này là bổn nguyện A Di Đà Phật gia trì. Ở thế giới Cực Lạc chân thật là muốn áo được áo, muốn ăn được ăn, không luận là đời sống tinh thần hay là đời sống vật chất, không có thứ nào thiếu hụt, mọi thứ đều viên mãn. Cầu học, bạn thân cận thiện tri thứcA Di Đà Phật, là mười phương chư Phật Như Lai, bạn ngày ngày đi tiếp cận. Cùng học với chính mình là các bậc thượng thiện đều là Bồ Tát Đẳng Giác. Bồ Tát Đẳng Giác là bạn học, chư Phật Như Lailão sư, bạn đến đâu để mà tìm?

A Di Đà Phật tiếp dẫn mười phương thế giới vô lượng vô biên chúng sanh, phương pháp của Ngài chính là một câu danh hiệu. Danh hiệu công đức không thể nghĩ bàn. Chúng ta thường hay xem thấy trong kinh điển, mười phương tất cả chư Phật Như Lai tán thán phương pháp Di Đà tiếp dẫn chúng sanh, phương pháp này chính là một câu danh hiệu. Thật là đơn giản, dễ dàng. Tất cả chúng sanh không luận nam nữ già trẻ, không luận bạn làm việc hay nhàn rỗi, không luận ngu hay trí đều biết niệm một câu A Di Đà Phật này. Chỉ cần thành thật niệm một câu A Di Đà Phật này, có tín có nguyện thì nhất định vãng sanh, cho nên câu này là căn bản của 48 nguyện, 48 nguyện chính là từ lý niệm này mà hàm xuất ra. Chúng ta ở trong phán khoa “văn đỗ phát nguyện”, phía sau đoạn này là “đại nguyện sở y”, đây nói cặn kẽ.

Kinh văn: “Ư bỉ thiên nhân thiện ác, quốc độ thô diệu, tư duy cứu cánh”.

Câu này là quán sát. Lão sư nói kinh giảng đạo với Ngài, giới thiệu tướng công đức trang nghiêm của mười phương thế giới, Ngài chính mình mỗi mỗi đi quán sát, mỗi mỗi đi so sánh. “Ư bỉ”, “bỉ” chính là hai trăm mười ức cõi Phật mà phía trước đã nói. Hai trăm mười ức đã nói qua với các vị rồi, đó không phải là chữ số, mà là biểu pháp. Tận hư không khắp pháp giới tất cả cõi nước chư Phật không sót lọt cái nào, hoàn toàn đều nói đến. Pháp Tạng cũng hoàn toàn xem thấy. Ngài xem thấy cái gì? “Thiên nhân thiện ác, quốc độ thọ diệu”. “Thiện nhân” là chánh báo, “quốc độ” là y báo, “thiện ác” là nhân, “thô diệu” là quả. Tất cả cõi nước chư Phật, y chánh trang nghiêm đều thấy được rõ ràng, đều thấy được tường tận.

Chỗ này nói đến thiên nhân thiện ác, người xưa vì chúng ta nói được rất tường tận. Chúng ta lấy sáu loại thiện ácĐại sư Thiên Thai đã nói xin sơ lược với nói qua các vị. Thiên Thai giảng sáu loại, thứ nhất là nhân thiên; thứ hai là nhị thừa, A La Hán, Bích Chi Phật; thứ ba là Bồ Tát Tiểu thừa; thứ tư là Bồ Tát Thông Giáo; thứ năm là Bồ Tát Biệt Giáo; thứ sáu là nghiêm trọng Viên Giáo. Thiên Thai luôn là nương vào bốn giáo để nói pháp là Tạng-Thông-Biệt-Viên. Cơ bản nhất và cũng thấp nhất là nhân thiên.

Tiêu chuẩn của nhân thiên thiện ácnăm giới mười thiện, chúng ta đã làm chưa? Nghĩ lại xem chúng ta có phải là người thiện hay không? Luôn luôn là chúng ta đã xem thấy ở trên kinh, Phật đều gọi là “thiện nam tử, thiện nữ nhân”. Năm xưa tôi giảng kinh Địa Tạng, đã từng có người xuất gia sau khi nghe rồi đến hỏi tôi: “Pháp sư à! Trên kinh đã nói đều không thể là hiện thực”. Tôi hỏi: “Tại vì sao vậy?”. Họ nói: “Tôi y theo pháp môn Địa Tạngtu học nhưng không có cảm ứng, trên kinh nói thật không đáng tin”. Tôi nói: “Không đến nỗi vậy mà”. Họ nêu ra sự thật để nói với tôi, lại lấy kinh ra để đối chiếu. Tôi nói: “Trên kinh có một chữ, ông có chú ý đến hay không?”. Ông hỏi: “Chữ nào vậy?”. Tôi nói: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân”, ông có phải là thiện nam tử hay không? Ông không phải là thiện nam tử, ông y theo đây tu hành không có quả báo là việc đương nhiên đó mà”. Then chốt chính ngay một hai chữ này. Bạn dùng là cái tâm gì? Ngày ngày tạo tác tất cả tội nghiệp, còn mong muốn Phật Bồ Tát bảo hộ bạn, cho bạn thiện báo, làm gì có loại cho đạo lý này, bạn không tương ưng. Cho nên thiện nam tử, thiện nữ nhân này chúng ta quyết định không thể xem thường. Chúng ta chính mình có phù hợp tiêu chuẩn của chữ này hay không? Nếu như chân thậtthiện nam tử, thiện nữ nhân, y theo Phật đã dạy mà tu học, nếu không được quả báo thù thắng như trên kinh đã nói thì bạn đi tìm Phật để kiện.

Năm giới chúng ta chân thật đã làm được hay chưa? Bồ Tát giới, những thứ khác đều không cần phải nói, quá cao rồi. Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, thọ năm giới dễ dàng, giữ năm giới thì thật không dễ dàng. Chính mình nghĩ xem năm giớithanh tịnh không? Bạn thật làm được rồi chưa? Nếu như ngay đến năm giới vẫn chưa làm được thì bạn còn nói đến cái gì? Không dễ dàng.

Không sát sanh, không những không thể giết hại tất cả chúng sanh, mà khởi lên ý niệm muốn hại chúng sanh cũng đều không được. Bạn có cái ý niệm này là bạn đã phá giới rồi. Chúng ta đọc kinh này là kinh Đại thừa, trên đề kinh đã viết được rõ ràng đến như vậy: “Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh”, đây là Đại thừa. Năm giới của Đại thừa cùng năm giới của Tiểu thừa không như nhau. Năm giới của Tiểu thừa luận sự không luận tâm, năm giới của Đại thừa luận tâm không luận sự. Tâm của bạn khởi lên ý niệm, ác niệm, thì bạn phá giới rồi.

Không trộm cắp thì càng khó trì. Trên kinh Phật định nghĩa đối với trộm cắp đã nói rất rõ ràng, rất tường tận. “Bất dư thủ”, phàm hễ vật có chủ, bạn chưa thương lượng với chủ nhân, chưa được sự đồng ý của chủ nhân, bạn liền tự làm chủ trương thì đó chính là trộm cắp, bạn liền phạm giới trộm. Phạm vi của giới trộm rất là rộng lớn. Biển thủ tài vật của người khác là trộm cắp. Hiện tại mọi người đều nghĩ đến điểm này, không biết được phạm vi của trộm cắp rất rộng lớn, danh vọng lợi dưỡng năm dục sáu trần thảy đều bao gồm ngay trong đó. Tước đoạt vinh hoa của người khác, ngày nay chúng ta gọi là danh dự, đoạt lấy quyền lực của người khác, đoạt lấy địa vị của người khác đều là trộm cắp. Cái sự quyền này rõ ràng là do họ nắm lấy, thí dụ Cư Sĩ Lâm, quyền lực chỉ đạo Cư Sĩ Lâm là Lâm Trưởng, bạn chưa được sự đồng ý của Lâm Trưởng, chưa được sự ủy thác của Lâm Trưởng, bạn liền ở nơi đây tự có chủ trương thì chính là bạn đoạt quyền. Đoạt quyền thì chẳng phải là trộm cắp hay sao? Ngày nay thọ giới quá dễ dàng, mơ mơ hồ hồ mà thọ giới.

Mỗi một giới điều đều có nhân duyên để chế giới, vì sao Phật phải chế ra giới điều này? Giới điều này căn cứ đạo lý gì để chế định? Đó gọi là giới thể. Giới thể, giới tướng, giới hạnh bạn đều không hiểu, mơ mơ hồ hồ mà đi thọ, mơ mơ hồ hồ mà phạm, còn cho rằng chính mình giới luật trì được rất tốt, tạo tác của chính mình thì chính mình không biết phản tỉnh, không biết kiểm điểm. Cho nên, chúng ta phải yêu cầu chính mình, yêu cầu bạn đạo đồng tu không nên mong cầu cao xa, có thể làm tốt năm giới mười thiện thì rất cừ khôi rồi. Người chân thật hiểu rõ, như Đại sư Ngẫu Ích cuối đời nhà Minh, Đại sư Ngẫu Ích xuất gia, thọ qua tam đàn đại giới; sau khi thọ xong mới biết đó không phải là việc đơn giản, chính mình căn bản không làm được, cho nên đến trước Phật thoái giới, Ngài xả đi giới Tỳ kheo, cả đời chỉ phụng trì giới Sa Di cùng Bồ Tát giới, vì vậy Ngài tự xưng là Sa Di Bồ Tát giới, không dám xưng Tỳ kheo. Học trò của Ngài, hiện tại gọi là đồ đệ của Ngài, là Pháp sư Thành Thời. Pháp sư Thành Thời cống hiến quá lớn đối với lão sư, chú sớ của cả đời Đại sư Ngẫu Ích có thể lưu truyền được về sau là công lao của Pháp sư Thành Thời, ông khắc thư ấn hành lưu thông. Lão sưSa Di, ông không dám xưng là Sa Di, bạn xem ông xưng là gì? Xuất gia Ưu Bà Tắc. Chân thậtcao tăng đại đức một đời, không dám xưng Sa Di, chân thậtgiới Sa Di làm không được. Ngay trong thời đại này của chúng ta ai có thể làm được Sa Di giới? Khó, rất khó. Đại sư Hoằng Nhất Ngài hiểu được giới luật, cho nên cả đời Ngài cũng tự xưng là xuất gia Ưu Bà Tắc. Chúng ta làm sao dám cuồng vọng, làm sao dám tự cao? Cho nên ngày nay chỉ cần làm tốt được năm giới mười thiện chính là người thượng thượng căn.

Trong năm giới, giới không trộm cắp là rất khó giữ. Như thường trụ ở nơi đây, vật của thường trụ chúng ta luôn tùy ý sử dụng, hơn nữa còn dùng quá tùy tiện, các vị thử nghĩ, có xem là giới trộm không? Ngày trước tôi thân cận lão cư sĩ Lý Bĩnh Nam mười năm, lão cư sĩ Lý năm xưa nhậm chức ở Phụng Tự Quan Phủ, là Bí thư chủ nhiệm của Phụng Tự Quan Phủ. Bình thường viết thư cho bạn bè, thầy dùng giấy và bao thư của quốc gia thì nhất định phải báo cáo với Quan Phụng Tự là hôm nay tôi đã dùng hết mấy trang giấy viết thư, mấy cái bao thư. Quan Phụng Tự cảm thấy thầy rất lôi thôi, ai mà không dùng như vậy, vì sao ông phải lôi thôi như vậy? Thầy liền nói, tôi là tín đồ Phật giáo, nếu ông không đồng ý mà tôi lấy dùng thì phạm giới trộm, cho nên cần phải báo cáo với ông, ông gật đầu đồng ý thì tôi không phạm giới trộm. Đây là hiểu quy củ.

Năm xưa tôi có quen một vị hiệu trưởng già ở Đài Loan, ông là huynh đệ với tôi, cũng là học trò của lão sư Lý. Ở Đài Loan, ông làm thứ trưởng bộ chánh sách. Quốc gia cấp cho ông một chiếc xe hơi, trong nhà lắp cho ông một điện thoại bàn, nếu không phải việc công thì ông không dùng điện thoại công, nếu không phải là việc nhà nước thì ông không đi xe công, ông ngồi xe công cộng mà đi. Vì sao vậy? Không phạm giới trộm. Ngày nay ai có thể làm được? Hiện tại chúng ta cầm đến điện thoại thường trụ thì tán gẫu, nói hết một - hai giờ đồng hồ, không biết là có đến bao nhiêu lời thừa, có phải là bạn đã phạm giới trộm rồi không? Tương lai bạn đi đến gặp vua Diêm La, vua Diêm La ở nơi đó đều có sổ sách đưa ra ngay mặt bạn, bạn không thể chối cãi. Cho nên vật thường trụ, trên kinh Địa Tạng nói được rất rõ ràng, chúng ta ngày ngày đang phạm giới nhưng chính mình hoàn toàn không hay biết, cho rằng rất bình thường. Vì sao vậy? Mọi người đều làm vậy, nếu bạn không làm như vậy thì người ta nói bạn khờ dại. Vị lão hiệu trưởng đó là Châu Bang Đạo. Có rất nhiều người nói ông là kẻ ngốc, nói ông đầu óc quá ngoan cố, không thể chuyển đổi. Điện thoại của công vì sao ông không thể dùng? Cấp cho ông chiếc xe chẳng phải bảo ông đừng đi bộ hay sao? Không phải việc công thì phải đi tắc xi, làm gì có loại người này? Cho nên người ta xem thấy cho ông là quái vật, rất không bình thường, thế nhưng ở trong Phật pháp thì ông là bình thường, ở trong thế pháp thì không bình thường.

Chúng ta xem thấy người trước một đời, các Ngài đã tu hành như thế nào? Ngày nay chúng ta tự cho là phải, là bạn tự cho là vậy, Phật Bồ Tát không cho là vậy. Những đạo lý nhân quả này ai hiểu? Ngày nay chúng ta học Phật là quá lơ là, quá sơ ý. Ta có thể dạy mọi người hay không? Không thể. Tại vì sao không thể? Bạn không thể tiếp nhận. Tôi muốn dạy bạn, bạn sẽ cho rằng tôi là lão ngoan cố, đầu óc đã lỗi thời, đây là thời đại gì vậy? Cho nên ở vào thời đại này ngày nay, vừa rồi còn có đồng tu nói với tôi, trong nhà trẻ nhỏ không nghe lời, không cách gì quản giáo. Những hiện tượng này là bình thường. Vì vậy chính bạn cần phải giác ngộ, thế gian hiện tại này, trong khoảng thời gian này không có cha con, cũng không có sư đồ, mọi người có thể làm bạn là không tệ rồi. Vì sao vậy? Giáo dục luân lý đạo đức hoàn toàn bị mất hết, trẻ nhỏ không nghe lời. Vì sao bạn không dạy chúng từ nhỏ? Bạn không dạy từ lúc nhỏ, hiện tại chúng không nghe lời thì không thể trách chúng, mà trách chính mình lơ là.

Học trò không nghe lời. Từ trước Pháp sư Diễn Bồi đã nói với tôi, hiện tại làm gì có đồ đệ? Là bạn bè. Bạn bè ở chung với nhau, có thể ở chung được tốt cũng xem là không tệ rồi, vạn nhất không nên xem họ là đồ đệ, vì như vậy thì bạn sẽ thất vọng to lớn, bạn sẽ bị thương tổn tâm. Lời nói này nói ra có đạo lý. Hiện tại giáo dục luân lý đạo đức hoàn toàn không còn nữa, kết hợp giữa người với người đều là kết hợp trên quan hệ lợi hại. Đối với ta có lợi ích thì ta làm bạn, không có lợi ích thì đến ngày thứ hai không còn quen biết. Cho nên thế gian này sẽ có tai nạn, năm giới mười thiện không có. Thế nhưng phải nên biết, năm giới mười thiện là nền tảng của Phật pháp, nếu bạn không chịu tu học, nếu bạn xả bỏ nó hết, thì bạn tu bất cứ Phật pháp nào cũng đều không có thành tựu, không luận là Đại thừa, Tiểu thừa, Tông môn, Giáo hạ, không thể nào có được thành tựu. Con đườngđời sau, đáng đọa lạc thế nào thì vẫn là đọa lạc như thế đó. Nhân quả là thật, không phải là giả, chư Phật Bồ Tát cũng không thể biến đổi pháp tắc của nhân quả. Có thể nghe được lọt vào, còn có thể tin tưởng, đây là nhà Phật nói, đời trước của bạn có thiện căn phước đức, bạn ngay đời này có duyên phận gặp được Phật pháp, bạn còn có thể tiếp cận được. Không có thiện căn, không có phước đức thì ngay trong một đời không thể gặp được, cũng không thể nghe được.

Tà dâm càng không cần phải nói. Hiện tạithời đại gì? Việc này mọi người đều xem thấy được rõ ràng. Thế nhưng phải ghi nhớ, người xưa đã nói: “Trăm thiện, hiếu làm đầu; vạn điều ác, dâm là trước tiên”, không thể xem thường. Tai nạn trên toàn thế giới từ do đâu mà ra vậy? Chính từ chỗ này mà ra. Cội gốc của họa hại, người tu hành không thể thành tựu được đạo nghiệp, sau cùng đọa A Tỳ địa ngục là do nguyên nhân gì? Chính là nguyên nhân này. Nếu như chúng ta xem thường, lơ là đối với việc này, một cơ hội hi hữu khó gặp ngay đời này bị lỡ qua, đời sau không biết được là đến một đời nào đến một kiếp nào mới có thể gặp lại nữa. Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, bạn cho rằng dễ dàng gặp được như vậy hay sao? Hạ quyết tâm, đem phiền não tập khí của chính mình nhất định phải khắc phục, đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, mím môi, cắn răng mà nhẫn chịu. Nếu bạn không thể nhẫn được thì đi đến A Tỳ địa ngục. Bạn có thể nhẫn qua được thì bạn mới có thể vãng sanh bất thoái thành Phật.

Vọng ngữ càng phải cẩn trọng, vì sao vậy? Vì rất dễ dàng phạm phải. Người hiện tại chúng ta xem thấy quá nhiều, không chỉ gạt người mà còn gạt cả chính mình, chân thật gọi là tự gạt mình gạt người, làm sao có thể có thành tựu? Không nên xem thấy chỉ là việc thiện nhỏ, “chớ cho việc thiện nhỏ mà không làm”, vì vậy năm giới nhất định phải tuân thủ, tuân thủ nghiêm khắc sẽ có lợi ích rất lớn đối với chúng ta.

Uống rượu, điều này khai duyên rất nhiều, chính mình nhất định phải rõ ràng. Không phải khai duyên thì là bạn phạm giới.

Giới và thiện không giống nhau. Giới là Phật ràng buộc đối với chúng ta, giáo huấn đối với chúng ta, nó có sức ràng buộc ở trong đó, chúng ta đã từng phát nguyện thì nhất định phải tuân thủ. Thiện thì không phải, thiện không phải Phật Bồ Tát ràng buộc chúng ta, mà là lương tâm của chính chúng ta. Vương Dương Minh gọi thiện là lương tri, lương tri lương năng, không phải Phật Bồ Tát bó buộc đối với chúng ta. Cho nên điều mục bên trong tuy là giống nhau nhưng ý nghĩa không như nhau. Trong mười thiện, thân ba thiện cùng với ba điều phía trước của năm giới hoàn toàn giống nhau. Do đây có thể biết, không thọ giới cũng phải nên tuân thủ đạo đức, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm. Thân có ba thiện, thiện hạnh. Miệng có bốn thiện, không chỉ không vọng ngữ, mà còn không ác khẩu (ác khẩunói lời thô lỗ, nói ra lời nói làm cho người nghe sẽ rất khó chịu), không hai lưỡi (hai lưỡi là trêu chọc phải quấy, đều là ở ngay trong cuộc sống thường ngày bất tri bất giác phạm phải những lỗi lầm này), không ỷ ngữ (ỷ ngữlời nói khéo léo đường mật, mê hoặc chúng sanh, phá hoại phong tục lương thiện xã hội). Ngày nay chúng ta xem thấy trong tác phẩm văn nghệ hiện đại là những thứ gì? Phim ảnh, truyền hình, xem qua những quảng cáo bên ngoài thật là rối rắm, gần như 80% đều là sắc tình bạo lực, đều là sát đạo dâm vọng, đều là vọng ngữ, hai lưỡi, thêu dệt, làm sao mà xã hội không loạn? Chúng sanh làm sao miễn trừ được tai họa? Tất cả thiên tai nhân họa từ do đâu mà ra? Chúng ta chính mình tạo ra cái nhân bất thiện, nhân bất thiện chiêu cảm quả báo bất thiện, chẳng phải là tự làm tự chịu hay sao? Không phải người khác làm để cho mình chịu, mà là tự làm tự chịu. Cho nên, năm giới mười thiện là đại căn đại bổn tu hành của chúng ta. Thân miệng có thể làm tốt là hành thiện. Sau cùng là không tham, không sân, không si, đó là tâm thiện. Tâm thiện, hạnh thiện, cho dù không học Phật cũng sẽ không đọa vào ba đường ác.

Ở cõi nhân thế này, các vị phải nên biết, người tốt phải chịu chút thiệt thòi, người tốt sẽ bị người khác ức hiếp. Không quan hệ gì, ức hiếp để bạn ức hiếp, thiệt thòi xin cam tình nguyện chịu thiệt thòi, đời sauquả báo tốt, nếu không cầu vãng sanh thì đời sau ắt sanh cõi trời. Không cần nói sanh cõi trời rất cao, bạn có thể sanh đến trời Đao Lợi, sanh đến trời Tứ Thiên Vương, phước báo không biết là lớn hơn nhân gian này gấp bao nhiêu lần, vì sao không tu phước báo đời sau? Thời gianđời sau dài, thời gian ở đời này ngắn. Con ngườithế gian này, người xưa thường nói: “Nhân sanh thất thập cổ lai hi”, người một trăm tuổi tất nhiên là con số rất ít, rất hiếm. Lời nói này là của Đỗ Phủ. Cho dù sống được 100 tuổi, thực tế mà nói cũng là một sát na mà thôi, cho nên phải nên biết “cuộc đời khổ đau ngắn ngủi”. Ngay trong một đời này tình nguyện chịu khổ, tình nguyện bị người ức hiếp, quyết định có được phước báo đời sau.

Bạn sanh đến trời Đao Lợi, trên kinh Phật nói rất rõ ràng, một ngày của trời Đao Lợinhân gian 100 năm. Tuổi thọ của trời Đao Lợi lấy niên số của họ để tính là 1.000 tuổi, một năm của trời Đao Lợi là 36 ngàn năm của nhân gian chúng ta, một ngày nơi đó là 100 năm chúng ta, bạn nói xem họ nơi đó 1.000 tuổi thì tuổi thọ dài bao nhiêu! Hưởng phước báo của người trời, vì sao không làm việc này? Năm giới mười thiện thì sanh thiên.

Lấy năm giới mười thiện, lấy cái đức hạnh này niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ thì quyết định được sanh. Cho nên các vị đồng tu quyết định phải ghi nhớ, chân thật muốn vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, hưởng thụ danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần của thế gian này như tài, sắc, danh, thực, thùy phải đoạn dứt từ nơi tâm địa của chính mình. Trong tâm của bạn vẫn còn những thứ này tồn tại thì chính là chướng ngại của bạn vãng sanh. Người niệm Phật nhiều, người vãng sanh thì ít, nguyên nhân chính ngay chỗ này. Người có thể buông bỏ vạn duyên chínhbuông bỏ những thứ này, buông bỏ tham-sân-si-mạn, buông bỏ danh vọng lợi dưỡng, buông bỏ năm dục sáu trần, hồi phục tâm thanh tịnh tâm chân thành của bạn. Thanh tịnh chân thành thì tràn đầy trí tuệ, không còn tạo tác tất cả ác nghiệp, người như vậy mới có thể được sanh Tịnh Độ, mới nắm chắc phần vãng sanh Tịnh Độ. Các vị tỉ mỉ mà quán sát ở trong Vãng Sanh Truyện, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, cho đến chúng ta thường hay xem thấy những đồng tu bạn đạo khi lâm chung tướng lạ hiếm thấy, chân thật vãng sanh, bạn quán sát xem hành trì của cả đời họ hoàn toàn không giống với người thông thường thì chúng ta liền hiểu rõ.

Thế nhưng các vị phải nên biết, nếu bạn tu năm giới mười thiện được rất tốt nhưng không muốn cầu sanh Tịnh Độ, bạn sanh thiên, tuổi thọ của trời dài nhưng vẫn là hưởng hết sạch. Phước bạn hưởng hết rồi thì phải làm sao? Vẫn là phải đọa lạc. Cho nên thiên phước không phải cứu cánh, không cần nói là trời Dục Giới, mà trời Sắc Giới, trời Vô Sắc Giới thảy đều không cứu cánh, không xem là quả báo. Nhà Phật gọi quả nhỏ, bạn tu hành chứng được quả nhỏ là tính từ A La Hán. Vì sao vậy? Không còn đọa lạc trong sáu cõi nữa, siêu việt sáu cõi luân hồi mới được xem là quả báo, chưa ra khỏi sáu cõi luân hồi thì không xem là quả báo. Những đạo lý, những chân tướng sự thật này chúng ta không thể không biết. Cho nên từ trong pháp chân thật mà nhìn, sanh thiên cũng không phải là việc tốt, đừng nói là sanh lên trời hưởng phước, Đại Phạm Thiên Vương mời ta lên làm Đại Phạm Thiên Vương ta cũng không làm, ta cũng không chịu cái thiệt thòi này. Trời Ma Hê Thủ La Vương nhường ngôi vị cho ta, ta cũng không bị ông ấy gạt. Bạn phải nghĩ đến khi tuổi thọ của họ hết thì phải làm sao?

Người chân thật thông minh, người chân thật có chí khí, thì ngay trong đời này phải phấn đấu nỗ lực vượt ra khỏi sáu cõi, thoát khỏi luân hồi, đây mới là quả báo nhỏ. Cho nên sáu loại thiện ác, loại thứ nhất là thiện trời người không được xem là quả báo. Thế nhưng thiện của trời người là nền tảng, là căn bản. Người niệm Phật chúng ta thù thắng chính là ngay chỗ này, chính ngay cái thiện nhỏ đến như vậy thì quyết định đới nghiệp vãng sanh. Đây là Di Đà Tịnh Độ dễ dàng được sanh, yêu cầu của nó rất thấp, thấp đến mức không thể thấp hơn được nữa. Nếu như tiêu chuẩn của cái thiện này hướng lên trên một tầng nữa, cả đời này của chúng ta chưa chắc có thể làm đến được. Năm giới mười thiện này chúng ta quyết định có thể làm được, vấn đề chính là bạn có chịu làm hay không? Chịu làm thì không có người nào mà không làm được. Chúng sanh hiện đại, thực tếnói thật là rất đáng thương, trên kinh Phật thường gọi là “kẻ đáng thương”, vừa tiếp xúc đến tài, sắc, danh, thực, thùy thì lập tức liền mê muội, mê được rất nhanh, mê đến thật đáng sợ. Sáu căn của bạn tiếp xúc những cảnh giới này không bị mê, tâm vẫn là bình lặng, tỉnh táo thì bạn còn cứu được, bạn học Phật liền có thể thành tựu. Vừa gặp phải những thứ này lập tức liền hôn mê, chuyên hướng thì hết cứu.

Thứ hai là thiện của Nhị thừa. Tiêu chuẩn này thì chúng ta rất khó làm được. Thanh Văn, Duyên Giác, hai hạng này ở trong Phật pháp gọi là Nhị thừa. Họ lấy đoạn kiếnphiền não gọi là thiện. Kiến phiền não ngày nay chúng ta gọi là có kiến giải sai lầm.

Thứ nhất là thân kiến. Tất cả chúng sanh chấp trước thân này là ta, đây gọi là thân kiến. Thanh Văn, Duyên Giác không còn chấp trước thân này là ta, họ biết được thân này không phải là ta, phá đi thân kiến. Thân là cái gì? Thân là cái của ta, cũng giống như quần áo vậy, quần áo là sở hữu của ta, không phải là ta. Họ biết được thân này là sở hữu của ta, giống như quần áo vậy, không phải là ta, nên không còn chấp trước đối với thân này nữa. Cũng giống như quần áo vậy, quần áo cởi ra rồi lại đổi một bộ khác, hoặc là quần áo tốt tặng cho người không hề tiếc rẻ. Vì sao vậy? Không phải ta. Trên kinh Kim Cang nói phá bốn tướng là không ngã tướng, không nhân tướng, không chúng sanh tướng, không thọ giả tướng. Thanh Văn có thể phá bốn tướng, bốn tướng liền tan nhạt. Chúng ta xem thấy ở trên kinh Kim Cang Bát Nhã, Tu Đà Hoàn cũng lìa bốn tướng. Như vậy chúng ta mới biết, nếu không hoàn toàn phá bốn tướng hoặc không phá bốn tướng một phần thì thân kiến liền không cách gì đoạn dứt.

Thứ hai là biên kiến. Biên kiến chính là hiện tại chúng ta gọi là kiến giải tương đối. Phàm phu chúng ta đều sống ở trong biên kiến, có người, có ta, ta là một bên, người là một bên, có lớn thì có nhỏ, có dài thì có ngắn, trong cái quan niệm của bạn vạn sự vạn pháp đều là hai bên, nhà khoa học gọi là tương đối luận. Tương đối luận chính là biên kiến, đây là sai lầm. Bạn có một bên này thì chấp trước một bên này, do vậy mới có một bên kia của đối phương. Bên này không chấp trước thì bên kia cũng không có. Có cái chấp trước này thì tất cả pháp này không thể nào không được. Nhà Phật nói “vạn pháp giai không”, họ không thể không được, họ có chấp trước, cho dù họ vào cái không rồi thì không cùng có vẫn là hai bên, vẫn là đối lập, vẫn là ở trong biên kiến. Đây là cái thấy sai lầm đối với vũ trụ nhân sinh.

Ngoài hai loại này ra, còn có kiến thủ kiếngiới thủ kiến. Chúng ta gọi nó là thành kiến, người nào đó thành kiến rất sâu. Cái gì gọi là thành kiến? Tự cho là phải, từ ngay trong vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chính mình mà sanh ra. Kiến thủ kiếnthành kiến đối với trên quả báo, giới thủ kiếnthành kiến đối với trên tu nhân, hai loại kiến giải này cũng là sai lầm.

Ngoài bốn loại này ra, bao gồm tất cả kiến giải sai lầm, qui nạp đến điều sau là tà kiến. Chúng ta đối với vũ trụ nhân sanh, rất nhiều hiện tượng, sự tướng, vấn đề đều thấy sai lầm, đó không phải là chân tướng sự thật, nhưng chúng ta tự cho là không thấy sai, tự cho là thấy được rất chính xác.

Năm loại này gọi là kiến phiền não, cũng gọi là kiến hoặc. Hoặc là mê hoặc, kiến giải sai lầm.

Ngoài ra còn có năm điều. Cách nghĩ của bạn sai rồi gọi là tư phiền não, tư tưởng bạn sai lầm. Năm điều này chính là tham-sân-si-mạn-nghi. Cái nghi này là hoài nghi đối với thánh giáo, hoài nghi đối với giáo huấn của thánh nhân. Năm điều này, phạm vi của tham sân si này đều rất là rộng lớn. Phật nói với chúng ta, mười điều kiến tư phiền não này là “câu sanh phiền não” của tất cả chúng sanh. Cái này không cần phải học, không cần phải dạy, sanh ra thì liền có, vô lượng kiếp đến nay đời đời kiếp kiếp ở trong A Lại Da huân tập thành chủng tử kiên cố khó phá. Cho nên chúng ta ở trong tất cả lúc, tất cả nơi, ý niệm vừa khởi lên đều là những thứ này. Chính bởi vì những thứ này biến hiện ra sáu cõi luân hồi, đây là nghiệp nhân của sáu cõi luân hồi. Nếu như bạn có năng lực đoạn dứt đi kiến tư phiền não thì sáu cõi luân hồi sẽ không còn.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

 

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.