Bồ-đề Đạt-Ma - Trúc Thiên dịch 1969
Sách Ấn Tống: 337 N. Keystone st., Burbank, CA 91506 USA
NGỘ TÁNH LUẬN
Phàm
là đạo, phải lấy sự tịch diệt làm thể, còn tu lấy sự
lìa tướng làm tông.
Nên
kinh nói: Tịch diệt là Bồ đề.
Diệt
hết hình tướng đó:
Là
Phật, nghĩa là giác.
Người
có giác tâm, được đạo Bồ đề, nên gọi là Phật.
Kinh
nói: lìa tất cả mọi hình tướng tức gọi là chư Phật.
Nên
biết tướng là có tướng mà không tướng, không thể thấy
bằng mắt, chỉ biết được bằng trí.
Ai
nghe pháp ấy chợt phát lòng tin, là người ấy đang nương
pháp đại thừa siêu lên ba cõi.
*
Ba
cõi ấy là tham, sân, si vậy.
Chuyển
ngược tham, sân, si làm giới, định, huệ tức gọi siêu lên
ba cõi.
Tuy
nhiên, tham, sân, si chẳng có thực tính, chỉ bằng vào chúng
sanh mà đặt tên. Nếu có thể soi ngược trở lại thì sẽ
thấy rõ:
Tánh
của tham, sân, si tức là tánh Phật.
Ngoài
tham, sân, si tuyệt nhiên không có tánh Phật nào khác.
Kinh
nói: Từ vô thủy đến nay, chư Phật luôn luôn cư xử ở
nơi ba độc, nuôi lớn trong bạch pháp, mà thành tựu ở quả
Thế tôn.
Ba
độc ấy là tham, sân,si vậy.
Nói
đại thừa tối thượng thừa là nói chổ sở hành của hàng
Bồ Tát.
Không
gì là chẳng thừa, mà cũng không gì gọi được là thừa,
suốt ngày thừa mà chưa hề thừa, đó là Phật thừa.
Kinh
nói: Lấy vô thừa làm Phật thừa vậy.
*
Nếu
người biết sáu căn vốn không thực, năm uẩn chỉ giả danh,
không thể dựa vào đâu cầu cạnh gì được, người ấy
quả thông suốt lời Phật.
Kinh
nói: Hang ổ của năm uẩn là tên gọi của thiền viện.
Chiếu
sáng bên trong mà mở thông suốt, tức là cửa đại thừa.
Chẳng
nhớ tưởng một pháp nào mới gọi là thiền định.
Ví
hiểu rõ lời ấy thì đứng, đi, nằm, ngồi thảy đều thiền
định cả.
*
Biết
tâm vốn không, đó gọi là thấy Phật.
Tại
sao vậy?
Vì
mười phương chư Phật đều nhân vì vô tâm chẳng thấy ở
tâm, đó là thấy Phật.
Xả
tâm không nuối tiếc gọi là đại bố thí.
Lìa
hết động và định gọi là đại tọa thiền.
Tại
sao vậy?
Kẻ
phàm mỗi mỗi đều hướng về động.
Hàng
tiểu thừa mỗi mỗi đều hướng về định.
Vượt
lên cái lầm hiếu động của phàm phu và hiếu định ngồi
thiền của tiểu thừa mới gọi là đại tọa thiền.
Nếu
có được sức lãnh hội ấy thì chẳng cần lìa mà tướng
tướng tự cởi bỏ, chẳng cần trị mà bịnh bịnh tự trừ,
ấy đều là định lực của phép đại thiền.
*
Phàm
đem tâm cầu pháp, ấy là mê.
Chẳng
đem tâm cầu pháp, ấy là ngộ.
Chẳng
mắc vào chữ nghĩa gọi là giải thoát.
Chẳng
nhiễm sáu trần gọi là hộ pháp.
Xuất
lìa sanh tử gọi là xuất gia.
Chẳng
chịu hậu hữu gọi là được đạo.
Chẳng
nổi vọng tưởng gọi là Niết bàn.
Chẳng
đối xử với vô minh gọi là trí huệ lớn.
Chỗ
không phiền não gọi là Bát Niết bàn.
Chỗ
không tướng gọi là bờ bên kia.
*
Khi
mê thì có bờ bên này.
Khi
ngộ thì không bờ bên này.
Tại
sao vậy?
-
Vì kẻ phàm phu mỗi mỗi đều xu hướng trụ ở bên này.
-
Vì giác được phép tối thượng thừa thì tâm chẳng trụ
bên này cũng chẳng trụ bên kia, nên lìa được cả hai bờ
bên này và bên kia.
Nếu
thấy bờ bên kia khác với bờ này, người ấy tâm chưa có
thiền định.
*
Phiền
não gọi là chúng sanh.
Tỏ
ngộ gọi là Bồ đề.
Đó
chẳng phải giống nhau mà cũng chẳng phải khác nhau, chỉ
vì mê ngộ mà cách biệt nhau.
*
Khi
mê thì thấy có thế gian cần thoát ra.
Khi
ngộ thì không có thế gian nào để thoát ra cả.
*
Trong
pháp bình đẳng chẳng thấy phàm khác với thánh.
Kinh
nói: Pháp bình đẳng ấy phàm phu không thể vào, bậc thánh
cũng không thể hành được.
Pháp
bình đẳng ấy chỉ có hàng Bồ tát lớn và chư Phật Như
lai mới hành được.
Nếu
thấy sống khác với chết, động khác với tịnh, đó gọi
là chẳng bình đẳng.
Chẳng
thấy phiền não khác với Niết bàn, ấy gọi là bình đẳng.
Tại
sao vậy?
Vì
phiền não với Niết bàn đều chung đồng một tánh không
vậy.
*
Do
đó, hàng tiểu thừa vọng dứt phiền não, vọng vào Niết
bàn, nên trệ ở Niết bàn.
Hàng
Bồ tát, trái lại biết rõ tánh không của phiền não, tức
chẳng lìa bỏ cái không, nên lúc nào cũng ở tại Niết bàn.
*
Phàm
nói Niết bàn: Niết là không sanh, bàn là không tử.
Lìa
ngoài sanh tử gọi là Bát Niết bàn.
Tâm
không lại qua tức vào Niết bàn.
Nên
biết Niết bàn tức là tâm không.
Chư
Phật vào Niết bàn, tức vào cõi không vọng tưởng.
Bồ
tát vào đạo tràng, tức vào cõi không phiền não.
*
Cõi
vắng không ấy tức cõi không tham, sân, si.
Tham
là cõi dục.
Sân
là cõi sắc.
Si
là cõi vô sắc.
Nếu
bỗng chốc thoắt sanh tâm, tức đi vào ba cõi.
Bỗng
chốc thoắt diệt tâm, tức ra ngoài ba cõi. Mới hay ba cõi
sanh diệt, muôn pháp có không đều do một tâm.
*
Hễ
nói một tâm tựa hồ như phá vào thế giới vật chất vô
tình của ngói cây gỗ đá.
Nếu
biết tâm chỉ là một tiếng gọi suông, không thực thể,
tức biết tâm tự tịch ấy chẳng phải có mà cũng chẳng
phải không.
Tại
sao vậy?
Vì
phàm phu mỗi mỗi đều có xu hướng sanh tâm nên gọi là "có".
Hàng
tiểu thừa, mỗi mỗi đều có xu hướng diệt tâm nên gọi
là "không".
Hàng
Bồ tát và Phật chưa từng sanh tâm, chưa từng diệt tâm nên
gọi là "chẳng phải có tâm, chẳng phải không tâm".
Tâm
chẳng có chẳng không gọi là trung đạo.
Bởi
vậy đem tâm học pháp thì tâm pháp thảy đều mê.
Chẳng
đem tâm học pháp ắt tâm pháp thảy đều ngộ.
*
Phàm
mê là mê ở ngộ.
Còn
ngộ là ngộ ở mê.
Bậc
chánh kiến hiểu tâm vốn "không vô" tức vượt lên mê ngộ.
Không
có mê ngộ mới gọi là chánh giác chánh kiến.
*
Sắc
không thể tự là sắc, do tâm nên có sắc.
Tâm
không thể tự là tâm, do sắc nên có tâm.
Cho
nên hai tướng tâm và sắc đều có sanh diệt.
*
Nói
"có" là do ở "không".
Nói
"không" là không do ở "có".
Đó
mới là thấy chân thực.
Phàm
thấy thực thì không gì chẳng thấy mà cũng không gì không
chẳng thấy, thấy khắp mười phương vẫn là chưa từng có
thấy.
Tại
sao vậy?
Vì
không có gì để thấy, vì thấy cái không thấy, vì thấy
cái chẳng phải là thấy.
Cái
thấy của kẻ phàm đều là vọng tưởng.
Nếu
tịch diệt không có thấy mới là thấy thực.
*
Tâm
và cảnh đối nhau, thấy phát sanh từ thế đối đãi ấy.
Nếu
trong chẳng khởi tâm thì ngoài chẳng sanh cảnh.
Cho
nên tâm và cảnh có lắng hết cả hai thì mới gọi là chân
kiến.
Và
cái hiểu trong lúc ấy mới gọi là chánh kiến.
*
Chẳng
thấy một pháp mới gọi là được đạo.
Chẳng
hiểu một pháp mới gọi là hiểu pháp.
Tại
sao vậy?
Vì
thấy cùng chẳng thấy, đều chẳng thấy.
Hiểu
cùng chẳng hiểu, đều chẳng hiểu.
Thấy
cái chẳng thấy, mới là thấy thực.
Hiểu
cái chẳng hiểu, mói là hiểu thực.
...
Phàm có cái hiểu đều là chẳng hiểu.
Không
có cái hiểu mới là thực hiểu.
Hiểu
cùng chẳng hiểu đều chẳng phải hiểu.
Kinh
nói: chẳng xả trí huệ gọi là ngu si.
Lấy
tâm làm không thì hiểu cùng chẳng hiểu đều là chân cả.
Chấp
tâm là có thì hiểu cùng chẳng hiểu đều là vọng cả.
*
Khi
hiểu rồi thì pháp đuổi theo người.
Khi
chưa hiểu thì người đuổi theopháp.
Nếu
pháp đuổi theo người, pháp hóa thành chẳng phải là pháp.
Nếu
người đuổi theo pháp, thì pháp pháp đều là vọng.
Nếu
pháp đuổi theo người thì pháp pháp đều là chân.
Cho nên bậc thánh:
- Cũng
chẳng đem tâm cầu pháp.
-
Cũng chẳng đem pháp cầu tâm.
-
Cũng chẳng đem tâm cầu tâm.
-
Cũng chẳng đem pháp cầu pháp.
Vì thế tâm chẳng sanh pháp, pháp chẳng sanh tâm, tâm và pháp tịch cả hai nên lúc nào cũng ở trong định.
*
Tâm
của chúng sanh sanh ắt pháp Phật diệt.
Tâm
của chúng sanh diệt ắt pháp Phật sanh.
Tâm
sanh ắt chân pháp diệt.
Tâm
diệt ắt chơn pháp sanh.
*
...
Khi mê thì (thấy) có tội.
Khi
hiểu thì (thấy) không có tội.
Tại
sao vậy?
Vì
tội tánh vốn không.
Khi
mê thì không tội thấy có tội.
Nếu
hiểu rồi thì đối tội thấy không tội.
Tại
sao vậy?
Kinh
nói: Muôn pháp đều không tự tánh, cứ dùng nó đừng ngờ,
ngờ tức thành tội.
Tại
sao vậy?
Vì
tội do nghi ngờ sanh ra.
Nếu
thấu suốt được lẽ ấy thì bao nhiêu tội nghiệp đời
trước đều tiêu tan hết.
*
Khi
mê thì sáu thức, năm ấm đều là pháp phiền não sanh tử.
Khi
ngộ thì sáu thức, năm ấm đều là pháp Niết bàn không sanh
tử.
Người
dốc lòng tu chớ cầu đạo ở bên ngoài.
Tại
sao vậy?
Vì
tâm tức là đạo vậy.
*
Khi
được tâm rồi, mới hay không tâm nào có thể được.
Khi
được đạo rồi, mới hay không đạo nào có thể được.
Nếu
nói đem tâm ra cầu được đạo, đó gọi là tà kiến.
*
Khi
mê thì Phật có pháp.
Ngộ
rồi thì không Phật không pháp.
Tại
sao vậy?
Vì
ngộ tức là Phật pháp.
*
...
Khi mắt thấy sắc chẳng nhiễm nơi sắc.
Khi
tai nghe tiếng chẳng nhiễm nơi tiếng đều là giải thoát.
Mắt
không dính sắc thì mắt là cửa thiền.
Tai
không dính tiếng thì tai là cửa thiền.
Nói
gom lại hết, thấy được tánh của sắc thì lúc nào cũng
là giải thoát.
Thấy
tướng của sắc thì lúc nào cũng là trói buộc.
Không
vì phiền não mà trói buộc, tức gọi giải thoát, ngoài ra
không có sự giải thoát nào khác.
Khéo
quán xét sắc thì rõ ràng sắc chẳng sanh nơi tâm, tâm chẳng
sanh nơi sắc, tức sắc và tâm cả hai đều thanh tịnh.
*
Khi
không vọng tưởng thì một tâm là một cõi Phật.
Khi
có vọng tưởng thì một tâm là một địa ngục.
Chúng
sanh xây dựng vọng tưởng, đem tâm sanh tâm, nên lúc nào cũng
ở trong địa ngục
Nếu
không đem tâm sanh tâm thì tâm tâm quay về không, niệm niệm
trở về tịnh, vào đủ nước Phật, đến đủ nước Phật.
Nếu
đem tâm sanh tâm thì tâm tâm chẳng tịnh, niệm niệm hướng
động, vào đủ địa ngục, qua đủ địa ngục.
Nếu
một thoáng tâm dấy lên, ắt có thiện ác hai nghiệp, có thiên
đường địa ngục.
Nếu
một thoáng tâm không dấy lên, ắt không thiện ác hai nghiệp,
cũng không thiên đường địa ngục.
*
...
Thánh nhân vốn không tâm, nên trong thì trống rỗng bao la,
cùng với hư không chẳng khác.
Khi
tâm được Niết bàn tức thấy chẳng có Niết bàn.
Tại
sao vậy?
Vì
tâm là Niết bàn.
Nếu
ngoài tâm thấy có Niết bàn, đó là mắc phải tà kiến.
*
Tất
cả phiền não là hột giống Như lai, vì nhân có phiền não
mới có được trí huệ.
Ta
chỉ nên nói phiền não "sanh" Như lai, không thể nói phiền
não "là" Như lai.
Cho nên cần lấy thân tâm làm ruộng rẫy, phiền não làm hột giống, trí huệ làm mầm mộng, còn Như lai ví như lúa thóc.
*
Phật
ở trong tâm như (trầm) hương ở trong cây.
Phiền
não nếu hết thì Phật theo tâm ra.
Vỏ
mục nếu hết thì hương theo cây ra.
Mới
biết ngoài cây không có hương, ngoài tâm không có Phật.
Nếy
ngoài cây có hương, tức là hương ngoài của cây khác.
Nếu
ngoài tâm có Phật, tức là Phật ngoài của ai khác.
Trong
tâm có ba độc, đó gọi là quốc độ dơ xấu.
Trong
tâm không có ba độc, đó gọi là quốc độ thanh tịnh.
Kinh
nói: Nếu khiến cho quốc độ đục vẩn dơ xấu cứ dẫy
đầy lên, rồi chư Phật Thế Tôn sẽ từ trong đó xuất hiện,
điều ấy không đâu có được.
Cái
vẩn đục dơ xấu tức là ba độc vô minh.
Chư
Phật Thế Tôn tức là tâm thanh tịnh giác ngộ.
*
Tất
cả sự nói năng, không gì chẳng là pháp Phật.
Nếu
tự mình không có lời nói thì nói suốt ngày vẫn là đạo.
Nếu
tự mình có lời nói thì im suốt ngày vẫn chẳng là đạo.
Cho
nên Như lai lời nói không nương theo im lặng, im lặng không
nương theo lời nói, lời nói không lìa im lặng, nói và im
đều ở trong tam muội cả.
Nếu
biết mà nói thì lời nói cũng là giải thoát.
Nếu
không biết mà im lặng thì im lặng cũng trói buộc.
Cho
nên nói mà lìa tướng thì lời nói gọi là giải thoát.
Còn
im lặng mà dính tướng thì im lặng là trói buộc.
*
Lìa
tâm không Phật.
Lìa
Phật không tâm.
Cũng
như lìa nước không băng.
Cũng
như lìa băng không nước.
Nói
"lìa tâm không Phật" chẳng phải xa lìa tâm, mà khiến đừng
chấp vào hình tướng của tâm.
Kinh
nói: "Không thấy tướng gọi là thấy Phật", tức là lìa
hình tướng của tâm.
"Lìa
Phật không tâm" là nói Phật từ tâm ra.Tâm có thể sanh Phật,
nên Phật theo tâm sanh, nhưng Phật chưa hề sanh ra tâm bao giờ.
*
Cũng
như cá sanh ở nước, nhưng nước không thể sanh ở cá.
Cho
nên muốn xem cá, cá chưa thấy mà trước hết đã thấy nước.
Cũng
vậy, muốn xem Phật, Phật chưa thấy mà trước hết đã thấy
tâm.
Mới
biết cá thấy rồi cần quên nước.
Phật
thấy rồi cần quên tâm.
Nếu
không quên được tâm thì sẽ vì tâm mà lầm nữa.
Nếu
không quên được nước thì sẽ vì nước mà mê nữa.
*
Chúng
sanh với Bồ đề cũng như nước với băng.
Vì
ba độc nung đốt nên gọi là chúng sanh.
Vì
ba giải thoát gội sạch nên gọi là Bồ đề.
Vì
đóng lạnh trong tiết đông nên gọi là băng.
Vì
tan chảy trong lửa hè nên gọi là nước.
Nếu
bỏ băng, thì không có nước nào khác.
Nếu
bỏ chúng sanh, thì không có Bồ đề nào khác.
Đủ
rõ tánh của băng tức là tánh của nước.
Tánh
của nước tức là tánh của băng.
Cũng
vậy, tánh của chúng sanh tức là tánh của Bồ đề.
Chúng
sanh với Bồ đề đều chung nhau một tánh.
Cũng
như hai vị thuốc ô đầu và phụ tử đều chung một gốc,
chỉ vì thời tiết mà khác nhau. Cũng vậy, mê ngộ hai cảnh
khác nhau nên có hai tên gọi chúng sanh và Bồ đề.
Rắn
hóa thành rồng vẫn không đổi vảy.
Phàm
biến thành thánh vẫn không thay mặt.
Mới
hay tâm ấy, trong trí huệ chiếu; thân ấy, ngoài giới luật
vững.
*
Chúng
sanh độ Phật.
Phật
độ chúng sanh.
Vậy
gọi là bình đẳng.
Chúng
sanh độ Phật: phiền não nẩy sanh tỏ ngộ.
Phật
độ chúng sanh: tỏ ngộ phá trừ phiền não.
*
...
Khi mê thì Phật độ chúng sanh.
Khi
ngộ thì chúng sanh độ Phật.
Tại
sao vậy?
Vì
Phật không thể tự thành, đều do chúng sanh độ nên vậy.
*
Chư
Phật lấy vô minh làm cha, lấy tham ái làm mẹ.
Vô
mình và tham ái đều là tên gọi khác của chúng sanh.
Chúng
sanh với vô minh cũng như tay trái với tay mặt, rốt cùng chẳng
khác nhau.
*
Khi
mê thì ở bờ bên này.
Khi
ngộ thì ở bờ bên kia.
Vì
biết tâm vốn là không thì chẳng thấy tướng, ắt lìa cả
mê và ngộ.
Mê
ngộ đã lìa, ắt không bờ bên kia.
Như
lai không ở bờ bên này, cũng không ở bờ bên kia, không ở
giữa dòng.
Ở
giữa dòng: tiểu thừa.
Ở
bờ bên này: phàm phu.
Ở
bờ bên kia: Bồ tát.
*
Phật
có ba thân: hóa thân, báo thân và pháp thân.
Nếu
chúng sanh luôn luôn làm theo các căn lành: tức hóa thân hiện.
Tu
trí huệ: tức báo thân hiện.
Giác
vô vi: tức pháp thân hiện.
Bay
lướt mười phương, tùy nghi cứu độ: Phật hoá thân.
Dứt
mê hoặc, tu thiện pháp, thành đạo trên núi Tuyết: Phật
báo thân.
Không
lời không nói, vắng lặng thường trụ: Phật pháp thân.
Luận
cho cùng lẽ thì một Phật còn chẳng có huống là ba.
Nói
ba thân là dựa theo căn trí của con người có thượng, trung,
hạ.
Người
hạ trí bôn chôn vọng cầu phước, vọng thấy hóa thân Phật.
Người
trung trí vọng dứt phiền não,vọng thấy báo thân Phật.
Người
thượng trí vọng chứng Bồ đề, vọng thấy pháp thân Phật.
Người
thượng trí vắng lặng tròn đầy soi chiếu bên trong, sáng
tâm tức Phật, chẳng đợi tâm mà được Phật.
Thế
mới biết ba thân cùng muôn pháp đều không giữ được, không
nói được, đó tức là tâm tự nhiên giải thoát, thành tựu
đạo lớn.
Kinh
nói: "Phật chẳng nói pháp, chẳng độ chúng sanh, chẳng chứng
Bồ đề" là như vậy.
*
Chúng
sanh tạo nghiệp.
Nghiệp
tạo chúng sanh.
Đời
nay tạo nghiệp.
Đời
sau chịu quả báo, thuở nào thoát khỏi.
Bậc
chí nhân ở trong thân này, không tạo các nghiệp, nên chẳng
chịu báo.
Kinh
nói: "Các nghiệp chẳng tạo, tự nhiên được đạo" hà lời
nói suông ru!
Người
tạo ra nghiệp.
Nghiệp
không thể tạo ra người.
Người
nếu tạo nghiệp thì nghiệp với người cùng sanh.
Người
nếu không tạo nghiệp thì nghiệp với người cùng diệt.
Mới
biết nghiệp do người tạo, người do nghiệp sanh.
Nếu
người không tạo nghiệp, tức nghiệp chẳng do người sanh.
Cũng
như người có thể nâng đạo, đạo không thể nâng người.
Kẻ
phàm phu ngày nay luôn luôn tạo nghiệp, lại nói bừa là không
có quả báo, há chẳng khó nghe sao?
Luận
cho cùng lẽ: tâm trước tạo, tâm sau báo, đời nào thoát
được?
Nếu
tâm trước không tạo, tức tâm sau không báo, vậy còn vọng
thấy nghiệp báo được sao?
Kinh
nói: Tuy tin cả Phật, lại nói Phật khổ hạnh, đó là tà
kiến.
Tuy
tin cả Phật, lại nói Phật bị quả báo đói ăn lúa ngựa,
gươm vàng đâm chân, đó gọi là lòng tin chưa trọn đủ,
là nhất xiển đề.
*
Người
hiểu pháp thánh gọi là thánh nhơn.
Người
hiểu pháp phàm gọi là phàm phu.
Chỉ
cần xả pháp phàm thành pháp thánh, tức phàm phu thành thánh
nhơn.
Kẻ
ngu trong đời chỉ mong cầu thánh viễn vong, chẳng tin rằng
chính tâm huệ giải là thánh nhơn.
Kinh
nói: Đối với người vô trí đừng nói kinh này.
Kinh
này là tâm, là pháp vậy.
Người
vô trí không tin chính tâm sáng tỏ được pháp này làm thành
bậc thánh. Họ chỉ mảng cầu xa, học ngoài, mến chuộng
hình tượng Phật ngoài trời, cùng ánh sáng hương sắc đủ
thứ, toàn là việc làm đọa tà kiến, mất tâm, cùn trí.
Kinh
nói: Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy
Như lai.
Tám
vạn bốn ngàn pháp môn thảy do một tâm mà mống dậy.
Nếu
trong lắng hết tâm tướng, giống như hư không, tức tự trong
thân tâm xa lìa hết tám vạn bốn ngàn căn bịnh phiền não.
Phàm phu đang sống sợ chết, vừa no lo đói, thật quá đổi
mê hoặc. Cho nên bậc chí nhân chẳng tính việc đã qua, chẳng
lo việc chưa đến, không xáo động việc bây giờ, niệm niệm
trở về đạo.Kệ đêm ngồi tịnh rằng:
NHẤT
CANH đoan tọa kiết già phu,
Di
thần tịch chiếu hung đồng hư.
Khoáng
kiếp do lai bất sanh diệt,
Hà
tu sanh diệt diệt sanh cừ?
Nhất
thiết chư pháp giai như huyễn,
Bổn
tánh tự không na dụng trừ!
Nhược
thức tâm tánh phi hình tượng,
Trạm
nhiên bất động tự như như.
Đoan
trang CANH MỘT tịnh ngồi tu,
Tịch
chiếu tinh thần tợ thái hư.
Muôn
kiếp vốn không sanh với diệt,
Học
đòi sanh diệt diệt gì ư?
Gẫm
xem các pháp trò ma ảo,
Tánh
vốn là không uổng sức trừ!
Ví
biết tâm mình không tướng mạo,
Lặng
im chẳng động tự như như.
NHỊ
CANH ngưng thần chuyển minh tịnh,
Bất
khởi ức tưởng chân như tính.
Sum
la vạn tượng tịnh qui không,
Cánh
chấp hữu không toàn thị bịnh.
Chư
pháp bổn tự phi không hữu,
Phàm
phu vọng tưởng luận tà chánh.
Nhược
năng bất nhị kỳ cư hoài,
Thủy
đạo tức phàm phi thị thánh,
CANH
HAI ngưng thần chuyển minh tịnh,
Chẳng
tưởng chẳng nhớ nhân như tính.
Um
tùm muôn tượng trở về không,
Chấp
có chấp không lại vẫn bệnh.
Các
pháp như nhiên chẳng có không,
Phàm
phu tưởng quấy bàn tà chánh.
Ví
biết gìn lòng lẽ "chẳng hai".
Ai
nói tức phàm chẳng phải thánh.
TAM
CANH tâm tịnh đẳng hư không,
Biến
mãn thập phương vô bất thông.
Sơn
hà thạch bích vô năng chướng,
Hà
sa thế giới tại kỳ trung.
Thế
giới bổn tánh chân như tánh,
Diệc
vô bổn tánh tức hàm dung.
Phi
đản chư Phật năng như thử,
Hữu
tình chi loại phổ giai đồng.
CANH
BA tâm tịnh sáng hư không,
Rộng
khắp mười phương đâu chẳng thông.
Tường
vách núi sông không ngăn ngại,
Bao
la vũ trụ tự nơi trong.
Tánh
của càn không là Phật tánh,
Cũng
không bổn tánh tức hàm dung.
Nào
phải riêng đâu chư Phật được,
Hữu
tình muôn loại vẫn chung đồng.
TỨ
CANH vô diệt diệc vô sinh,
Lượng
dữ hư không pháp giới bình.
Vô
lai vô khứ vô khởi diệt,
Phi
hữu phi vô phi ám minh.
Vô
khởi chư kiến Như lai kiến,
Vô
danh khả danh chư Phật danh.
Duy
hữu ngộ giả ưng năng thức,
Vị
hội chúng sanh do nhược manh.
CANH
TƯ không diệt cũng không sanh,
Rộng
ví hư không pháp giới bình.
Không
qua không lại không còn mất,
Chẳng
có chẳng không chẳng ám minh.
Không
vọng thấy gì: Như lai thấy,
Không
gọi danh gì: chân Phật danh.
Ai
có ngộ qua rồi mới hiểu,
Chúng
sanh chưa rõ bởi thong manh.
NGŨ
CANH bát nhã chiếu vô biên,
Bất
khởi nhất niệm lịch tam thiên.
Dục
kiến chân như bình đẳng tánh,
Thậm
vật sanh tâm tức mục tiền.
Diệu
lý huyền ảo phi tâm trắc,
Bất
dụng trầm trục linh bì cực.
Nhược
năng vô niệm tức chân cầu,
Cánh
nhược hữu cầu hoàn bất thức.
CANH
NĂM bát nhã chiếu vô biên,
Chẳng
khởi một niệm suốt tam thiên.
Muốn
thấy chơn như bình đẳng tánh,
Khéo
chớ sanh tâm trước mắt tiền.
Lẽ
ấy diệu huyền không lượng được,
Dụng
công đuổi bắt thêm nhọc sức.
Nếu
không một niệm tức chân cầu,
Còn
có tâm cầu chưa tỉnh thức.
Tụng chân tánh rằng: