01 Lời đầu sách của HT Thanh Từ 02 Đề Tựa của Tỳ Kheo Huệ Nguyên (1763) 03 Hành TrạngThượng Sĩ 04 Đối Cơ (trả Lời Người Hỏi) 05 Tụng Cổ 06 Thi Ca: 06-1 Bài ca Tâm Phật 06-2 Bài ngâm phóng cuồng Sống chết nhàn mà thôi 06-3 Phàm Thánh không hai Mê ngộ không khác Ngâm bĩu môi 06-4 Bài văn Trứ Từ tự răn Thời tiếtan định Dương chân Vào cát bụi 06-5 Muôn việc về như Thói đờihư dối Họa thơ quan Huyện Cảnh vật Tịnh Bang Họa Thơ Hưng Trí Thượng Vị Hầu 06-6 Tụng đạo học Trần Thánh Tông Chăn trâu đất Vui thíchgiang hồ Vật không tuỳ người Viếng Đại Sư Tăng Điền Thăm bệnh Đại Sư Phước Đường 06-7 Lễ Thiền sưTiêu Dao ở Phước Đường Cảnh vật Phước Đường Tăng Pháp sưThuần Nhất Đùa Thiền Sư Trí Viễn xem kinh giải nghĩa Điệu Tiên Sư Khuyên đời vào đạo Bảo chúng Bảo chúng Bảo học giả Chợt hứng 06-8 Cội tùng đáy khe Xuất trần Đạo lớn không khó Tâm vương Thả trâu Đề tịnh xá Chợt hứng Cây gậy Chiếu thân Tự đề Chợt tỉnh Tự tại Bảo học trò Bảo tu nghiệp Tây phương Thoát đời Vui thú giang hồ. 07 Lời Bạt Phụ Lục chữ Hán
LỜI ĐẦU SÁCH
Đạo Phật lấy giác ngộ làm cội gốc, Thái tử Tất-đạt-đa (Siddhàrtha) tọa thiền dưới cội bồ-đề được giác ngộ gọi là thành đạo hay thành Phật. Thành Phật có nghĩa là hoàn toàngiác ngộ, nói gọn là toàn giác. Những người tu hành được giác ngộ từng phần gọi là Bồ-tát (Bodhisattva) hay phần giác. Bồ-tát định nghĩa là Hữu tình giác và Giác hữu tình, tức là mình giác ngộ và chỉ dạy cho người cùng được giác ngộ. Từ Phật đến Bồ-tát đều căn cứ trên giác ngộ mà thành quả vị sai khác. Do đó, nói đến đạo Phật là nói đến giác ngộ, không giác ngộ là không phải đạo Phật.
Phật giáoBắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đíchtiến tu. Dù là tu sĩxuất gia hay cư sĩtại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính. Hiện thờiđức Phật có cư sĩ Duy-ma-cật (Vimalakirti), mặc dù là cư sĩ mà giác ngộ cũng được chư vị Bồ-tát và A-la-hán quí trọng. Hay tin ông bệnh, Phật sai các vị Bồ-tát và La-hán đến thăm, nhân đối đápđạo lý các ngài bị ông khuất phục. Do đó bộ kinh Duy-ma-cật được ra đời. Ở Trung Hoa đời Đường có ông cư sĩBàng Long Uẩnngộ đạo nơi hai Thiền sưThạch Đầu Hy Thiên và Mã Tổ Đạo Nhất, các Thiền kháchxuất gia mỗi khi ứng cơ đối đáp đều nể trọng ông. Nước Việt Nam đời Trần có Tuệ Trung Thượng Sĩ là cư sĩtại gia do ngộ đạo, được cả cư sĩ cùng Tăng sĩ tìm đến tham học. Người học đạo chỉ quí trọng vấn đềgiác ngộ, chớ không quan tâm bởi những vấn đề khác. Đây là chứng minhcụ thểPhật giáoBắc tông cũng như Thiền tông đặt giác ngộ lên trên tất cả.
Quyển “TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC” là một tác phẩmtrác tuyệt, triết lý uyên thâm, văn chươngthanh thoát. Thế mà, rất ít người Việt Nam chịu đọc, vì lẽ rất khó hiểu. Muốn cho đa số người Việt Nam hiểu được nhũng tác phẩm hay của tổ tiên mình, hàng Phật tửViệt Nam biết rõ đường lối tu hành của các bậc tiền bối, chúng tôi mạo muội giảng giải ra. Biết rằng làm như thế là trái tinh thần “đa nghi đa ngộ” của Thiền tông, song vì thương những người không biết của báu của ông cha mình, chúng tôi cam nhận sự chê trách của bậc tác gia mắt sáng, cốt cho độc giả đọc hiểu và ứng dụng được phần nào là thỏa nguyện của chúng tôi. Hơn nữa vì làm sống dậy Thiền họcViệt Nam nên chúng tôi không ngại đức mỏng tài hèn cố gắnggiảng giải.
Quyển sách này do ngài Điều Ngự (Trần Nhân Tông) ghi lời dạy của Thượng Sĩ, Thiền sưPháp Loa lo khắc bản in. Trong phần chữ Hán có chia bốn phần: Đối cơ, Tụng cổ, Thi tụng, Tiểu sử. Chúng tôi dịch giảng đổi phần Tiểu sử lại trước để cho người đọc dễ lãnh hội hơn.
Trước đây, ông Trúc Thiên đã phiên dịch quyển sách này từ chữ Hán ra chữ Việt và xuất bản năm 1968. Sau này trong THƠ VĂN LÝ TRẦN tập II do Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội cũng dịch ra. Hai bản dịch trên khá hay, song thỉnh thoảng có đôi chỗ không thích hợplý Thiền. Chúng tôi nương theo hai bản dịch này, dịch lại và giảng rõ ra, cốt giúp độc giảdễ cảm nhận và dễ lãnh hội. Chúng tôichân thànhtri ân những nhà dịch trước, đã đóng góp lớn lao cho ngôi nhà Phật giáo Việt Nam và cho công tác gây dựng lại “TỦ SÁCH PHẬT GIÁO VIỆT NAM” của chúng tôi. Chắc rằng việc giảng giải của chúng tôi có rất nhiều sai sót, mong những hàng thức giảcao minhlượng thứ cho và hoan hỉ chỉ những điểm sai lầm, để lần tái bản sau được chu toàn hơn.
Kính THÍCH THANH TỪ Thiền việnThường Chiếu Mùa An Cư năm 1996
Sau những ngày Miến Điện nghỉ Tết, nhóm thiện nguyện Ánh Sáng Từ Bi do Sư Cô Tn Như Hiếu điều hành đã tiếp tục dấn thân cứu trợ. Hôm nay 22. April 2025 chúng con xin tiếp tục tường trình hình ảnh cứu trợ động đất Myanmar đợt 5. Cũng như 4 đợt cứu trợ vừa qua, lần này chúng con cũng kết hợp cùng với chư vị Bhante, chư Tăng Ni VN tại Myanmar (Nhóm thiện nguyện Ánh Sáng Từ Bi, Quỹ Phụng Sự Tâm An, Quỹ Từ Tâm, nhóm Sư Cô Thích nữ Như Hiếu- Suriyavati)
Xin tường trình Lộ trình đi cứu trợ miền động đất Myanmar.
Kính gửi : Chư tôn Hòa thượng Trưởng lão,Chư Hòa thượng,Chư Thượng tọa, Đại đức Tăng ni,Quý Phật tử trong vả ngoài nước : THÔNG BẠCH ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PHẬT LỊCH 2569 của HĐGPTƯ Chánh thư ký Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống,Tỳ kheo Thích Đức Thắng
Khởi sự với lòng từ mong muốn đem nguồn nước của đức “Đại Bi” khơi nguồn nơi khô cằn sỏi đá và thiếu nguồn nước vào mùa khô ở Đăk Nông, từ ngày 19 tháng Giêng năm Ất Tỵ (19/2/2025) chúng con đã đi tiền trạm, khảo sát các trường học/ khu dân cư cần giếng nước sạch ở Đăk Nông. Sau khi tiến hành khảo sát đợt 1 vào ngày 19/2/2025 và đợt 2 vào ngày 17/3/2025, chúng con đã chọn lọc trong số các trường đã khảo sát và quyết định tặng 18 giếng nước/công trình lọc nước phèn/máy phát điện cho 20 trường học thuộc tỉnh Đăk Nông (có 4 trường trong cùng khuôn viên đất ở 2 địa điểm sẽ sử dụng chung công trình được tặng).
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.