THẤY PHẬT, THẤY PHÁP
Nguyên Giác
Có một lời Đức Phật nói thường được nhắc tới. Đó là câu, “Ai thấy Pháp, là thấy Ta.” Nghĩa là, thấy Pháp, là thấy Phật. Câu nói này không có nghĩa là, thấy thân xác ngũ uẩn của Đức Phật. Pháp nơi đây có thể hiểu theo nhiều nghĩa, có thể là lời Đức Phật dạy, là con đường giải thoát, là nhận diện ra vạn pháp vô ngã trong lý nhân duyên, nguyên tắc vận hành của vạn pháp, và cả của thân tâm ta. Như thế, có thể hiểu là pháp vô vi nằm sẵn trong các pháp hữu vi, tức là Niết bàn đã có sẵn trong pháp ấn vô thường của sinh và tử.
Trong Kinh Pháp Cú, bài Kệ 381, bản dịch của Thầy Minh Châu là:
381. “Tỷ kheo nhiều hân hoan,
Tịnh tín giáo pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tịnh,
Các hạnh an tịnh lạc.”
Trong bản dịch của Daw Mya Tin về tích truyện Pháp Cú 381, chúng ta sẽ thấy về chuyện một nhà sư say mê nhìn Phật, không chịu tu, bị rầy, nhà sư buồn, có ý muốn tự tử, thế rồi Đức Phật dùng thần thông hiện ra, vị sư này liền chứng quả thánh. Câu chuyện kỳ là này là về Tỳ kheo Vakkali.
Trong khi cư trú tại tu viện Veluvana, Đức Phật đã nói Bài kệ 381 trong Kinh Pháp Cú, là về nhà sư Vakkali. Ngài Vakkali là một bà la môn sống ở Savatthi. Một ngày nọ, khi nhìn thấy Đức Phật đi khất thực trong thành phố, ông rất xúc động trước vẻ ngoài cao quý của Đức Phật. Đồng thời, ông cảm thấy rất yêu mến và tôn kính Đức Phật và xin phép gia nhập Tăng đoàn chỉ để được ở gần Đức Phật. Là một nhà sư, Vakkali luôn gần với Đức Phật; ông không quan tâm nhiều đến các nhiệm vụ khác của một tỳ kheo và hoàn toàn không thực hành thiền định. Chỗ đáng chú ý là, vị sư này hoàn toàn không thực hành thiền định.
Vì vậy, Đức Phật nói với nhà sư, “Vakkali, sẽ vô ích cho ông khi cứ luôn ở gần ta, cứ nhìn vào mặt ta. Ông nên thực hành thiền định; vì thực sự, chỉ có người thấy Pháp mới thấy ta. Người không thấy Pháp thì không thấy ta. Vì vậy, ông phải rời khỏi sự hiện diện của ta.”
Khi nghe những lời đó, Vakkali cảm thấy rất chán nản. Ông rời khỏi Đức Phật theo lệnh, và leo lên đồi Gijjhakuta với ý định tự tử bằng cách nhảy xuống từ đỉnh đồi. Lại thêm một điểm tiêu cực để chú ý nữa: Chưa chứng quả gì hết, lại sống với tâm sầu muộn, khởi tâm muốn tự sát. Đức Phật, biết rõ mức độ đau buồn và tuyệt vọng của Vakkali, đã suy nghĩ rằng vì nỗi buồn và sự chán nản lớn lao của mình, Vakkali có thể bỏ lỡ cơ hội chứng quả thánh. Do vậy, Đức Phật đã phát ra ánh sáng của mình tới Vakkali, khiến nhà sư này cảm thấy sự hiện diện của Đức Phật và xuất hiện như thể trực tiếp gặp với Vakkali. Với Đức Phật ở gần, Vakkali nhanh chóng quên hết mọi nỗi buồn của mình; ông trở nên vui vẻ và rất phấn khởi.
Đức Phật đã nói với nhà sư này bằng bài kệ như sau:
Bài kệ 381: Vị tỳ khưu thường trực cảm thấy vui mừng và tận tụy với Lời dạy của Đức Phật sẽ chứng ngộ Niết bàn — Tịch lặng, Vô vi, An lạc.
Nghe xong, nhà sư Vakkali liền đạt được quả vị A la hán.
Chỗ này cũng cần suy nghĩ thêm. Hiển nhiên, không phải vì nhìn thấy khuôn mặt hay nhìn thấy bước đi của Đức Phật mà nhà sư chứng quả A la hán. Cũng không phải vì nhìn thấy vùng ánh sáng Đức Phật chiếu tới. Nhà sư này trước giờ không chịu ngồi thiền (nên mới bị Phật rầy), và trước giờ liên tục chỉ muốn nhìn thấy khuôn mặt của Đức Phật. Trường hợp này có thể suy đoán rằng, trong nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng, nhà sư nhìn ngắm Đức Phật. Cũng giống như chúng ta bây giờ nhìn ngắm tượng Phật. Khi nhìn khuôn mặt Phật, nhà sư dứt bặt mọi suy nghĩ tư lường. Trong Thiền Tông gọi là trạng thái vô niệm, cũng có thể dùng chữ kiểu sách vở rằng công án của nhà sư này là nhìn ngắm Đức Phật và rơi vào trạng thái tỉnh thức của vô niệm. Thế rồi bị rầy, thế nên buồn, mới nghĩ là muốn tự tử, rồi Phật hiện ra, nói bài Kệ, thì chính bài Kệ này làm nhà sư tình thức, mới thấy rằng chính lời Đức Phật dạy mới chỉ ra Niết bàn, chứ không phải vẻ đẹp khuôn mặt Đức Phật. Nhà sư sực tỉnh, rơi vào trạng thái Tịch lặng, Vô vi, An lạc.
Vô vi, tức là xa lìa các duyên. Khuôn mặt Đức Phật là pháp hữu vi, sẽ già, sẽ bệnh, sẽ biến đổi. Nhưng lời Phật dạy là chỉ ra con đường tới Vô vi, xa lìa các duyên, tức là Pháp. Đó mới thực sự là: Thấy vô vi, là thấy Pháp, là thấy Phật, nơi đó là tịch lặng và hạnh phúc.
Trong Kinh Kim Cang, bản dịch của Thầy Thích Duy Lực, nơi Phẩm “26. Pháp Thân Phi Tướng” có đoạn đối thoại như sau:
“- Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Có thể dùng ba mươi hai tướng để quán Như Lai chăng?
Tu Bồ Đề đáp: Đúng thế! Đúng thế! Có thể dùng ba mươi hai tướng quán Như Lai.
Phật bảo Tu Bồ Đề: Nếu dùng ba mươi hai tướng để quán Như Lai thì Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Như Lai sao? (Chuyển Luân Thánh Vương cũng có ba mươi hai tướng)
Tu Bồ Đề thưa rằng: Bạch Thế Tôn, như con hiểu ý nghĩa lời Phật, thì chẳng nên dùng ba mươi hai tướng để quán Như Lai.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã, Thị nhơn hành tà đạo, Bất năng kiến Như Lai.
Dịch nghĩa: Nếu dùng sắc thấy ta, Dùng âm thanh cầu ta. Là người hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai.” (ngưng trích)
Trong phần Lược Giải, Thầy Duy Lực viết: “Chữ Ta ở đây là tự tánh Phật. Tự tánh bất nhị, chẳng có năng sở, nên chẳng phải sở thấy sở cầu. Nếu đuổi theo căn trần để thấy để cầu là hành theo tà đạo, chẳng thể đạt đến kiến tánh. (Lược giải hết)”
Như thế, muốn thấy Phật, là phải thấy Pháp. Và Pháp không thể là cái màu sắc xanh đỏ tím vàng, cũng không phải các hình vuông tròn đủ thứ. Không dựa vào cái được thấy, và không dựa vào cái được nghe. Đức Phật từng dạy rằng tất cả những gì được thấy và được nghe đều bất khả đắc, cũng như hình hiển lộ trong gương (tâm) và cũng như những âm thanh chúng ta nghe được như tiếng đàn, tiếng chim kêu, tiếng mưa rơi. Không thể níu giữ hình được thấy và không thể níu giữ các âm thanh được nghe.
Tới đây, chúng ta sẽ thấy rằng, khi thấy được cái không được thấy và nghe được cái không được nghe, thì toàn bộ thân tâm chúng ta rơi vào một cảnh giới xa lìa cả quá khứ, hiện tại và vị lai. Bởi vì cả ba khuôn thời gian quá, hiện, vị lại đều định hình từ cái được thấy và cái được nghe của quá, hiện, vị lại. Xa lìa cả ba thời, nghĩa là, một bước nhảy qua bờ bên kia.
Trong Kinh Pháp Cú, bài kệ 348, Đức Phật dạy, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:
348. “Bỏ quá, hiện, vị lai,
Đến bờ kia cuộc đời,
Ý giải thoát tất cả,
Chớ vướng lại sanh già.”
Tích truyện kể rằng, trong khi trú ngụ tại tu viện Jetavana, Đức Phật đã đọc bài Kệ 348 của Kinh Pháp Cú, liên quan đến Uggasena, con trai của một người đàn ông giàu có đã yêu thương một cô vũ công. Một lần, một đoàn kịch lưu động gồm năm trăm vũ công và một số diễn viên nhào lộn đã đến Rajagaha và biểu diễn trên khuôn viên cung điện của Vua Bimbisara trong bảy ngày. Ở đó, một nữ vũ công trẻ tuổi là con gái của một diễn viên nhào lộn đã hát và nhảy trên đỉnh một cây sào tre dài.
Chàng Uggasena, con trai của một người đàn ông giàu có, đã yêu cô vũ công này một cách tuyệt vọng và cha mẹ anh không thể ngăn cản anh kết hôn với cô. Chàng kết hôn với cô vũ công trẻ tuổi và đi theo đoàn kịch. Vì anh không phải là vũ công cũng không phải là diễn viên nhào lộn, nên anh không có nhiều ích lợi cho đoàn kịch. Vì vậy, khi đoàn kịch di chuyển từ nơi này sang nơi khác, anh phải giúp khiêng thùng, lái xe, v.v.
Với thời gian, một bé trai chào đời từ mối tình giữa Uggasena và vợ anh, cô vũ công. Đối với em bé này, cô vũ công thường hát bài hát như thế này: "Hỡi con trai của người đàn ông trông giữ xe ngựa; người đàn ông khiêng thùng và gói đồ đạc! Ôi, con trai của người vụng về không thể làm gì cả!" Uggasena nghe bài hát; anh biết rằng vợ anh đang ám chỉ anh và anh rất đau khổ và chán nản. Vì vậy, anh đã đến gặp cha vợ, một diễn viên nhào lộn, và xin ông dạy anh nhào lộn. Sau một năm đào tạo, Uggasena đã trở thành một diễn viên nhào lộn khéo léo.
Sau đó, Uggasena trở về Rajagaha, và người ta tuyên bố rằng Uggasena sẽ công khai biểu diễn kỹ năng của mình trong bảy ngày. Vào ngày thứ bảy, một cây sào dài được dựng lên và Uggasena đứng trên đỉnh. Theo một tín hiệu được đưa ra từ bên dưới, anh lộn nhào bảy lần trên cây sào. Vào khoảng thời gian này, Đức Phật nhìn thấy Uggasena trong tầm nhìn của mình và biết rằng thời điểm đã chín muồi để Uggasena đạt được quả vị A-la-hán. Vì vậy, ngài vào Rajagaha và mong muốn khán giả hướng sự chú ý của họ vào ngài thay vì vỗ tay cho Uggasena. Khi Uggasena thấy rằng mình bị bỏ rơi và không được ai chú ý, chàng chỉ ngồi trên đỉnh cột, cảm thấy rất bất mãn và chán nản. Sau đó, Đức Phật nói với Uggasena, "Uggasena, một người trí tuệ nên từ bỏ mọi sự dính mắc vào các uẩn và hãy ra sức để đạt được sự giải thoát khỏi vòng luân hồi."
Sau đó, Đức Phật nói bài kệ như sau.
Câu 348: Hãy buông bỏ quá khứ, buông bỏ tương lai, buông bỏ hiện tại. Khi đã đến sự kết thúc của các kiếp sống, với tâm được giải thoát khỏi vạn duyên, ngươi sẽ không còn phải sinh và già nữa.
Nghe xong, Uggasena, chàng vẫn còn ngồi trên đỉnh cột, liền chứng quả vị A-la-hán. Chàng đã xuống và sớm được Đức Phật chấp nhận vào Tăng đoàn.
Tại sao như thế? Đó là người đã thấy và nghe, trong khi không còn thấy mình dính vào bất kỳ những cái được thấy và những cái được nghe của ba thời.
Để làm cho dễ hiểu hơn, chúng ta có thể dẫn ra Kinh SA 288, bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ và Đức Thắng. Trích Kinh như sau:
“Tôn giả Xá-lợi-phất lại hỏi: Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, trước đây Hiền giả nói danh sắc chẳng phải tự tác, chẳng phải tha tác, chẳng phải tự và tha tác, chẳng phải chẳng tự và tha, vô nhân tác, nhưng danh sắc này duyên thức mà sanh ra. Bây giờ, lại nói danh sắc duyên thức, vậy nghĩa này là thế nào?
Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la đáp: Nay tôi sẽ nói thí dụ, nếu là người trí thì nhờ thí dụ sẽ hiểu được. Thí như ba cây lau được dựng lên nơi đất trống, nhờ nương tựa vào nhau mà có thể đứng vững; nếu lấy ra một cây thì hai cây kia cũng không đứng được; nếu lấy đi hai cây thì một cây cũng không đứng vững, vì chúng phải nương vào nhau mới có thể đứng được. Thức duyên danh sắc lại cũng như vậy, phải nương tựa lẫn nhau mới sanh trưởng được.”(ngưng trích)
Đơn giản nghĩa là, không hề dựng lập bất kỳ cây lau nào nữa, thì tìm đâu ra ba cây lau cho các pháp hiện tiền. Ba cây lau đó là căn, trần và thức. Không dựng lập bất kỳ cây lau nào hết, thì làm sao mà bị buộc nữa. Hãy mặc kệ tất cả những cái được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc và được tư lường.
Hãy nói câu nói của Bồ Đề Đạt Ma cuối buổi nói chuyện với Lương Vũ Đế. Bạn hãy liên tục nói, rằng “Không biết.” Thì tâm hồn của bạn sẽ trở thành một em bé thơ dại, thì tham sân si nào dựa vào đâu mà khởi dậy. Hãy thường trực thấy tâm mình trong trẻo và rỗng rang, như gương không dính ảnh. Thường trực như thế, là giải thoát, vì không còn tìm thấy cái gì để chấp là có ngã, hệt như tánh phản chiếu của gương luôn luôn là vô ngã. Đó cũng là thấy Phật, thấy Pháp.
THAM KHẢO
. The Dhammapada: Kệ và truyện 381 và 348:
https://www.tipitaka.net/tipitaka/dhp/index.php
. Kinh Pháp Cú, bản dịch Thầy Minh Châu:
https://thuvienhoasen.org/p15a7964/pham-21-26
. Kinh Kim Cang. Bản dịch Thầy Duy Lực:
https://thuvienhoasen.org/a1875/kinh-kim-cang-phan-3
. Kinh SA 288, bản dịch 2 Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng
https://suttacentral.net/sa288/vi/tue_sy-thang