TÁNH VÀ TƯỚNG TRONG DUY THỨC
Nguyễn Thế Đăng
Với Đại thừa, điều căn bản quyết định là sự phân biệt giữa tánh (bản tánh, bản thể, nature) và tướng (hiện tướng, hiện tượng, appearance, phénomène), cũng như với Phật giáo nguyên thủy là sự phân biệt giữa sanh tử và Niết bàn. Với Duy thức cũng thế, có sự phân biệt giữa bản tánh của tâm, tức là bản tánh của các thức, và các hiện tượng của tâm, tức là các thức.
1/ Nền tảng của các thức vốn thanh tịnh
Thức A lại da, tạng thức, là thức căn bản, nền tảng của tất cả các thức, các hiện tượng, được Kinh Nhập Lăng Già nói như sau:
“Đại Huệ! Tạng thức Như Lai tạng này bản tánh thanh tịnh, chỉ vì khách trần nhiễm ô mà hóa bất tịnh”.
(Phẩm Sát na, thứ 6)
Kinh Đại thừa Mật Nghiêm nói:
“Các nhân giả! Thức A lại da của chúng sanh xưa nay viên mãn, thanh tịnh, vượt khỏi thế gian và Niết bàn, như ánh trăng sáng hiện khắp các cõi nước, người đời thấy có khuyết tròn nhưng thể tánh của trăng vẫn chưa từng tăng giảm. Tạng thức cũng như vậy, hiện khắp trong cảnh giới của tất cả chúng sanh, tánh thường viên mãn thanh tịnh, không tăng không giảm. Như trăng ở trong mây mà tánh vẫn thường sáng tỏ, tạng thức cũng vậy, thức lưu chuyển trong cảnh giới tập khí nhưng vẫn thường thanh tịnh”.
(Kiến lập A lại da, thứ 6)
Thực hành Duy thức là xua tan những mây mù che phủ để trăng (tánh thanh tịnh của tạng thức) hiện ra. Sai lầm là bám chấp cho rằng những đám mây che mặt trăng là hoàn toàn có thực, trong khi chúng chỉ là những hiện tướng tạm thời do những nguyên nhân (nhân) và những điều kiện (duyên) tạm thời. Thực hành là giải trừ sự chấp thật vào những đám mây, để mặt trăng bản tánh của tạng thức viên mãn thanh tịnh, không tăng không giảm hiển lộ. Những đám mây là những hiện tướng của thức do nhân duyên tạm thời mà xuất hiện.
Thế giới con người do danh và tướng lập ra, rồi phân biệt trên danh tướng giả lập ấy để thành một thế giới cứng chắc và chia cắt, phân mảnh.
Kinh Nhập Lăng Già nói:
“Đại Huệ! Trong đó tướng là do thức con mắt thấy gọi đó là sắc; do thức tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà có thì gọi là thanh, hương, vị, xúc, pháp. Những cái như vậy ta nói là tướng.
Phân biệt là lập ra các danh để hiển thị các tướng, nghĩa là voi, ngựa, xe, đi bộ, nam nữ… các danh để hiển tướng của chúng. Tướng và danh được quyết định cho là không thể khác, đó gọi là phân biệt.
Chánh trí là quán thấy danh tướng hỗ tương làm khách, thức không khởi, chẳng đoạn chẳng thường. Đại bồ tát dùng chánh trí ấy quán sát danh tướng chẳng phải hữu chẳng phải vô, xa lìa tà kiến nhị biên có tăng có giảm. Danh tướng và thức vốn xưa nay không khởi, ta nói pháp ấy gọi là Như Như (Chân Như)”.
Tướng là do năm thức giác quan, ý thức, ý (tức là thức chấp ngã), và a lại da mà sanh khởi. Nói theo ngày nay tướng là do hệ thống thần kinh các giác quan và não bộ mà diễn dịch thành. Ngay trên trái đất này mỗi loài đều có thế giới riêng, cảnh giới riêng do não bộ và hệ thần kinh khác biệt, chớ chưa nói đến những loài khác trong vũ trụ, Trời, Rồng, Atula, chư Thiên…Sự diễn dịch do thức của mỗi loài thành thế giới riêng biệt của mỗi loài được Duy thức gọi là “thức biến”.
Để thoát khỏi thế giới thức biến như mộng huyễn này, phải từ bỏ các nhiễm ô phiền não để đưa tất cả trở về bản tánh của chúng là Chân Như. Điều này được gọi là “chuyển thức thành trí”
Sức mạnh để chuyển thức thành trí là Chỉ (Samatha), Quán (Vipashyana) và Chỉ - Quán đồng thời, như có nói trong phẩm Du Già thứ 6 của Kinh Giải Thâm Mật.
Tóm lại, thực hành Duy thức là chuyển các tướng về lại nền tảng bản tánh của chúng. Nền tảng bản tánh này các kinh đều gọi là pháp tánh, bản tánh của tất cả các pháp, bên trong (tâm) cũng như bên ngoài (cảnh). Kinh Giải Thâm Mật nói nhiều lần rằng bản tánh của tất cả các pháp là Niết bàn:
“Các pháp đều không có tự tánh, không sinh không diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết bàn”.
Thức nền tảng A lại da là thanh tịnh, cho nên tất cả các hiện tượng, các tướng (thức vì có xuất hiện nên cũng gọi là tướng) đều là tánh Không, nghĩa là thanh tịnh, tức là “tất cả các pháp xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết bàn”.
Chuyển tướng thành tánh là chuyển các tướng về lại tự tánh Niết bàn của chúng.
2/ Duy thức tông và Không tông
Ở đây cần hiểu Không tông không chỉ là Trung đạo tông của ngài Long Thọ, mà bao gồm toàn bộ kinh điển của hệ thống Đại Bát nhã, và Duy thức tông thì bao gồm toàn bộ kinh điển của hệ thống Duy thức.
Đạo Phật hiện thực vì khởi đi từ thế giới kinh nghiệm của con người: sáu giác quan (mắt tai mũi lưỡi thân ý), sáu thức (của sáu giác quan ấy), và sáu đối tượng của sáu giác quan (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
Duy thức tông thì khảo cứu các thức, để nhận biết thế giới là do các thức biến, nhưng có biến hóa đến đâu cũng là nhân duyên sanh, do các thức tương tác với nhau mà thành, nên vô tự tánh, nên là tánh Không. Bắt đầu với các thức là các tướng, để cuối cùng nói rằng bản tánh của thức nền tảng là A lại da vốn thanh tịnh, nên “tất cả các pháp, các tướng, đều là tánh Không, không sanh không diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết bàn”. Và bản tánh thức nền tảng A lại da thanh tịnh nên bản tánh của bảy thức hình thành trên nền tảng A lại da cũng thanh tịnh.
Không tông thì bắt đầu bằng khảo sát các hiện tượng, chủ yếu là những kinh nghiệm hàng ngày sắc thanh hương vị xúc pháp để thấy ra bản tánh của chúng là tánh Không vô tự tánh, rồi an trụ vào tánh Không ấy để thế giới sanh tử của các tướng giả hợp, vô tự tánh tiêu tan.
Cả hai tông đều tìm cách thoát khỏi tướng vốn không thật để lộ ra bản tánh, và bản tánh ấy là thanh tịnh, là Niết bàn. Như kinh Kim Cương nói, “Thấy tất cả tướng chẳng phải tướng, tức là thấy Như Lai”.
Mục tiêu của hai tông là thấy ra bản tánh của tất cả các tướng, của tất cả thức, là tánh Không thanh tịnh, là Niết bàn, là Chân Như.
Không tông tìm thấy tánh Không ở ngay các tướng sắc thanh hương vị xúc pháp, không phải phá trừ các tướng hay chờ chúng tiêu hoại rồi tánh Không mới hiển lộ. Như Kinh thường nói, “sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Duy thức tông cũng tìm Chân Như ở ngay nơi các thức nghĩa là nơi tất cả thế giới được kinh nghiệm bởi thức.
Kinh Giải Thâm Mật nói:
“Thiện Hiện! Như Lai đã nói cái thanh tịnh được biết trong tất cả năm uẩn chính là thắng nghĩa đế (chân lý tối hậu). Như Lai đã nói cái thanh tịnh được biết nơi tất cả xứ, mười hai duyên khởi, bốn cách ăn, bốn đế, mười tám giới, bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chánh đạo, chính là thắng nghĩa đế. Cái thanh tịnh được biết ấy, nơi và trong tất cả các uẩn là tướng một vị, không có tướng khác biệt. Như trong các uẩn, cũng như vậy, trong tất cả xứ, cho đến trong tất cả tám chánh đạo, đó là tướng một vị, không có tướng khác biệt. Thế nên, Thiện Hiện, do đạo lý này hãy biết thắng nghĩa đế là tướng một vị phổ biến khắp tất cả”.
Cái thanh tịnh được biết là thắng nghĩa đế, tức là bản tánh thanh tịnh của tất cả các thức, tất cả các uẩn, tất cả các xứ, tất cả các pháp.
Thắng nghĩa đế hay tánh Không, Chân Như, có thể tìm thấy trong tất cả sự vật, tất cả các pháp, nghĩa là tất cả các thức (“muôn pháp duy chỉ là thức”). Cái đó là “cái thanh tịnh được biết”, là cái “một vị” trong tất cả các tướng, tất cả các thức khác nhau và Chân Như ấy ở khắp tất cả.
Chân Như, tánh Không có thể tìm thấy trong một sự vật, một hiện tượng, một tướng, một thức.
“Lại nữa, Thiện Hiện! Khi các Tỳ kheo tu quán, thấu hiểu chân như thắng nghĩa vô ngã của một uẩn thì không cần tìm cầu chân như thắng nghĩa ấy nơi các uẩn, các xứ riêng biệt khác. Chỉ theo cái trí chân như thắng nghĩa bất nhị này mà an trụ, thẩm xét, chứng ngộ thắng nghĩa đế một vị phổ biến khắp tất cả.
Thế nên, Thiện Hiện! do đạo lý này, hãy biết thắng nghĩa đế là một vị phổ biến khắp tất cả”.
Rõ biết Chân Như, tánh Không của một sự vật, một tướng, một thức thì không cần tìm biết Chân Như, tánh Không ở các sự vật, các tướng khác. Vì khi rõ biết Chân Như, tánh Không của một sự vật, một tướng thì người ta biết Chân Như, tánh Không của tất cả mọi tướng, vì Chân Như, tánh Không là một vị phổ biến khắp tất cả.
“Thắng nghĩa đế một vị phổ biến khắp cả” là bản tánh Chân Như, tánh Không của tất cả các hiện tượng, các tướng. Thế nên chỉ cần thấu hiểu bản tánh của một sự vật, một tướng, một hiện tượng thì người ta có thể chứng ngộ bản tánh của mọi sự.
Duy thức tông nói, “ba cõi chỉ là duy tâm, muôn pháp (hiện tượng) duy chỉ là thức”. Muôn hiện tượng khác biệt nhau chỉ là sự khác biệt của các thức biến hiện. Thế nên khi biết tất cả các thức khác biệt đều cùng một bản tánh “thức A lại da thanh tịnh”, đều cùng là “thắng nghĩa đế một vị phổ biến khắp tất cả”, nghĩa là đưa các tướng thức trở lại bản tánh một vị của chúng, người ta chứng ngộ Chân Như, tánh Không chung cho tất cả các hiện tượng, các thức biến hiện ra cho các hiện tượng ấy.
Như vậy, đây là một lời dạy trực tiếp: ngay chỉ một hiện tượng, một thức của thế giới sanh tử, bằng Chỉ Quán và Chỉ Quán đồng thời, người ta có thể chứng ngộ bản tánh của tất cả hiện tượng, của tất cả các thức, của tất cả sanh tử. Bản tánh đó là Niết bàn, một vị không có khác biệt và phổ biến khắp tất cả.
Trong đời sống bình thường (hậu thiền định), khi một ý tưởng, một niệm khởi lên, bằng Chỉ Quán, người ta có thể thấy nguồn gốc, nền tảng của nó, bản tánh của nó là “thức A lại da của chúng sanh xưa nay viên mãn, thanh tịnh”, là tánh Không Chân Như một vị phổ biến khắp tất cả.
Trong một ý tưởng khởi lên, người ta có thể thấy ra bản tánh của nó chính là bản tánh của tâm, A lại da xưa nay viên mãn, thanh tịnh. Và vì ý tưởng khởi lên từ nền tảng A lại da vốn thanh tịnh nên không chỉ tánh nó thanh tịnh mà tướng nó cũng thanh tịnh.
Nói theo “cái Thấy, Thiền định, Hạnh, và Quả” của Phật giáo Ấn – Tạng, Không tông và Duy thức tông có cùng một Nền tảng là tánh Không, Chân Như, Niết bàn; Con đường là Chỉ Quán và Chỉ Quán song tu; và Quả là sự chứng ngộ hoàn toàn tánh Không, Chân Như Niết bàn. Không tông thì lấy thế giới như được con người kinh nghiệm làm điểm khởi hành. Còn Duy thức tông thì lấy thức tạo ra thế giới ấy làm điểm khởi hành, và cả hai đều trở về nguồn “thắng nghĩa đế một vị phổ biến khắp tất cả”.