
BỒ-TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VỊ PHÁP THIÊU THÂN
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, ngày 29-5-05
MỘT THIÊN THU TUYỆT TÁC
THÍCH PHƯỚC SƠN
Người
xưa nói: “Vật cùng tắc biến, biến tắc thông”. Điều
dó khẳng định một chân lý: Muôn vật trong vũ trụ luôn
luôn vận động theo một chiều hướng đào thải cái ác và
thăng hoa cái thiện.
Nhớ
lại cách đây 42 năm. tại miền Nam nước ta có một biến
cố lịch sử đáng chú ý. Đó là vào năm 1963, Chính phủ
Ngô Đình Diệm đã đang tâm vi phạm nhân quyền, chà đạp
tự do, đàn áp tôn giáo, ngang nhiên ra lệnh triệt hạ cờ
Phật giáo ngay trong dịp đại lễ Phật đản Phật lịch 2507.
Trước hành vi bất chấp luật pháp, coi thường đạo lý của
một chế độ thất nhân tâm, khiến từng từng lớp lớp
Phật tử vô cùng phẫn nộ đồng lòng đứng lên đòi lại
quyền sống, quyền tự do tôn giáo. Tuy tình hình sôi động
như vậy, nhưng các nhà lãnh đạo Phật giáo vẫn giữ thái
độ ôn hòa, kêu gọi Phật tử bình tĩnh, đứng ra tiếp xúc
với chính quyền, yêu cầu chính phủ rút lại lệnh hạ cờ
Phật giáo, tôn trọng tự do tín ngưỡng. Vì tự do tín ngưỡng
là một trong những quyền làm người mà Hiến pháp lúc bấy
giờ đã quy định và công pháp Quốc tế cũng minh nhiên thừa
nhận. Thế nhưng, Chính quyền lúc ấy vẫn ngoan cố, một
mặt tìm kế hoãn binh, mặt khác quyết tâm tiến hành kế
hoạch triệt hạ Phật giáo cho kỳ được. Như một giọt
nước làm tràn ly nước, không còn cách nào khác, Tăng Ni Phật
tử cả nước đã đồng lòng tổ chức các cuộc biểu tình,
bày tỏ nguyện vọng, đòi lại quyền sống, quyền tự do
tôn giáo. Không những giới trẻ nhiệt liệt hưởng ứng,
mà ngay cả các bậc trưởng lão Hòa Thượng 8,9 mươi tuổi
cũng chống tích trượng xuống đường, hòa mình cùng dòng
chảy của những người con Phật, với một tinh thần vô uý
và kiên cường. Cảm động trước mối ưu tư cho sự tồn
vong của Đạo pháp mà các bậc trưởng lão đã thể hiện,
Hòa Thượng Thích Quảng Đức quyết định dấn thân vào công
cuộc đấu tranh bảo vệ đạo pháp, phát nguyện đem thân
huyễn hóa làm ngọn đuốc soi đường, thức tỉnh lương tâm
của nhà cầm quyền và đánh thức lương tri của nhân loại.
Thế là, ngọn đuốc đại hùng, đại lực của Bồ-tát được
thắp lên tại ngả tư đường Phan Đình Phùng và Lê văn Duyệt
vào ngày 11, tháng 6, năm 1963. Từ đây, các phương tiện truyền
thanh, truyền hình đưa tin đi khắp nước, rồi lan khắp năm
châu. Hình ảnh Bồ-tát ngồi bất động trong ngọn lửa thiêng,
thực sự làm chấn động muôn triệu con tim của nhân loại.
Vì vậy, không những Phật tử trên khắp thế giới đồng
lòng chia xẻ nỗi khổ đau của Phật tử Việt Nam đang gặp
cơn Pháp nạn, mà các chính khách quốc tế, các nhà tranh đấu
cho nhân quyền, các giới trí thức, nói chung là mọi người
có lương tri trên toàn thế giới đều đồng thanh lên tiếng
ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của Phật giáo Việt
Nam. Điều kỳ diệu hơn nữa là khi nhục thân của Bồ-tát
được đem đi hỏa thiêu, thì trái tim đã trở thành bất
diệt, không có bất cứ một thứ lửa nào có thể đốt cháy
dù đã thiêu đi thiêu lại nhiều lần. Chứng kiến trước
sự kiện hi hữu ấy, thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã cảm tác
một bài thơ ca ngợi:
Chỗ
người ngồi: một thiên thu tuyệt tác,
Trong
vô hình sáng chói nét từ bi.
Rồi
đây, rồi mai sau, còn chi?
Ngọc
đá cũng thành tro, lụa tre dần mục nát,
Với
thời gian lê vết máu qua đi.
Còn
mãi chứ ! Còn trái tim Bồ-tát,
Gội
hào quang xuống tận ngục A-tỳ.
Vì
lẽ, quả tim đó không phải là loại nhục thể bình thường
mà là kết tinh của đại hùng đại lực, là biểu tượng
của tinh thần vô uý bất khuất, khẳng định chân lý cái
thiện thắng cái ác, từ bi xóa bỏ hận thù.
Qua sự kiện ấy, một vị giảng sư lúc bấy giờ đã diễn tả:
Lửa,
lửa cháy hết y phục,
Thiêu
đốt tất cả thịt xương,
Nhưng
có một cái không cháy.
Đó
là quả tim.
Vì
quả tim là tượng trưng cho tình thương,
Lấy
tình thương phủ lên sắt máu.
[ Thích Giác Đức ]
Đúng
như vậy, theo tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật, các
Phật tử luôn luôn chủ trương dùng tình thương để hóa
giải hận thù theo lời Phật dạy:
Từ
bi diệt hận thù,
Là
định luật nghìn thu.
Hơn
nữa, người Phật tử cũng ý thức rất rõ kẻ thù đích
thực của con người là ba độc tham, sân, si. Chính ba độc
này thường gây ra biết bao tai họa mà ít ai nhận diện được
chúng. Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng không ra ngoài công
lệ ấy, vì thế ông đã phải trả giá cho tham vọng bất
chính trong âm mưu đàn áp Phật giáo để tôn vinh tôn giáo
của mình. Bởi lẽ, phủ nhận sự tồn tại này để thăng
hoa sự tồn tại khác, tiêu diệt sự sống này để phát triển
sự sống khác là một điều nghịch lý, trái với quy luật
tự nhiên và đi ngược lại truyền thống đạo lý của dân
tộc. Truyền thống của dân tộc ta là quí trọng sự sống
của mình và tôn trọng sự sống của kẻ khác, nói chung là:
sống và để mọi người cùng sống. Vì đời sống của cá
nhân liên hệ mật thiết với đời sống của tập thể; đời
sống của tập thể tương quan khắng khít với đời sống
của cộng đồng và đời sống của cộng đồng bao hàm trọn
vẹn trong đời sống của toàn thể nhân loại. Theo quy luật
đó, nhìn lại thực trạng Phật giáo của nước ta, một nhà
trí thức đã viết:
Nhớ
nước Việt ta xưa,
Từ
Đinh, Lý, Trần, Lê,
Nền
Đạo thống đã vang lừng rạng rỡ.
Trải
bao thế cuộc đổi thay,
Dù
cường bạo cũng khó thủ tiêu nền Chánh pháp.
[Nguyên Hồng]
Thật
thế, Phật giáo Việt Nam đã đồng hành với dân tộc gần
2000 năm lịch sử, trải qua bao cuộc biến thiên, từng gặp
biết bao thăng trầm vinh nhục; dù có lúc Phật giáo phải
chịu đựng những thử thách khắc nghiệt, nhưng chung cục,
đều vượt qua trở ngại, khắc phục ma chướng, phục hồi
sinh lực để vươn lên, và chu toàn sứ mệnh cưu khổ chúng
sinh.
Chính
quyền Ngô Đình Diệm đã không học được bài học lịch
sử, tưởng có thể dùng sức mạnh xe tăng đại bát bắt
hàng giáo phẩm Phật giáo – những người không có một tấc
sắt trong tay – phải khuất phục trước tham vọng đen tối
của mình. Thế nhưng, ông đã lầm, rốt cuộc gậy ông đã
đập lưng ông: Không phải giới Phật giáo mà chính là các
Tướng lãnh đã đứng lên lật đổ chế độ độc tài gia
đình trị phản lại quyền lợi của nhân dân. Tại sao họ
làm như vậy? Đó là mệnh lệnh của lương tâm, chính mệnh
lệnh ấy đã kêu gọi họ đứng về phía lẽ phải,
bênh vực những người bị áp bức, đòi lại sự công bằng.
Do vậy ta có thể nói, sự chiến thắng của cuộc cách mạng
năm 63 chính là sự chiến thắng của công lý trước bạo
lực, mà quả tim bất diệt của Bồ-tát là một lời hiệu
triệu hùng hồn, đầy uy lực, kết hợp những tâm hồn đồng
cảm, tạo nên một sức mạnh phi thường. Điều này cũng
khẳng định một chân lý khác nữa là vũ khí tinh thần có
một sức mạnh vô địch mà không có bất cứ một loại vũ
khí vật chất nào sánh kịp. Vì đó là một loại vũ khí
thiêng liêng, như vị thức giả vừa dẫn ở trên đã đúc
kết:
Tinh
thần ấy thiêng liêng bất diệt,
Quyển
vàng giáo sử ghi danh.
Công
đức kia truyền lại nghìn sau,
Đạo
hạnh nêu gương chói lọi.
[Nguyên
Hồng]