NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NHÂN HỌC VĂN HÓA
Thích Thanh Tâm
Như một cách lựa chọn để hiểu về sự đa dạng hình thái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XXI, bài viết này đề xuất một mô hình đã được sử dụng bởi các nhà sử học và nhà nhân học văn hóa, mô hình các cộng đồng văn hóa.[1]
Có ba kiểu loại về các cộng đồng văn hóa Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn này. Đó là (1) các cộng đồng tập trung vào giảng dạy dựa trên cơ sở các trường phái tư tưởng Phật giáo đặc thù, chẳng hạn như Thiền – Tịnh – Mật; (2) các cộng đồng tập trung vào vị Đạo sư, các phong trào Phật giáo kiểu môn phái tập trung vào sự hướng dẫn tâm linh của một Tăng sĩ hoặc vị thầy cư sĩ, những người thường tạo ra các tác phẩm và các tài liệu đa phương tiện của họ; (3) và một cộng đồng văn hóa ấn tống miễn phí, tham gia vào việc sáng tác, in ấn và phân phối nhiều loại văn bản Phật giáo và các tài liệu đa phương tiện về các chủ đề Phật giáo khác nhau, được trao đổi và thảo luận tại các địa điểm chùa hay tu viện Phật giáo được nhà nước công nhận.[2]
1. Khái niệm Nhân học văn hóa
Nhân học là “khoa học nghiên cứu về con người và các khía cạnh văn hóa, xã hội, sinh học và môi trường của cuộc sống trong quá khứ và hiện tại.”[3] Cho nên, Nhân học văn hóa là một trong bốn lĩnh vực nghiên cứu thuộc lĩnh vực nhân học rộng lớn hơn (khảo cổ học, nhân học vật lý hoặc sinh học, và ngôn ngữ học là ba lĩnh vực còn lại). Các nhà nhân học văn hóa chuyên nghiên cứu về văn hóa và tín ngưỡng, tập quán của các dân tộc cũng như tổ chức xã hội và nhận thức của các nhóm người. Các nhà nhân học văn hóa nghiên cứu cách những người có chung một hệ thống văn hóa tổ chức và định hình thế giới vật chất và xã hội xung quanh họ, và lần lượt được định hình bởi những ý tưởng, hành vi và môi trường vật chất đó.
Ở đậy, Nhân học văn hóa được đánh dấu bằng chính khái niệm văn hóa. Trong khi nhiều định nghĩa về “văn hóa” đã được đưa ra và thảo luận trong các tài liệu học thuật trong 100 năm, thì một định nghĩa đơn giản nhưng đầy đủ về văn hóa là “kiến thức mà mọi người sử dụng để sống cuộc sống của họ và cách họ làm như vậy;” và là “một hệ thống các hành vi (bao gồm kinh tế, tôn giáo và xã hội), niềm tin (giá trị, hệ tư tưởng) và các sắp xếp xã hội.”[4]
Bên cạnh đó, Nhân học văn hóa, đôi khi còn được gọi là nhân học xã hội-văn hóa, nhân học xã hội, hay dân tộc học. Khi các nhà nhân học không thể dùng yếu tố sinh học hay chủng tộc để giải thích tại sao mọi người trên thế giới không nói cùng một ngôn ngữ, không cầu nguyện cùng một thần, họ biết rằng phải có một cái gì khác tạo nên những sự khác biệt này. Đó là văn hóa, tập hợp những hành vi và quan niệm mà con người học hỏi được với tư cách là thành viên của xã hội. Vì con người khắp mọi nơi dùng văn hóa để thích ứng với thế giới họ đang sống và biến đổi nó, phạm vi của nhân học văn hóa rất là rộng.[5]
Các nhà nhân học văn hóa có khuynh hướng chuyên nghiên cứu một lãnh vực nào đó trong hoạt động văn hóa của con người. Có người nghiên cứu cách xã hội tổ chức thực hiện công việc tập thể trong các lãnh vực hoạt động như kinh tế, chính trị, tinh thần, v.v.... Lãnh vực nghiên cứu này của nhân học văn hóa rất gần với xã hội học và chính từ đây mà người ta xem nhân học là một ngành khoa học xã hội. Sự thật là xã hội học và nhân học đã được phát triển trong cùng một thời kỳ và có những vấn dề quan tâm giống nhau về tổ chức xã hội.[6]
Một yếu tố quan trọng đã phân biệt nhân học với xã hội học là sự quan tâm của nhân học đối với việc so sánh các hình thức khác nhau của đời sống xã hội loài người. Các nhà nhân học văn hóa đã tìm hiểu các dạng thức đời sống vật chất tìm thấy trong nhiều nhóm cư dân khác nhau. Họ nghiên cứu đối chiếu về ngôn ngữ, âm nhạc, múa, nghệ thuật, thi ca, triết lý, tôn giáo, hay lễ nghi có nhiều mối quan tâm học thuật giống với các chuyên gia trong các ngành mỹ thuật và khoa học nhân văn.
2. Ba cộng đồng văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện nay
2.1 Các cộng đồng chú trọng vào giảng dạy
Các chùa, tu viện, thiền viện tổ chức khóa tu Bát quan trai hàng tháng dành cho mọi lứa tuổi; tổ chức khóa tu mùa hè, khóa tu sinh viên hằng năm, thường kéo dài một ngày hay một tuần cho những người thích tìm hiểu về triết lý Thiền – Tịnh và trải nghiệm giáo lý vào cuộc sống thường nhật. Đây là một phần của cộng đồng văn hóa tập trung vào giảng dạy: chia sẻ kiến thức về giáo lý trong Kinh điển, diễn giải giáo lý thiền – tịnh của các vị giáo thọ và các bài luận giải về giáo lý trong các ấn phẩm định kỳ. Hầu hết họ đã mua hầu hết các tài liệu để đọc ở các hiệu sách thương mại hoặc thư quán trong chùa; đôi khi cũng nhận được các tài liệu trực tuyến miễn phí khác hay trực tiếp tại các chùa và tu viện.
Ngoài việc tham gia các khóa tu hàng tháng hay các khóa tu mùa hè hàng năm, các Phật tử hay những người tu học tham gia vào cộng đồng chú trọng về sự giảng dạy, đôi khi tụ tập thành các nhóm nhỏ để thảo luận về nội dung của các tài liệu mà họ đã đọc, và thực hành Thiền - Tịnh cùng nhau trong các nhóm sinh viên ở các trường Đại học, ở trong một số ít các trung tâm Thiền – Tịnh hoặc là một phần của các nhóm tu tập nhỏ được tổ chức ở nhà hoặc trong các căn hộ cho thuê ở khu vực thành thị.
Trong khi chia sẻ các bài đọc và thực hành, thành viên cộng đồng này hiếm khi đọc hết các tác phẩm của một bậc thầy cụ thể theo phương cách cộng đồng văn hóa lấy vị Đạo sư làm trung tâm. Họ cũng tiếp xúc với hàng loạt các tài liệu in về chủ đề Phật giáo tập trung vào việc thực hành pháp môn Thiền - Tịnh, những lời hướng dẫn nghi lễ, v.v. Nội dung các tài liệu mà cộng đồng văn hóa này đọc và thảo luận thường tập trung vào việc tự cải thiện nếp sống tinh thần nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Những người tham gia cộng đồng này ít giống những người trong hai cộng đồng văn hóa khác, coi mình là một phần của phong trào tôn giáo tập thể. Tuy nhiên, trong số ba cộng đồng đó, cộng đồng văn hóa tập trung vào giảng dạy này là cộng đồng kết nối chặt chẽ nhất với các Tăng sĩ của các ngôi chùa. Nói chung, họ cũng muốn truyền bá tất cả các pháp môn của Phật giáo cho mọi người, cho giới trẻ, một thế hệ đông đảo và được giáo dục tốt.
2.2 Các cộng đồng tập trung vào vị Đạo sư
Những người tham gia vào các cộng đồng này trung chủ yếu vào vị Giáo thọ, thường thường là tu sĩ nhưng đôi khi cũng là cư sĩ. Những thành viên của các cộng đồng này thường chỉ đọc những giáo lý mà được Thầy cho phép, thường là những bài giảng do chính các thầy giáo thọ viết, cả ở dạng in hoặc trực tuyến.
Các cộng đồng tập trung vào vị Thầy có hai kiểu. Đầu tiên và phổ biến nhất là nhóm “ảo”, là các Thầy giáo thọ và học trò không bao giờ hoặc hiếm khi gặp nhau trực tiếp. Nhiều trong số những vị đạo sư cư trú ở Tây Tạng, Đài Loan, Mỹ, hoặc cộng đồng Phật giáo khắp nơi trên thế giới hoặc trong nước nhưng vẫn giữ vai trò Đạo sư đối với Phật tử Việt Nam. Vào lúc đầu, một số người học trò gặp Thầy mình dạy trên mạng. Cuối cùng, phải đi du lịch rất xa để gặp gỡ những người Thầy này và học hỏi trực tiếp từ họ. Nhiều trang web của các vị đạo sư được thiết kế để nhận sự cúng dường, và các học viên đôi khi cạnh tranh với nhau để xem ai có thể cung cấp thời gian và tiền bạc nhiều nhất cho các vị đạo sư. Nói chung, những người tham gia vào các cộng đồng văn hóa lấy đạo sư làm trung tâm không liên kết được với các nhóm có trụ sở tại các ngôi chùa, hoặc, ban đầu gặp nhau tại những ngôi chùa, sau nhanh chóng nhóm họp ở nơi khác, thường là nhà riêng hoặc nơi được chỉ định cụ thể, hay địa điểm cho thuê.[7]
Kiểu thứ hai của cộng đồng văn hóa lấy đạo sư làm trung tâm, chủ yếu liên quan đến mối quan hệ cá nhân, trực diện giữa vị đạo sư và học trò. Khi cả hai kiểu thường được kết nối với các vị đạo sư tại các chùa có địa chỉ rõ ràng; trong đó, kiểu thứ hai này, các vị đạo sư chủ yếu hoặc chỉ tương tác với các đệ tử tại các địa điểm rõ ràng chứ không phải trong một bối cảnh ảo.
2.3 Cộng đồng ấn tống, phân phối kinh sách miễn phí
Kiểu cộng đồng văn hóa thứ ba này có số lượng người tham gia lớn hơn và phổ biến hơn hai kiểu loại kia. Nó được tạo nên từ việc sáng tác, sao chép và phân phối miễn phí các ấn phẩm và tài liệu đa phương tiện về chủ đề Phật giáo. Trong khi một số tài liệu mà cộng đồng văn hóa này tiếp nhận trực tiếp từ các nhà xuất bản, hoặc các cơ sở ở nước ngoài, phần lớn được xuất bản hoặc tái bản thông qua những nỗ lực cá nhân hoặc những nhóm nhỏ của những người cọng tu. Nói chung, các thành viên trong cộng đồng văn hóa này được thúc đẩy tham gia sáng tác, tái bản và phân phối miễn phí các tài liệu; bởi vì, ngoài việc có công đức rất lớn, họ tin rằng việc tham gia vào các hoạt động này là một phần quan trọng rèn luyện thành người có đạo đức.
Nội dung của các tài liệu mà các thành viên trong cộng đồng phân phối tự do ấn tống rất đa dạng: một số là sách hướng dẫn thực hành nghi lễ chuẩn mực hoặc các quy ước thiền môn; những tài liệu khác gồm các bài hát được sáng tác từ sách đạo đức hoặc kinh điển Phật giáo cùng với các bản chú giải về ý nghĩa. Các loại tài liệu khác bao gồm những giới thiệu về giáo lý Phật giáo và tiểu sử các bậc cao Tăng danh tiếng hoặc các cư sĩ mộ đạo trong quá khứ cũng như thời hiện đại.
3. Nguyên lý trao đổi và tính phân cấp trong các cộng đồng văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện nay
3.1 Nguyên lý trao đổi trong các cộng đồng văn hóa
Nói chung, các thành viên trong ba loại cộng đồng văn hóa này tham gia vào các hình thức trao đổi khác nhau là bắt nguồn từ các suy xét đạo đức trái chiều về cách thức tôn giáo cho và nhận những điều thiện và những loại quan hệ nào đó; nếu có, những trao đổi này sẽ hình thành giữa các bên có liên quan.
Hầu hết những người tham gia vào cộng đồng thứ nhất thường chấp nhận rằng, việc trả phí cho các tài liệu tôn giáo là hợp lý. Đối với họ, nó giữ vững lý do, nếu những người khác dành thời gian và các nguồn lực để tạo ra một cuốn sách hay DVD sâu sắc, người mà có được lợi ích lấy từ những kiến giải của cuốn sách đó sẽ trả tiền giống như người ta sẽ trả cho bất kỳ thứ gì khác có giá trị. Về mặt này, chúng tương tự như các hành giả, người sẵn sàng mua các ấn phẩm định kỳ Phật giáo và sách chủ đề Phật giáo, được xuất bản bởi các nhà xuất bản thương mại. Như vậy, với hình thức trao đổi dựa trên hàng hóa, mối quan hệ giữa người tiêu thụ sách và người mua phần lớn không hình thành mối quan hệ xã hội giữa người tạo ra và người thọ nhận.[8]
Các cộng đồng văn hóa thứ hai, hầu như tập trung chủ yếu không chỉ xung quanh việc trao đổi dựa trên thương phẩm mà còn là sự trao đổi hỗ tương.[9] Khi tham gia vào mối quan hệ với những bậc thầy, các tín đồ không bắt buộc phải mua bất cứ thứ gì, nhưng họ được kỳ vọng cúng dường cho vị Pháp sư và các dự án tâm linh để nuôi dưỡng ân huệ của các bậc đạo sư. Kiểu cách cúng dường này là hiển nhiên nhất với các bậc thầy “ảo,” một số vị công khai kêu gọi sự quyên góp trên trang web, nhưng nó cũng hiện hữu ở các hòm công đức cùng với các bàn công đức bên ngoài lối vào Hội trường chính trước buổi diễn thuyết hàng tuần của vị giảng sư để nhận quà và tiền mặt từ các học trò, hoặc chuyển khoản. Nói chung, càng gần gũi với vị đạo sư, mối quan hệ trao đổi quà tặng càng mãnh liệt.[10]
Loại cộng đồng văn hóa thứ ba, đề cao sự trao đổi miễn phí trong môi trường tôn giáo, là một hệ thống trao đổi qua lại trong tôn giáo. Ở đây tôi thảo luận về việc phát tâm công đức, những món quà cúng dường, không giống như trao đổi quà tặng qua lại, trong trao đổi phẩm vật mang tính tôn giáo, không có mối quan hệ nào được hình thành giữa người hiến cúng và người nhận; điều đó bắt buộc phải trả lại một món quà dưới bất kỳ hình thức nào. Như vậy, điều quan trọng là người nhận không được gửi trả lại người hiến cũng vì mục đích của người cúng là sẽ nhận một món quà trao lại dưới hình thức công đức để sám hối tội lỗi. Cũng như thế, không giống như người nhận trong hệ thống trao đổi hiến tặng có đi có lại, nhằm mục đích hình thành các mối quan hệ xã hội thông qua trao đổi; những người quyên tặng ấn phẩm chủ đề Phật giáo nhằm thúc đẩy cộng đồng văn hóa này không tìm cách thiết lập mối quan hệ xã hội với người nhận, mà chỉ để có được công đức và thực hiện vai trò xã hội đúng đắn về mặt đạo đức, bằng cách tự nguyện hiến tặng tư liệu của họ.
Họ tin rằng những người nhận các tài liệu đó cũng sẽ có được công đức, vì họ có thể tiến bộ về mặt tâm linh bằng cách đọc hoặc xem các tài liệu Phật giáo, và cũng tác động đến những hành động tốt của họ. Quả thực, đó là hành động tốt được thực hiện bởi những người nhận các phương tiện khiến việc tham gia vào sự phân phối trở thành hành động công đức cho những người hiến cúng. Hành động hiến tặng đã tạo nên một lượng công đức tương đương cho cả hai bên.
3.2 Tính phân cấp trong các cộng đồng văn hóa
Chắc chắn, nhân tố nổi bật nhất để phân biệt sự tham gia trong các cộng đồng văn hóa khác nhau này là tầng lớp xã hội. Có hai thành tố liên kết chặt chẽ với nhân tố này: (1) tiếp cận, (2) đạo đức trao đổi.
1. Tiếp cận. Nhân tố chính trị và kinh tế đều hạn chế sự tiếp cận của các thành viên mà bị thiệt thòi về mặt xã hội và kinh tế, đối với một số loại ấn phẩm tôn giáo và các buổi diễn giảng xung quanh họ. Sự quan tâm của nhà nước trong việc mở cửa các khối thị trường kinh tế đã tạo ra không gian cho tôn giáo; nhưng không phải ai cũng có quyền tiếp cận thị trường như nhau, nên khả năng mở cửa thị trường không dẫn đến việc tạo ra quyền tiếp cận bình đẳng các buổi giảng pháp cho hết thảy mọi người. Nói chung, các thành viên tiềm lực kinh tế càng kém, càng nhiều hạn chế chính trị thì trong việc thực hành tôn giáo sẽ hạn chế khả năng tiếp cận các loại ấn phẩm tôn giáo được chia sẻ và thảo luận trong hai loại cộng đồng văn hóa Phật giáo đầu tiên. Như đã chỉ ra, các cộng đồng văn hóa tập trung vào việc giảng dạy giáo pháp thường tạo thành các bài diễn giảng thông qua chia sẻ việc đọc các tác phẩm mà phải mua tại các của hiệu sách. Các thành viên phương tiện kinh tế kém hơn, chẳng hạn, những người tham gia vào cộng đồng văn hóa phân phối miễn phí, thường không thể có đủ điều kiện để mua các tác phẩm đó.
Tương tự như vậy, một trong những lĩnh vực thuyết giảng tôn giáo ít bị kiểm soát nhất hiện nay là trực tuyến. Những người tham gia vào cộng đồng văn hóa ấn tống miễn phí cũng thường thiếu cả kinh phí và bí quyết để tiếp cận các tài liệu trực tuyến này. Các cộng đồng dựa trên nền tảng các vị Đạo sư, có địa điểm cụ thể, cũng tương đối khó tiếp cận với số thành viên học trò nghèo này. Những tín đồ ít may mắn của các bậc thầy cũng không thường xuyên đến trung tâm tu học vì rất nhiều hoạt động mà trung tâm tổ chức đòi hỏi đóng phí. Tóm lại, khi các không gian tôn giáo ngày nay đang tiếp tục mở ra ở cả không gian vật lý và trực tuyến, cách xa các địa điểm tôn giáo được cho phép, những thành viên đồng tu kém kinh tế khó tiếp cận được các không gian tôn giáo mới này, và các cộng đồng văn hóa mà có các buổi thuyết giảng được tổ chức ở trong các không gian mới thường bị giới hạn. Vì lý do này, những thành viên như thế bị cuốn hút vào cộng đồng văn hóa ấn tống miễn phí, thường nhóm họp tại các địa điểm tôn giáo được nhà nước phê duyệt.
2. Đạo đức trao đổi. Nhiều người trong cộng đồng phân phối miễn phí giải thích, nhân tố quan trọng cuốn hút họ đến với giáo lý Phật giáo, họ nhấn mạnh đến chủ nghĩa bình đẳng và tầm quan trọng từ bi rộng lớn. Với những thành viên này, nhiều người trong số họ có phương tiện kinh tế hạn chế nên không khó để hiểu được sự bất lực như thế nào để mua hàng hóa hoặc chi tiêu tiền mặt nhằm nuôi dưỡng các mối quan hệ. Như đã chỉ ra, nhu cầu về tiền bạc thường loại trừ các thành viên cọng tu kém kinh tế từ hai loại cộng đồng văn hóa đầu tiên. Ngược lại, cộng đồng văn hóa thứ ba, cộng đồng mà khuyến khích một cuộc thảo luận về tầm quan trọng của việc tặng miễn phí các ấn phẩm Phật giáo và tự do chia sẻ kiến thức và hiểu biết giữa các cư sĩ, thường có sức lôi cuốn nhất đối với nhóm kém thịnh vượng này. Truy cập miễn phí vào các tư liệu tôn giáo không chỉ cho phép các thành viên đồng tu yếu về kinh tế có thể thu thập tư liệu tôn giáo và sự hiểu biết, mà còn truyền bá đạo lý để trả khoảng tiền truy cập vào các tư liệu hoặc những giáo lý tiêu biểu cho việc tu sửa đạo đức bằng các nguyên lý Phật giáo chân chính. Thật vậy, những người tham gia vào cộng đồng văn hóa này thường nhấn mạnh, bất kỳ hình thức phân biệt đối xử nào cũng là bằng chứng của tâm phân biệt và sự thiếu hiểu biết về bản chất tương kết của tất cả chúng sinh. Khi các thành viên bị thiệt thòi về kinh tế tham gia vào một cộng đồng văn hóa, nơi những bài giảng của những người theo chủ nghĩa bình đẳng này được chia sẻ và củng cố, họ sẽ làm việc để bác bỏ ý kiến cho rằng chính bản thân họ không phù hợp và thay cho việc tìm lỗi với các giá trị của xã hội bao quanh. Trớ trêu thay, sự thiệt thòi chính trị mà hạn chế quyền truy cập vào các tài liệu tôn giáo ở các địa điểm tôn giáo được chấp thuận, những điều đó cũng khiến cho một cộng đồng trở nên rời rạc, lạc lõng, trong việc tập trung chia sẻ hàng loạt các ấn phẩm và những tư liệu đa phương tiện, nhưng càng gắn kết hơn bởi các thành viên có cùng chí hướng có thể nhóm họp ở những nơi tương đối riêng biệt. Đó là cách mà các cuộc thảo luận và thuyết giảng xuất hiện xung quanh các tài liệu này, trong đó, lần lượt, tạo ra nhiều thành phần và phổ biến hơn nữa.
Kết luận
Khi nghiên cứu thực tiễn Phật giáo Việt Nam đương đại dựa trên sự phân chia các cộng đồng văn hóa, cần lập biểu đồ những người thực hành Phật giáo ngày nay bằng cách nêu chi tiết các mối liên hệ và ranh giới rời rạc mà đã hình thành niềm tin và sự thực hành tôn giáo của họ. Nó làm sáng tỏ lý do tại sao một số hành giả Phật giáo, những người tu học tại các địa điểm tập trung vào vị Thầy, cảm thấy mối quan hệ tâm linh mạnh mẽ với một địa điểm Phật giáo cụ thể và với những người đồng tu ở đó; trong khi những người khác, không chia sẻ sự thực hành hoặc sự đồng nhất tôn giáo chung với đa số những người cùng tu khác, những người mà có thể thuộc các kiểu loại khác về cộng đồng văn hóa và thực hành các hình thức tôn giáo, giống như Phật giáo và không theo Phật giáo.
Ngược lại, cách tiếp cận cộng đồng văn hóa cũng tiết lộ lý do tại sao những người tham gia cộng đòng văn hóa thứ nhất có thể chia sẻ mối quan hệ tâm linh mạnh mẽ với nhau, trong khi hầu như không có sự kết hợp hay quan tâm với hầu hết các ngôi chùa Phật giáo khác. Cho nên, làm thế nào để một tôn giáo như Phật giáo có thể quan tâm đến các tín đồ từ nhiều gia cảnh kinh tế xã hội đa dạng, và trên thực tế, thành viên của các tầng lớp xã hội khác nhau đều có thể tự nhận mình là Phật tử và chấp nhận hoàn toàn mọi “phiên bản” khác nhau của Phật giáo. Tóm lại, cách tiếp cận cộng đồng văn hóa không cần chỉ giới hạn về những người thực hành tôn giáo đương đại mà còn có thể được áp dụng một cách hiệu quả vào phân tích lịch sử về những thực hành lấy cảm hứng từ Phật giáo ở các giai đoạn khác nhau của lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Trung Ẩn sơn, Thiệu Long tự, 10/2020
Tài liệu tham khảo
1. Blackburn, Anne M. 2001. Buddhist Learning and Textual Practice in Eighteenth-Century Lankan Monastic Culture. Princeton: Princeton University Press.
2. Fisher, Gareth. 2014. From Comrades to Bodhisattvas: Moral Dimensions of Lay Buddhist Practice in Contemporary China. Honolulu: University of Hawai`i Press.
3. Gregory, Chris A. 1982. Gifts and Commodities. London: Academic Press.
4. Handwerker, W. Penn. 2002. “The Construct Validity of Cultures: Cultural Diversity, Culture Theory, and a Method for Ethnography,” American Anthropologist 104 (1):106.
5. Jones, Alison Denton. 2010. “A Modern Religion? The State, the People, and the Remaking of Buddhism in Urban China Today.” PhD diss. Harvard University.
6. Laidlaw, James. 2000. “A Free Gift Makes No Friends,” Journal of the Royal Anthropological Institute 6, no. 4 [2000]: 617–34).
7. Mauss, Marcel. 2000. The Gift: The Form and Reason for Exchange in Archaic Societies. Trans. W. D. Halls. New York: Norton.
8. Parry, Jonathan. 1986. “The Gift, the Indian Gift, and the ‘Indian Gift,’ ” Man 21, no. 3 [1986]: 453–73.
9. Stock, Brian. 1983. The Implications of Literacy: Written Language and Models of Interpretation in the Eleventh and Twelfth Centuries. Princeton: Princeton University Press.
10. Schultz E.A. and R.H. Lavenda. Phan Ngọc Chiến dịch. 2001. Nhân học – Một quan điểm về tình trạng nhân sinh. Nxb. Chính trị Quốc gia.
11. Tylor, Edward Burnett. 1877. Primitive Culture 1. New York: Holt, Rinehart and Winston.
12. Yü, Dan Smyer. 2012. The Spread of Tibetan Buddhism in China: Charisma, Money,
Enlightenment. London: Routledge.
[1] Khái niệm về cộng đồng văn hóa bắt nguồn từ Brian Stock, người đã sử dụng để mô tả các nhóm mới xuất hiện xung quanh các cuộc thảo luận phê bình về văn hóa tôn giáo ở châu Âu thời trung cổ. (Stock, Brian. The Implications of Literacy: Written Language and Models of Interpretation in the Eleventh and Twelfth Centuries. Princeton: Princeton University Press, 1983.
[2] Không tính những người tham gia vào các hoạt động tôn giáo tại các ngôi chùa Phật giáo mà chỉ đơn thuần sử dụng không gian chùa để tham gia vào các hoạt động sùng kính đối với các vị Phật và Bồ tát cụ thể nhưng chưa áp dụng hoàn toàn và triệt để đối với Phật giáo như một giáo lý hướng dẫn cuộc sống.
[3] Handwerker, W. Penn, 2002 “The Construct Validity of Cultures: Cultural Diversity, Culture Theory, and a Method for Ethnography,” American Anthropologist 104 (1):106.
[4] Handwerker, W. Penn, 2002 “The Construct Validity of Cultures: Cultural Diversity, Culture Theory, and a Method for Ethnography,” American Anthropologist 104 (1):107.
[5] Xem thêm Tylor, Edward Burnett. Primitive Culture 1. New York: Holt, Rinehart and Winston, 1877.
[6] Xem thêm Schultz E.A. and R.H. Lavenda. Phan Ngọc Chiến dịch. Nhân học – Một quan điểm về tình trạng nhân sinh. Nxb. Chính trị Quốc gia, 2001.
[7] Xem thêm Yü, Dan Smyer. The Spread of Tibetan Buddhism in China: Charisma, Money, Enlightenment. London: Routledge, 2012.
[8] Gregory, Chris A. Gifts and Commodities. London: Academic Press, 1982, 100– 101. Ở đây và trong các thảo luận sau về sự trao đổi, tôi dựa nhiều vào sự diễn giải của Gregory về các lý thuyết của Marcel Mauss về những đặc trưng của trao đổi quà tặng, điều mà tạo nên sự khác biệt từ những trao đổi dựa trên nền tảng hàng hóa (Mauss, Marcel. The Gift: The Form and Reason for Exchange in Archaic Societies. Trans. W. D. Halls. New York: Norton, 2000). Những phân biệt mà Gregory nêu ra rất hữu ích cho những mục đích thảo luận của tôi ở đây. Tuy nhiên, tôi gộp vào cùng các học giả mà lập luận rằng, phạm trù trao đổi quà tặng của Mauss là rộng hơn Gregory giải thích ở trong tác phẩm trên rằng, nó cũng kết hợp phạm trù về những điều mà về sau tôi gọi là trao đổi quà tặng tôn giáo (xem Parry, Jonathan. “The Gift, the Indian Gift, and the ‘Indian Gift,’ ” Man 21, no. 3 [1986]: 453–73; Laidlaw, James. “A Free Gift Makes No Friends,” Journal of the Royal Anthropological Institute 6, no. 4 [2000]: 617–34).
[9] Tôi hiểu điều này có nghĩa là một cuộc trao đổi giữa hai bên có đi có lại, trong đó các vật phẩm trong cuộc trao đổi là không thể chuyển nhượng được từ nhà tài trợ, và trong đó mục đích chính của cuộc trao đổi là tạo ra một ràng buộc cá nhân có ý nghĩa giữa hai bên, như là trường hợp trao đổi dựa trên hàng hóa, hơn là việc mua lại hàng hóa hoặc dịch vụ cụ thể. Một lần nữa, tôi dựa vào cách giải thích của Gregory về sự phân biệt giữa quà tặng và trao đổi hàng hóa của Mauss. Tôi đã thêm thuật ngữ “có đi có lại” để phân biệt giữa loại hình trao đổi quà tặng mà tôi đang mô tả trong phần này và trao đổi quà tặng tôn giáo.
[10] Xem thêm Yü, Dan Smyer. The Spread of Tibetan Buddhism in China: Charisma, Money, Enlightenment. London: Routledge, 2012.