240. Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State

13/08/20234:16 SA(Xem: 1439)
240. Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State

 

blankBilingual:
240. Nolting: We encountering increasing difficulty

obtaining large-scale appropriations for mutual security
in light our domestic budgetary deficits and balance payments problems. /
Nolting: Chúng ta đang gặp khó khăn ngày càng tăng
trong việc đạt được các khoản phân bổ tài chính quy mô lớn cho an ninh chung
do thâm hụt ngân sách trong VN và các vấn đề về cán cân thanh toán.

 

us-embassy-saigon-vietnam_200-2
240. Telegram From the Embassy in Vietnam to the Department of State

 

Saigon, July 27, 1963, 8 p.m.

143. For Lodge from Nolting.

1. When I was in Washington, I had some discussion on economic aid levels for FY 1964. These conversations neither very definitive nor conclusive largely for lack time to go deeply into matter. Since my return Saigon, have reviewed five-year military plan prepared by MAAG connection 1965 MAP submission and economic projections prepared by USOM. In my view, most difficult economic-financial-political problem looms ahead here during next few years. Elements of problem are: meeting security objectives in face increasing belligerence part ChiComs, getting GVN come forward with necessary increased levels financing necessary prosecute war, avoidance dangerous inflation, planned reductions U.S. economic aid.

2. Last year U.S. provided $95 million for commercial import program; there was additionally available about $30ÿ0935 million from prior years’ funds (pipeline), making total $125 million approximately for licensing imports. Most recent messages from Washington indicate plans for $cS0 million or less this year with no prior years’ funds to add. This figure should not be frozen, I think, until all elements of equation have had careful consideration by you.

3. In summer 1961, U.S. and GVN undertook joint study which resulted in what is now referred to as Staley-Thuc report2 in context of conditions as they existed that time. From this study resulted mutual understanding and/or governmental agreement on force levels, exchange rates, appropriate levels of GVN exchange reserves, deficit financing of war expenditures, and need for other economic reforms on part GVN. Though their performance uneven with respect such matters as in deal [sic] tax collections, reduction unessential imports, etc., GVN have followed through on important parts undertakings including deficit financing for war activities, and exchange rate revisions. Furthermore, they have drawn down exchange reserves substantially below figure set in report. It is perhaps unfortunate that level of reserves only item quantified giving VN strong talking point whereas other measures connected austerity which do not have such benchmarks have not been pursued to our satisfaction.

4. We now facing changed set of conditions from those confronting us in 1961 when primary emphasis on war build-up. We now (in terms military planning) looking to termination active insurgency [Page 545]by end 1965, involving changes force levels thereafter with its own set political problems, peak military expenditures 1964, 1965 and high plateau continuing expenditures for economic development, expanded police, and essential military needs thereafter. We encountering increasing difficulty obtaining large-scale appropriations for mutual security in light our domestic budgetary deficits and balance payments problems. GVN image in U.S. has not improved-quite the contrary in recent months. Lack of forcefulness their part in imposing austerity, by decreasing unessential imports and increasing tax collections (there has been increase in tax collections, but not enough) and their lack of drive in promoting exports make case for more economic aid difficult. Nevertheless, even if they take all possible measures, the facts would argue for amounts substantially greater than those now being proposed. 

5. I therefore come to conclusion it in our interest to undertake a new study, preferably by same people (Staley and Thuc), in light of new conditions both here and in U.S. Otherwise we face series partial negotiations, some dealing with force levels and military expenditures, some with austerity and self-help measures, others with aid levels and local currency financing of war. And yet these all inter-related in fact and, equally as important, inter-related in a political and psychological sense. When Staley Mission first proposed in 1961, many skeptical as to this approach as substitute for normal bilateral negotiations. When completed, we all convinced results good especially since GVN recognized study as sincere joint effort get at facts and reach conclusions on basis those facts rather than as exercise in negotiation from preconceived position. This both tribute to Staley’s and Thuc’s handling of study and sine qua non for confidence and performance on part GVN. I would hope that a new study would lead not only to understandings on a broad front in specific and quantified terms but also agreement on specific measures to be taken during next few years. 

6. In light foregoing, I would suggest that before your departure, you might wish fully explore all aspects this thorny problem with Washington offices concerned, with view to— 

(a) Obtaining Department approval to proposal for new study and determine if and when Staley available three-four week study.

(b) Urging DOD reach early decision on military plan submitted by CINCPAC to JCS. This important element in any study to be made.

(c) Urging AID/W hold open question economic aid levels 1964 and be prepared accept major changes to 1965 submission which just going forward.

We believe GVN would welcome broad-scale review this type at this time.

Nolting

 

Source:

https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1961-63v03/d240

 

.... o ....

 

240. CÔNG ĐIỆN TỪ ĐẠI SỨ QUÁN HOA KỲ TẠI VN
GỬI BỘ NGOẠI GIAO HOA KỲ

 

Sài Gòn, 27 tháng 7, 1963, lúc 8 giờ tối.

 

143. Từ Đại sứ đương nhiệm Nolting gửi tới Lodge (Đại sứ sắp kế nhiệm)

1. Khi tôi (Nolting) ở Washington, tôi đã có một số cuộc thảo luận về các mức viện trợ kinh tế cho năm tài chính 1964. Những cuộc thảo luận này không dứt khoát và cũng không mang tính kết luận, phần lớn là do thiếu thời gian để đi sâu vào vấn đề. Kể từ khi tôi trở lại Sài Gòn, đã xem xét kế hoạch quân sự 5 năm do MAAG (Military Assistance Advisor Group) kết nối đệ trình MAP (Military Assistance Program) 1965 và các dự báo kinh tế do USOM (US Operations Mission) chuẩn bị. Theo tôi, vấn đề khó khăn nhất về kinh tế-tài chính-chính trị đang rình rập ở đây trong vài năm tới. Các yếu tố của vấn đề là: đáp ứng các mục tiêu an ninh khi đối mặt với sự hiếu chiến ngày càng tăng của một phần ChiComs (Chinese Communists: CS Trung Quốc), khiến Chính phủ Việt Nam tiến tới với mức tăng cần thiết tài trợ cho chiến tranh cần thiết, tránh lạm phát nguy hiểm, cắt giảm viện trợ kinh tế có kế hoạch của Hoa Kỳ.

2. Năm ngoái Hoa Kỳ đã cung cấp 95 triệu USD cho chương trình nhập cảng thương mại; Ngoài ra còn có khoảng $30ÿ0935 (người dịch: không hiểu rõ con số này) triệu đô la từ quỹ (nối dài) của những năm trước, tạo ra tổng số khoảng 125 triệu đô la cho việc cấp phép nhập cảng. Hầu hết các thông báo gần đây từ Washington cho biết các kế hoạch trị giá $cS0 (người dịch: không hiểu rõ con số này) triệu đô la trở xuống trong năm nay mà không cần bổ sung thêm tiền của các năm trước. Con số này không nên bị đóng băng, tôi nghĩ, cho đến khi tất cả các yếu tố của phương trình đã được bạn (Lodge) xem xét cẩn thận.

3. Vào mùa hè năm 1961, Hoa Kỳ và Chính phủ VNCH đã tiến hành nghiên cứu chung, dẫn đến cái mà ngày nay được gọi là báo cáo Staley-Thuc (cuộc nghiên cứu của 2 Giáo sư Eugene Staley và Vũ Quốc Thúc) trong bối cảnh các điều kiện tồn tại vào thời điểm đó. Từ nghiên cứu này đã dẫn đến sự hiểu biết lẫn nhau và/hoặc thỏa thuận của chính phủ về mức độ vũ lực, tỷ giá hối đoái, mức dự trữ ngoại hối hợp lý của Chính phủ Việt Nam, thâm hụt tài chính cho chi tiêu chiến tranh và nhu cầu cải cách kinh tế khác trên một phần Chính phủ Việt Nam. Mặc dù hiệu suất của họ không đồng đều đối với các vấn đề như thu thuế [sic] theo thỏa thuận, giảm nhập khẩu không cần thiết, v.v., Chính phủ Việt Nam đã thực hiện đến cùng các cam kết phần quan trọng bao gồm tài trợ thâm hụt cho các hoạt động chiến tranh và điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Hơn nữa, họ đã rút dự trữ ngoại hối xuống đáng kể dưới con số được nêu trong báo cáo. Có lẽ đáng tiếc là chỉ có mức dự trữ được định lượng mới mang lại cho VN điểm mạnh trong khi các biện pháp khác liên quan đến thắt lưng buộc bụng không có tiêu chuẩn như vậy đã không được chúng tôi theo đuổi thỏa mãn

4. Chúng ta hiện đang phải đối mặt với những điều kiện đã thay đổi so với những điều kiện đối đầu với chúng ta vào năm 1961 khi chủ yếu tập trung vào xây dựng chiến tranh. Bây giờ chúng ta (về kế hoạch quân sự) đang tìm cách chấm dứt hoạt động nổi dậy vào cuối năm 1965, liên quan đến những thay đổi về cấp độ lực lượng sau đó với các vấn đề chính trị do chính nó đặt ra, chi tiêu quân sự cao nhất năm 1964, 1965 và chi tiêu tiếp tục cao nguyên cho phát triển kinh tế, mở rộng cảnh sát, và các nhu cầu quân sự thiết yếu sau đó. Chúng ta gặp khó khăn ngày càng tăng trong việc đạt được các khoản phân bổ tài chính quy mô lớn để đảm bảo an ninh chung do thâm hụt ngân sách trong nước và các vấn đề về cán cân thanh toán. Hình ảnh của Chính phủ Việt Nam tại Hoa Kỳ không được cải thiện - hoàn toàn ngược lại trong những tháng gần đây. Vai trò của họ thiếu mạnh mẽ trong việc áp đặt thắt lưng buộc bụng, bằng cách giảm nhập cảng không cần thiết và tăng thu thuế (thu thuế đã tăng, nhưng không đủ) và việc họ thiếu động lực thúc đẩy xuất cảng khiến cho việc viện trợ kinh tế trở nên khó khăn hơn. Tuy nhiên, ngay cả khi họ thực hiện tất cả các biện pháp có thể, thì thực tế sẽ tranh luận về số lượng lớn hơn đáng kể so với những gì hiện đang được đề xuất

5. Do đó, tôi đi đến kết luận rằng vì lợi ích của chúng ta, chúng ta sẽ thực hiện một nghiên cứu mới, tốt nhất là của cùng những người (Staley và Thúc), trong bối cảnh các điều kiện mới cả ở đây và ở Hoa Kỳ về chi tiêu quân sự, một số với các biện pháp thắt lưng buộc bụng và tự lực, một số khác với các mức viện trợ và tài trợ nội tệ cho chiến tranh. Tuy nhiên, trên thực tế, tất cả những điều này đều liên quan đến nhau và, không kém phần quan trọng, liên quan đến nhau theo nghĩa chính trị và tâm lý. Khi Nhóm Nghiên Cứu Staley lần đầu tiên được đề xuất vào năm 1961, nhiều người hoài nghi về cách tiếp cận này để thay thế cho các cuộc đàm phán song phương thông thường. Khi hoàn thành, tất cả chúng ta đều thuyết phục được kết quả tốt, đặc biệt là vì Chính phủ Việt Nam đã công nhận nghiên cứunỗ lực chung chân thành tìm hiểu thực tế và đưa ra kết luận trên cơ sở những thực tế đó chứ không phải là một bài tập đàm phán từ vị trí định sẵn. Điều này vừa thể hiện sự tôn vinh đối với cách xử lý nghiên cứu của Staley và Thúc vừa là điều kiện tiên quyết đối với sự tự tin và hiệu suất trong vai trò của Chính phủ Việt Nam. Tôi hy vọng rằng một nghiên cứu mới sẽ không chỉ dẫn đến sự hiểu biết rộng rãi về các điều khoản cụ thể và định lượng mà còn dẫn đến sự thống nhất về các biện pháp cụ thể sẽ được thực hiện trong vài năm tới.

6. Theo những điều đã nói ở trên, tôi đề nghị rằng trước khi khởi hành [sang VN], bạn (Lodge) có thể muốn tìm hiểu đầy đủ tất cả các khía cạnh của vấn đề nhức nhối này với các văn phòng liên quan ở Washington, nhằm— 

(a) Nhận được sự chấp thuận của Bộ Ngoại Giao đối với đề xuất cho nghiên cứu mới và xác định liệu Staley có sẵn cho nghiên cứu ba bốn tuần hay không và khi nào. 

(b) Thúc giục DOD (Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ) sớm đưa ra quyết định về kế hoạch quân sự do CINCPAC (Tư lệnh Quân lực Hoa Kỳ vùng Thái Bình Dương) đệ trình lên JCS (Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Hoa Kỳ). Yếu tố quan trọng này trong bất kỳ nghiên cứu nào được thực hiện.

(c) Thúc giục AID/W (Viện trợ Phát triển) giữ nguyên câu hỏi mở về mức viện trợ kinh tế năm 1964 và sẵn sàng chấp nhận những thay đổi lớn đối với đệ trình năm 1965 sắp diễn ra.

Chúng tôi tin rằng Chính phủ Việt Nam sẽ hoan nghênh việc xem xét trên diện rộng loại hình này vào thời điểm này.

Nolting (Đại sứ Hoa Kỳ tại VN)

 

.... o ....

 

 

 

 

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
24/08/2015(Xem: 10488)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.