SƯ KHÁC BIỆT GIỮA MỘNG VÀ THỰC
Nhiếp Chính Vương Gyeltshen Rinpoche
Mộng và Thực là chủ đề được nhắc tới rất nhiều trong cả ba thừa Phật giáo. Mộng và Thực dựa trên nền tảng căn bản của triết học Phật giáo.
Để có thể liễu đạt trạng thái này, hành giả phải dựa trên nền tảng Văn - Tư - Tu hoặc trong Kim cương thừa gọi là Kiến - Thiền - Hành. Khi ngủ say thì cảnh mộng xuất hiện. Nếu giấc mộng an lành, chúng ta sẽ cảm thấy an lạc, hạnh phúc và ngược lại, khi gặp ác mộng, chúng ta sẽ cảm thấy bất an, lo âu, sợ hãi.
Một câu hỏi được đưa ra là: Bản chất của mộng là thực hay giả? Nếu chúng ta quán chiếu kỹ càng, chúng ta sẽ thấy rằng mộng không có thực chất. Mộng hiện khởi từ bản chất vô minh của tâm cộng và các duyên phụ trợ khác. Khi tâm ta mất cân bằng, ta sẽ mộng và trong giấc mộng đó, cả mộng và người mộng không có thật. Thậm chí bản chất cuộc đời hiện tại của chúng ta cũng đều là mộng. Khi nhìn vào bản chất của sự vật hiện tượng, ta thấy có hai khía cạnh thật và không thật.
Khi tâm thức bị che mờ bởi những xúc tình phiền não, ta sẽ nhìn mọi sự vật hiện tượng đều là bất thiện. Còn khi tâm tỉnh thức, ta sẽ thấy được các khía cạnh tích cực của cuộc sống. Như vậy để quyết định một hành động là thiện hay bất thiện, hoàn toàn tùy thuộc vào các trạng thái tâm thức. Chính các xúc tình tiêu cực như tham, sân, si đã đưa đẩy chúng ta trôi lăn mãi trong trong vòng luân hồi sinh tử.
Khi tâm chúng ta sân giận, chính nhân dẫn tới đọa xuống cõi địa ngục. Toàn bộ cảnh địa ngục và người đang chịu khổ trong địa ngục cũng chỉ là mộng. Khi tâm tham lam, keo sẻn, sẽ bị đọa xuống loài quỷ. Cảnh khổ của loài quỷ đói khát cũng như người đang đọa làm quỷ cũng đều là mộng. Những trạng thái tâm si mê là nhân dẫn tới cõi súc sinh. Cõi súc sinh si mê đau khổ trong cảnh ăn giết lẫn nhau và người đang đọa làm súc sinh cũng chỉ là trải nghiệm như một giấc mộng. Sự ghanh tỵ, tật đố là nhân tái sinh vào cõi A Tu la. Kiêu mạn dẫn chúng ta tái sinh vào cõi trời. Khi tâm ta cân bằng giữa những xúc tình tiêu cực và tích cực, ta sẽ tái sinh vào cõi người. Cõi người phải chịu trải nghiệm cái khổ của sinh già bệnh chết, và cõi trời có nỗi khổ sống quá lâu và vô minh không biết đến chính Pháp. Sự khổ đau trong các cõi luân hồi sẽ kéo dài bất tận tới nhiều kiếp sau. Bản chất của luân hồi mà ta đang trải qua cũng là một giấc mộng dài. Chúng ta phải trải nghiệm khổ đau bởi vì ta không nhận chân được bản chất của khổ đau là giả, là mộng.
Chỉ khi bạn chứng đạt được giải thoát giác ngộ, nhìn cuộc sống theo quan kiến giác ngộ, bạn sẽ thấy toàn bộ cuộc sống của chúng ta cũng chỉ là một giấc mộng, thậm chí ngay cả tư tưởng tha thiết cầu giác ngộ, cầu xả ly cũng chỉ là một trạng thái mộng. Hệ thống giáo lý của đức Phật, cũng là một phần của mộng, như giáo lý vô thường, quy luật nhân quả ... đều là một phần của mộng. Ngay cả sự thực hành quy y, phát Bồ đề tâm cũng chỉ là sự thực hành trong mộng. Trọn vẹn cuộc sống của chúng ta, khi ngủ, khi thức, đi, đứng, nằm, ngồi, nói chuyện .... đều là mộng, cho đến cả sự tu tập Lục độ Ba la mật như: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục... các nghi lễ, thiền định cao cấp của Kim cương thừa đều là mộng. Toàn bộ chúng hữu tình trong vũ trụ này như: Bồ tát, loài người, mọi loài chúng sinh.... bản chất đều là mộng. Vấn đề chỉ là tùy theo những nhân tố ảnh hưởng khác nhau mà chúng ta sẽ có giấc mộng dài hay ngắn, lành hay dữ mà thôi. Trong thực tế cuộc sống, khi chúng ta trải nghiệm hạnh phúc, đau khổ, thất bại... đều là những trạng thái trong mộng.
Khi chúng ta có chính kiến hiểu rõ bản chất sự vật hiện tượng trong vũ trụ, tức là mộng thì sẽ đạt được giải thoát, và ngược lại nếu chưa có được quan kiến đó, thì mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta sẽ cứ mãi là nguyên nhân của luân hồi sinh tử.
Trên con đường tu tập chứng đạt giải thoát giác ngộ, chúng ta cần nương theo những phương pháp đối trị, tiêu trừ, chuyển hóa những xúc tình tiêu cực. Chúng ta cần nỗ lực thực hành giáo pháp để có thể thấu hiểu được bản chất của đời sống, của mọi hành động là mộng.
Vấn đề đặt ra là: Chúng ta cần hiểu bản chất của mộng là gì và bản chất của thực tại là gì. Chỉ khi thấy rõ bản chất này, chúng ta mới có thể dần giảm thiểu được khổ đau, bằng không chúng ta sẽ cứ mãi tiếp tục tạo nên nhiều khổ đau. Tại sao lại vậy? Bởi vì do vô minh, chúng ta đã tạo rất nhiều nghiệp bất thiện. Những hành động chúng ta được gọi thiện hay bất thiện hoàn toàn phụ thuộc vào động cơ phía sau. Khi tâm chúng ta khởi phát động cơ gì, nó tạo nên các kết quả tương ứng. Như vậy thiện hay ác, thiện nghiệp hay ác nghiệp hoàn toàn phụ thuộc các khía cạnh hay trạng thái của tâm. Vấn đề là ở chỗ, chúng ta cần kiểm soát, điều phục được những trạng thái tâm bất thiện của mình như ái dục, sân giận. Để có thể điều phục được tâm bất thiện, chúng ta cần có quan kiến rằng, hiểu rằng đối tượng và bản thân đều là mộng. Khi đó ta có thể dễ dàng điều phục được các trạng thái tiêu cực của tâm, giúp chấm dứt luân hồi khổ đau, bằng không chúng ta sẽ mãi mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử. Cả hai khía cạnh bên trong và bên ngoài của tâm thức đều là mộng. Đây là một điểm vô cùng vi tế của tâm thức.
Khi chúng ta nhận ra bản chất cuộc sống là mộng, chúng ta sẽ giảm bớt những hành động bất thiện, tăng những nghiệp thiện. Ta sẽ chuyển hóa được đời sống một cách tốt đẹp hơn. Một khi chưa nhận chân được sự khác biệt giữa mộng và thực, thì mọi lời nói, suy nghĩ hành động của ta vẫn sẽ bị chi phối bởi vô minh si ám, và là nhân cho luân hồi bất tận.
Truyền thống Mahamudra đề cập tới chuyển hóa tất cả các trạng thái vô minh thành trí tuệ. Và khả năng nhận chân được bản chất của mộng hay thực nằm ngay bên trong chính bạn. Giáo pháp của Đức Phật Thế tôn đề cập đến nhiều vấn đề nhưng đều tập trung giúp chúng ta nhận ra sự khác biệt giữa mộng và thực.
Vô Úy (dịch)
Nhiếp Chính Vương Gyeltshen Rinpoche, Đại diện Giáo chủ Je Khenpo- vị lãnh tụ tinh thần tối cao của vương quốc |