Lễ tưởng niệm húy nhật Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu tại chùa Thiên Mụ

13/05/20234:08 CH(Xem: 1707)
Lễ tưởng niệm húy nhật Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu tại chùa Thiên Mụ
LỄ TƯỞNG NIỆM HÚY NHẬT
ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH ĐÔN HẬU
TẠI CHÙA THIÊN MỤ
(Quảng Điền | Ảnh: Phật Giáo Huế)

Di ảnh Đại lão Hòa thượng Thích Đôn HậuSáng 10-5 (21-3-Quý Mão), tại chùa Thiên Mụ (TP.Huế), môn đồ đệ tử Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu đã trang nghiêm tổ chức tưởng niệm 31 năm ngày ngài viên tịch.

Dâng hương tưởng niệm có chư tôn giáo phẩm Hội đồng Chứng minh GHPGVN; chư tôn đức Chứng minh, Ban Thường trực Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế cùng chư Tăng Ni các tổ đình, tự viện và đông đảo Phật tử các giới.

Tại bảo tháp Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu trong khuôn viên quốc tự Thiên Mụ, Tăng NiPhật tử tứ chúng đã thành tâm dâng hương tưởng niệm và hữu nhiễu bảo tháp tưởng nhớ tôn sư.

Tại chánh điện chùa Thiên Mụ, môn đồ đệ tử đã trang nghiêm thiết trí di ảnh của ngài và cử hành lễ cúng ngọ theo nghi thức thiền môn Phật giáo cố đô.

Đại lão Hòa thượng hế danh là Diệp Trương Thuần, pháp danh Trừng Nguyên, hiệu Đôn Hậu, thuộc đời thứ 8 thiền phái Liễu Quán. Ngài sinh ngày 13 tháng Giêng năm Ất Tỵ (16-2-1905) tại làng Xuân An, tổng An Đồn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Ngài xuất thân trong một gia đìnhtruyền thống Nho học, nhưng lại quy ngưỡng Phật giáo. Thân phụ là cụ Diệp Văn Kỷ, một vị lương y nổi tiếng, về sau ông xuất gia học Phật với Tổ Hải Thiệu, có pháp danh là Thanh Xuân, tự Sung Mãn, đắc pháp với Tổ Tâm Truyền, được pháp hiệuPhước Điền, khai lập chùa Long An (Quảng Trị) và kế thế trụ trì chùa Sắc tứ Tịnh Quang. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Cựu, mất sớm khi ngài vừa lên 9 tuổi.

Năm lên 7 tuổi, một hôm Tổ Tâm Tịnh về quê, đến nhà thăm, thấy ngài diện mạo khôi ngô bèn tỏ lòng ưu ái, huyền ký cho con đường xuất thế. Nghe vậy cụ ông vui mừng khôn xiết, đặc biệt lưu tâm đến việc học hành của ngài, liền mời thầy về nhà dạy riêng, để hun đúc tương lai cho ngài với lòng ước mong được như lời Tổ dạy.

Năm 17 tuổi (1922 - Nhâm Tuất), sau 10 năm đèn sách, ngài đã làu thông Nho học. Nhưng tư tưởng về nhơn sanh vũ trụphương pháp lập thân xử thế của Lão, Nho đã không làm thỏa mãn được lý tưởng của người thanh niên trí thức ấy khi đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Cho đến khi được song thân nhắc lại việc Tổ Tâm Tịnh đã huyền ký ngày xưa, ngài mới nghĩ đến con đường xuất gia học đạo.

Năm 19 tuổi, ngày 19-6-Quý Hợi (1923), được sự chấp thuận của phụ thân, ngài vào chùa Tây Thiên đảnh lễ Tổ sư Tâm Tịnh, xin được xuất gia tại đây.

Một năm sau, cũng đúng vào ngày vía Quan Âm 19-6-Giáp Tý (1924), nhờ học hạnh kiêm tốn và chí nguyện xứng đáng, ngài được đặc cách cho thọ tam đàn Cụ túc tại Giới đàn chùa Từ Hiếu, do chính bổn sư làm Hòa thượng Đàn đầu. Thọ giới được 2 năm thì bổn sư viên tịch (1926), ngài bèn đến chùa Hồng Khê cầu pháp với Sư huynhHòa thượng Giác Viên.

Năm ngài 22 tuổi, nhân duyên Trường Phật học Thập Tháp tại tỉnh Bình Định khai mở do Tổ Phước Huệ làm Giáo thọ, ngài cùng một số vị khác như Hòa thượng Chánh Huy, Chánh Thống, Viên Quang vào đây tham học.

Năm 1932, Hội An Nam Phật học ra đời, trường Trung học, Đại học Phật giáo được mở tại Tây Thiên, Tổ Phước Huệ được cung thỉnh từ Bình Định ra làm Giáo thọ. Với tinh thần hiếu học cầu tiến không ngừng, ngài tiếp tục theo học chương trình Đại học tại đây và được bầu làm Thủ chúng cả hai trường. Ngài cũng làm Giáo thọ cho Phật học đường Báo QuốcNi viện Diệu Đức (Huế).

Ngay từ lúc còn ngồi ghế Đại học tại Tây Thiên, ngài được mời làm Giảng sư của Hội An Nam Phật học. Năm 1936, tốt nghiệp Đại học Phật giáo, ở tuổi 32, ngài được mời làm Giáo sư cho Phật học đường Báo QuốcLuật sư cho Sơn môn Thừa Thiên. Từ đó ngài đã trở thành một hạt nhân tích cực của phong trào chấn hưng Phật giáo và là giảng sư nòng cốt của Hội An Nam Phật học. Ngài đã đi giảng dạy khắp các tỉnh miền Trung, nhất là tại Đà Nẵng và Quảng Nam.

Năm 1940 và 1942, ngài hai lần sang thuyết giảng ở một số tỉnh có đông Việt kiều tại Lào, đàm đạo với vua Sãi và tham lễ tại một số nơi ở vương quốc Phật giáo này.

Năm 1945, ngài thay bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám giữ chức Chánh Hội trưởng Hội An Nam Phật học (Thừa Thiên). Cũng trong năm này, ngài nhận chức trụ trì Quốc tự Linh Mụ - một di tích lịch sử của cố đô Huế. Sang năm 1946, ngài làm Chủ tịch Phật giáo Liên hiệp Trung bộ.

Năm 1947, cùng chung số phận với hàng loạt các cơ sở Phật giáo cả nước, chùa Linh Mụ cũng bị Pháp đánh phá và chiếm đóng. Ngài bị Pháp bắt, tra tấn và sau cùng bắt tự đào huyệt chôn mình và suýt bị bắn chết, may nhờ bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại) can thiệp mới được thả.

Năm 1948, ngài làm cố vấn đạo hạnh Hội Phật học Trung phần; được thỉnh làm Tuyên luật sư Đại giới đàn Báo Quốc - Huế (năm 1949), cũng trong năm này, ngài thay cố cư sĩ Chơn An - Lê Văn Định giữ chức Chánh Hội trưởng Hội Phật học Trung phần.

Năm 1951, ngài được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng Giới đàn tại chùa Ấn Quang - Sài Gòn, sau đó được Sơn môn Tăng-già Trung phần mời làm Giám luật. Qua năm 1952, Giáo hội Tăng-già toàn quốc được thành lập tại Hà Nội, ngài được suy cử làm Giám luật.

Năm 1956, ngài thành lập và làm Chủ nhiệm Liên Hoa văn tập. Năm 1958, Liên Hoa văn tập được chuyển thành Liên Hoa nguyệt san cũng do chính ngài làm chủ nhiệm.

Năm 1963, ngài tham gia đứng trong hàng ngũ lãnh đạo phong trào đấu tranh chống chính sách kỳ thị, đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Đêm pháp nạn 20-8-1963, ngài bị bắt tại chùa Diệu Đế và bị đưa đi giam giữ.

Năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thành lập, ngài được cử làm Chánh Đại diện miền Vạn Hạnh.

Năm 1965, ngài được cung thỉnh làm Yết-ma A-xà-lê tại Đại giới đàn Từ Hiếu tổ chức tại tổ đình Từ Hiếu (Huế).

Từ năm 1968, ngài được mời tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, vào chiến khu, ra Hà Nội. Từ đây, ngài lại càng đẩy mạnh sự nghiệp lợi đạo ích đời.

Năm 1975, đất nước thống nhất, ngài trở về chùa Linh Mụ và sau đó được mời làm cố vấn cho Ban Chỉ đạo Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Năm 1976, ngài đắc cử Đại biểu Quốc hội khóa VI, được mời giữ chức Ủy viên Đoàn Chủ tịch UBTƯMTTQVN.

Từ năm 1976-1986, liên tục trong 10 năm liền, ngài giảng dạy kinh luật cho Tăng Ni ở Huế tại các chùa Linh Mụ, Báo QuốcLinh Quang.

Năm 1977, Đại hội kỳ VII Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Ấn Quang, ngài được suy cử vào Hội đồng Trưởng lão và giữ chức vụ Chánh Thư ký Viện Tăng thống.

Năm 1979, Đức Đệ nhị Tăng thống - Hòa thượng Thích Giác Nhiên viên tịch, Đại hội kỳ VIII chưa tổ chức được, Hội đồng Lưỡng viện cung thỉnh ngài kiêm xử lý Viện Tăng thống.

Năm 1981, Hội nghị Thống nhất Phật giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ - thủ đô Hà Nội, suy tôn ngài vào Hội đồng Chứng minh, là Đệ nhất Phó Pháp chủ kiêm Giám luật GHPGVN.

Năm 1977, 1981 và 1983, ba lần ngài được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng các Đại giới đàn tại chùa Báo QuốcTrúc Lâm (Huế).

Hóa duyên đã tròn, Hòa thượng an nhiên thu thần hội nhập vào cảnh giới an lạc tịch tĩnh vào ngày 23-4-1992 (21-3-Nhâm Thân) tại tổ đình Linh Mụ (TP.Huế), trụ thế 88 năm, trải qua 68 mùa An cư kiết hạ.

Phật sự đa đoancuộc đời hành đạo gặp nhiều gian truân, nghịch cảnh, Hòa thượng cũng đã để lại một số tác phẩm rất có giá trị do chính ngài dịch giải biên soạn như: Cách thức sám hối các tội đã phạmPhương pháp tu quánTứ nhiếp phápCảm ứng tự nhiênĐâu là con đường hạnh phúcĐồng mông chỉ quánSinh mệnh vô tận hay là Thuyết luân hồiLuật Tứ phần Tỳ-kheo-ni... Ngoài ra còn có một số bài đăng trên các báo Viên ÂmLiên Hoa.

Một số hình ảnh ghi nhận được:

Bảo tháp Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu trong khuôn viên ngôi Quốc tự Thiên Mụ
Môn đồ đệ tử thành kính tưởng niệm tôn sưLễ cúng ngọ tại chánh điện chùa Thiên Mụimg-0577-6446img-0570-9765img-0558-7043img-0554-328img-0514-754img-0510-5228img-0501-9754img-0498-3003img-0475-2840
Xem thêm:
https://thuvienhoasen.org/p62a10095/tuyen-tap-tuong-niem-co-dai-lao-hoa-thuong-thich-don-hau 



Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
26/08/2010(Xem: 3875)
15/08/2010(Xem: 38831)
01/05/2010(Xem: 42922)
01/10/2009(Xem: 78739)
01/10/2009(Xem: 42880)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.