Xin Cho Biết Cách Xưng Hô Trong Đạo Phật

27/08/201012:00 SA(Xem: 177851)
Xin Cho Biết Cách Xưng Hô Trong Đạo Phật
Ngày xưa khi Phật thị hiện tại thế gian, các tỳ kheo thường dùng tiếng Đại Đức, bậc thầy đáng tôn kính, phước huệ toàn mãn, để xưng hô với Ngài mỗi khi có việc cần thưa thỉnh. Các vị đệ tử lớn của Phật cũng được gọi là Đại Đức như Đại Đức Mục Kiền Liên, Đại Đức A Nan v..v.. Khi đạo Phật được truyền sang Trung Hoa và Việt Nam việc xưng hô với các vị Tỳ kheo xuất gia có phần phức tạp hơn. Ngoài từ Đại Đức, còn có thêm từ Thượng TọaHòa Thượng. Ngày nay xuất hiện thêm danh xưng Lão Hòa ThượngĐại Lão Hòa Thượng.

Thượng Tọa là người xuất gia tu hành lớn tuổi có tác phong đạo đức đáng được mọi người trong và ngoài đạo Phật kính trọng. Theo Tứ Phần Luật, Tỳ kheo được phân chia làm 4 cấp theo tuổi hạ được tính, cứ mỗi năm ba tháng âm lịch từ ngày trăng tròn tháng 4 đến ngày trăng tròn tháng 7, cùng nhau tu tập tại một nơi nào đó để an tâm tu học, tinh chuyên giữ giới, sau ba tháng ấy, được kể là một hạ. Hạ Tọa (0 đến 9 hạ), Trung Tọa (10 đến 19 hạ), Thượng Tọa (20 đến 49 hạ) và Trưởng Lão (50 hạ trở lên).

Hòa Thượng, tiếng Phạn là Upadhayaya, dịch nghĩa là sanh lực, tức là vị tu hành lâu năm có đời sống phẩm hạnh thanh tịnh và do đó khiến cho đạo lực của đệ tử được phát sinh. Theo Tứ Phần Luật, Hòa Thượngnhà sư đỡ đầu cho Sa DiTỳ Kheo. Theo kinh Phạm Võng, Hòa Thượng là một trong hai vị sư truyền giới trong hội đồng truyền giới Tỳ kheo Bồ Tát: Hòa Thượng (thầy đỡ đầu) và A Xà Lê (thầy giáo thọ). Ở Việt nam xưa kia, Hòa Thượng được dùng để gọi một vị sư trụ trì một ngôi chùa hoặc là do sự kính trọng những vị tu hành có tuổi cao, có cốt cách đạo hạnh.

Việt Nam, trước năm 1963, danh xưng thường gọi những người mới xuất gia, nếu nhỏ tuổi ở miền Bắc gọi là Chú Tiểu, miền Trung gọi là Chú Điệu, miền Nam gọi là Ông Đạo. Những vị đã thọ Tỳ Kheo Giới từ 20 tuổi đến 60 tuổi đời đều gọi là Thầy và nếu trên 60 tuổi đời gọi là Sư Ông hay Sư Cụ ở miền Bắc và gọi là Ôn ở miền Trung. Ngược lại các vị được gọi thì tự xưng mình là “bần tăng” hay “bần ni” mà không tự xưng mình là Thầỵ Ở miền Bắc còn có danh từ “sư bác” để gọi những vị lớn tuổi mới xuất gia, đã thọ sa di thay vì gọi là Thầy.

Theo Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (trước năm 1975) qui định thì nhửng Tăng sĩ đã thọ giới Tỳ Kheo có tuổi đời từ 20 đến 40 tuổi là Đại Đức, từ 40 đến 60 tuổi đời là Thượng Tọa và từ 60 tuổi đời trở lên là Hòa Thượng. Hòa Thượng là các vị có 60 tuổi đời sắp lên, trong đó có 30 tuổi hạ, Tthượng toạ là những vị có 50 tuổi đời, trong đó có 20 tuổi hạ. Hai chức vị Thượng TọaHòa Thượng phải qua một tiến trình đề cử và suy tôn của một đại hội toàn quốc hay do giáo lệnh của Đức Tăng Thống phê chuẩn. Thông thường muốn được đề cử Thượng Tọa các vị Đại đức đã thọ Tỳ Kheo giới, theo thầy hoặc tăng chúng an cư kết hạ liên tục trong suốt 20 năm và muốn được đề cử chức vị Hòa thượng phải là người đã thọ Tỳ Kheo giới và có an cư kết hạ 30 năm trở lên. Những Tăng sĩ tuy đã thọ Tỳ Kheo Giới nhưng không sống theo tăng đoàn tu học mỗi năm 3 tháng vào mùa mưa, tức từ ngày trăng tròn tháng 4 âm lịch đến ngày trăng tròn tháng 7 âm lịch, nhằm tinh chuyên giới hạnh thì không đủ điều kiệntư cách để thụ phong chức vị Thượng Tọa hay Hòa Thượng.

Theo Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (sau năm 1975):

(1) Được tấn phong Hoà thượng những Thượng toạ từ 60 tuổi đời, 40 tuổi đạo trở lên, có đạo hạnh, có công đức với Đạo pháp và dân tộc, do Ban Trị sự Tỉnh hội, Thành hội đề nghị lên Ban Thường trực Hội đồng Trị sự để xét duyệt, đệ trình Thường trực Hội đồng Chứng minh phê chuẩn, được Hội nghị Trung ương thông qua hay Đại hội Phật giáo toàn quốc tấn phong với một Nghị quyết và một giáo chỉ do Đức pháp chủ ban hành.(chương 3 điều 37)

(2) Được tấn phong Thượng toạ những Tăng sĩ từ 45 tuổi đời, 25 tuổi đạo trở lênđạo hạnh, công đức với đạo pháp và dân tộc do Ban Trị sự Tỉnh hội, Thành hội đề nghị lên Ban Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội xét duyệt đệ trình Thường trực Hội đồng Chứng minh phê chuẩn và tấn phong tại Hội nghị Trung ương Giáo hộiĐại hội Phật giáo toàn quốc, với một Nghị quyết và một Giáo chỉ do Đức Pháp chủ ban hành.(chương 3 điều 38)

(3) Cấp bậc Giáo phẩm của Ni giáo là Ni trưởngNi sư. Tiêu chuẩnđiều kiện để tấn phong giáo phẩm của ni giới như quy định của hàng Tăng giới ở Điều 37 và 38.

Đối với người nữ xuất gia, sau khi lãnh thọ 10 giới sa di được gọi là Sa Di ni hay Ni cô. Những nữ tu sĩ Phật giáo khi đến tuổi 18, dù đã thọ giới sa di hay chưa cũng phải thọ giới thức Xoa ma Na trong hai năm trước khi được thọ giới tỳ kheo ni. Ngoài ra, những người trước kia đã từng lập gia đình nay sống độc thân (vì thôi chồng hay chồng chết), nếu muốn thọ giới thức Xoa ma na phải đợi 10 năm sau ngày ly hôn hay ngày chồng chết mới được thọ giới Thức Xoa Ma Na. Khi đã được thọ giới Tỳ Kheo ni, nữ tu sĩ Phật Giáo được gọi là Tỳ Kheo ni hay là . Theo tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, chức vị Ni Sư ngang hàng với chức vị Thượng toạ, là những vị Sư cô trên 45 tuổi đời, đã thọ giới Tỳ kheo ni và có trên 25 tuổi đạo. Ngoài ra, còn có chức vị Ni Trưởng ngang hàng với chức vị Hoà thượng là các vị Ni sư có trên 60 tuổi đời và trên 40 tuổi đạo. Chúng tôi không thấy có danh xưng Hoà Thượng Ni trong tổ chức Phật Giáo Việt Nam trước năm 1975 cũng như sau năm 1975.

Các chức vị Thượng Tọa, Ni sư, Ni TrưởngHòa Thượng hiện nay tại Việt Nam phải qua một tiến trình đề cử của giáo hội địa phương và các ban ngành chuyên môn liên hệ và được giáo hội trung ương xét duyệt tấn phong.

Trong đạo Phật, việc xưng hô không mang tính cách chức vị quyền thế như các phẩm tước ngoài đời. Tăng đoàn xuất gia tỳ kheo tự tôn trọng và kính nể nhau về tuổi đạo chứ không phải tuổi đờị Người lớn tuổi hơn nhưng thọ Tỳ kheo sau người nhỏ tuổi cũng phải kính trọng vị nhỏ tuổi đời, xem như người đi trước, như bậc đàn anh trong đạo.

Khi giao tiếp với chư tăng ni, Phật tử tại gia, bao gồm cả thân nhân của chư tăng ni, thường đơn giản gọi bằng Thầy, hay Cô, và thường xưng là con (trong tinh thần Phật pháp, người thọ ít giới bổn tôn kính người thọ nhiều giới bổn hơn, chứ không phải tính theo tuổi tác người con theo nghĩa thế gian) để tỏ lòng khiêm cung. Cũng có thể xưng tên hay pháp danh của mình khi nói chuyện. Riêng với những Phật tử tại gia cao tuổi có thể xưng tôi hay chúng tôi với những vị tăng ni trẻ hơn mình. Sau khi qui y Tam bảo và thọ 5 giới, mỗi vị cưPhật Tử tại gia có một vị Thầy (người đại diện Tam Bảo) truyền giới cho mình. Vị ấy được gọi là Thầy Bổn sư. Cả gia đình có thể cùng chung một vị Thầy Bổn sư, tất cả các thế hệ cùng gọi vị ấy bằng Thầy. Theo giáo phái khất sĩ, nam tu sĩ được gọi chung là Sư và nữ tu sĩ được gọi chung là Ni. Còn Nam tông chỉ có Sư, không có hay chưa có Ni.

Khi chư Tăng ni tiếp xúc với quí vị Phật tử tại gia, chư Tăng ni thường xưng là tôi hay chúng tôi, hay xưng pháp danh, pháp hiệu, hoặc bần tăng, bần ni; cũng có khi chư tăng ni xưng là Thầy, hay Cô, và gọi Phật tửđạo hữu, hay quí đạo hữu, hay pháp danh, hay tên ngoài đời. Việc một vị tăng hay ni trẻ tuổi xưng Thầy hay Cô gọi một Phật tử tại gia nhiều tuổi bằng “con” thực là không thích đáng. Không nên gọi như vậy. Theo truyền thống đông phương, tuổi tác rất được kính trọng trong xã hội, dù tại gia hay xuất gia.

Đối với Phật tử tại gia, khi xưng hô với các vị xuất gia, chúng ta nên thận trọng, tuy giữ thái độ khiêm cung, nhưng không hạ mình và đừng tạo cho mình và người đối tượng một bức tường ngăn cách giữa hai tầng lớp: hàng tăng lữ xuất gia và hàng tín đồ tại gia. Việc một số Phật tử xưng hô với một vị Ni sư tại một ngôi chùa ni tại quận Cam là “Hòa Thượng Ni” có thể là do sự cung kính thái quá của họ đối với vị Ni sư đó nhưng cũng có thể do sự thiếu hiểu biết về các danh xưng trong đạo Phật.

Ban Biên Tập TVHS
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
28/06/2016(Xem: 36833)
28/03/2016(Xem: 20578)
22/02/2016(Xem: 44191)
27/10/2015(Xem: 20954)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.