VÀI NHẬN ĐỊNH VỀ BÀI PHÁP THOẠI Vào khoảng thập niên 80-90, có một người tự xưng là Thanh Hải Vô Thượng Sư, được sự chú ý của nhiều người. Tôi cũng bị kích thích tính hiếu kỳ, tìm xem những băng đĩa của bà Vô Thượng Sư ấy. Đây là một người phụ nữ có xiêm y sắc màu với vũ điệu trên màn hình, không khác các bà đồng bóng ở điện Hòn Chén - Huế. Tôi nghĩ thầm, “Vô Thượng Sư” chỉ là một cách xác định bản ngã của một nữ nhân quái kiệt mà thôi. Từ đó về sau, tôi không quan tâm đến vấn đề ấy nữa. Mấy năm gần đây, các vị Lạt Ma Tây Tạng, Nepal, Bhutan qua Việt Nam truyền bá mật tông, thường gọi là Kim Cang Thừa, có một vị tự xưng là Pháp Vương, tôi nghe là lạ khác thường, vì từ này ở Việt Nam xưa nay chỉ dùng trong bài kệ xưng tán Phật: Pháp Vương Vô Thượng tôn Nay lại xuất hiện một pháp vương thứ hai. Tôi nghĩ đây chắc là một vị pháp sư có công hạnh đặc biệt lắm. Cũng bị kích động tâm thức, tôi quan tâm nghiên cứu về hành trạng của Ngài. Như thường lệ, muốn tìm hiểu một vị đạo sư, cần phải nghiên cứu qua hai phương diện, một là ngôn giáo, hai là thân giáo. Về ngôn giáo của Ngài Gyal Wang, trước tiên tôi đọc bài pháp thoại “UY NGHI GIỚI HẠNH TRONG PHẬT PHÁP”, phần Việt văn trong cuốn “Conduct in Conformity With the Daharma”. Cần nói thêm rằng, đại đa số người Việt tiếp thu và ứng dụng giáo lý Phật Đà qua các bài giảng tiếng Việt của quí Cao Tăng, Đại Đức. Kinh điển thì nghiên cứu các bản dịch của quí Tôn Đức có sở trường dịch thuật. Tôi, người viết bài này, không ngoại lệ. Tôi diễn giải thêm như thế, bởi vì trong cuốn sách nói trên có nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Trung văn, Tạng văn vv….Đây là phương thức khoe chữ…? Sau đây là một vài nhận định của tôi về bài pháp thoại trên. Mở đầu cho bài pháp thoại là bài xưng tán Tổ Sư dòng truyền thừa Drukpa: Kính lễ Kim Cương Thượng Sư Tôn! Đọc đến câu thứ ba này, tôi nghĩ, có lẽ ông Gyal Wang đã đi tham cứu tất cả các vị Đạo Sư cổ kim, mới có thể khằng định như thế?! “Ngài là Chủ hết thảy Đạo Sư” Đây là một lời khằng định quy nạp, hàm hồ, thiếu ý thức. Qua câu này, chúng ta thấy rằng ông Gyal Wang cho Tông môn dòng truyền thừa Drukpa là cao hơn hết!! Điều này, tôi thấy ông Gyal Wang vướng mắc vào cái ngã chấp, chấp thủ khó dung thứ trong Phật Pháp: “Tôi và Tôn sư tôi là trên hết”. Diễn theo từ Duy Thức học, nó bao hàm ngã và ngã sở - Tôi và cái của tôi. Người tu theo đạo Phật, muốn giải thoát sinh tử khổ não, phải triệt tiêu tận gốc rễ cái ngã. Vì cái ngã là một sở chướng lớn trong việc tìm cầu giải thoát. Theo nguyên lý Phật Giáo, bất cứ Tiểu Thừa, Đại Thừa, Kim Cang Thừa hay Tối Thượng Thừa đi nữa, không có thừa nào dung chứa ngã chấp. Không phá ngã chấp, thì không bao giờ giải thoát sinh tử chứng Niết Bàn. Hòa Thượng Thiện Siêu đã dạy rằng: “Vô ngã là Niết Bàn”. Theo cuốn “Tinh túy trong sáng của giáo lý Phật giáo” của Phạm Công Thiện, thì Mật tông Tây Tạng được Tổ Sư Thánh Tăng Ấn Độ là Ngài Atisha-Jowo Atisha- truyền sang từ thế kỷ XI năm 1042 và tiếp tục truyền thừa đến đời Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV (trang 57 sđd) Vẫn biết trước đó, thế kỉ thứ VIII, đã có Ngài Liên Hoa Sinh (Padmasambava) từ Ấn Độ qua truyền Mật Tông rồi, nhưng ở đây tôi chỉ dựa vào dòng truyền thừa của Đức Đạt Lai Lạt Ma mà luận. Dòng truyền thừa Drukpa đến thế kỉ XII mới thành lập, thì có thể là một chi mạc gì đó của dòng truyền thừa chính do Tổ Sư Atisha khai sáng. Cho dù Tổ sư dòng truyền thừa chính hay Tổ Sư truyền thừa của Ngài Liên Hoa Sinh đi nữa, cũng đã trên dưới hàng ngàn năm rồi, các Ngài đã viên tịch, đã nhập Vô Dư y Niết Bàn. Ông Gyal Wang dâng lên quý Ngài cái tham vọng làm “chủ” thì có ý nghĩa gì?! Nếu quý Ngài theo hạnh nguyện Bồ Tát, nhập Vô Trụ Xứ Niết Bàn, “Ứng hiện tùy cơ, trục loại tùy hình”, cũng không thể mang theo cái ngã chấp cố hữu như ông Gyal Wang vọng tưởng: “Ngài là Chủ hết thảy Đạo Sư”. Một lời kệ quá tầm thường, không hề thấy trong văn học Phật giáo xưa nay. Phần trên, tôi chỉ mới bàn sơ về cái vọng tâm, vọng tưởng của ông Gyal Wang. Câu trích dưới đây lại thể hiện một phàm tình khác nữa: “Ngài (Tổ Sư dòng truyền thừa Drukpa) từ bi hơn tất cả chư Phật và Bồ Tát” (dòng 16, trang 177 sđd) Theo truyền thuyết, huyền thoại và huyền ký, thì các Pháp Vương dòng truyền thừa Drukpa là hiện thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa, theo lời Ngài Vô Tận Ý bạch Phật thì Ngài Quán Thế Âm cũng là một Phật Tử: Phật Tử hà nhân duyên Cũng trong đoạn kệ trên, Đức Phật Thích Ca dạy, Ngài Quán Thế Âm ứng thân khắp nơi chốn, đời đời làm thị giả, thờ hằng sa Đức Phật: Thiện ứng chư phương sở Thế mà ông Gyal Wang nói Ngài Quán Thế Âm hóa thân làm bậc Thượng Sư trong dòng truyền thừa Drukpa, lạiTừ Bi hơn tât cả chư Phật và Bồ Tát. Có thể ông ta thuộc diện bất thường?. Đây là một lộng ngôn không thể chấp nhận. Điều này, nói câu này, người có chánh tri kiến hẳn thấy rằng đây là lời của tà giáo, cần phải cảnh giác, đừng bị mê hoặc… Từ Bi và Trí Tuệ là thể tánh viên dung trong Như Lai Tạng. Chư Phật, chư Bồ Tát, kể cả chúng sanh đều viên mãn. Nhưng vì chúng sinh bị màn vô minh bao phủ dày đặc không thể hiện rõ được. Chư Bồ Tát do hạnh nguyện lợi tha, có những diệu dụng sai thù. Chẳng hạn, diệu dụng của Ngài Quán Thế Âm là Từ Bi, diệu dụng của Ngài Văn Thù là Trí Tuệ. Người liễu nghĩa Thượng Thừa tuyệt đối không quan niệm rằng: Ngài Quán Thế Âm từ bi hơn Ngài Văn Thù và ngược lại, Ngài Văn Thù trí tuệ thắng Ngài Quán Thế Âm. Khái niệm hơn - kém, thuộc diện nhị nguyên, Từ Bi và Trí Tuệ là thể tánh viên dung bất nhị trong Chư Phật và Bồ Tát. Vì là viên dung bất nhị nên ông Gyal Wang xưng tán Tổ Sư dòng truyền thừa Drukpa từ bi hơn tất cả chư Phật và Bồ Tát thì chúng ta phải hiểu rằng “Tổ Sư” trí tuệ cũng thắng chư Phật và Bồ Tát. Theo phàm tình mà luận, thì so sánh hơn kém, thắng thua là có ý tranh chấp, tranh giành ảnh hưởng. Tranh giành ảnh hưởng Từ Bi và Trí Tuệ với chư Phật và Bồ Tát thì thuộc diện Ma Vương rồi! Người Phật Tử phải có một tầm nhìn sáng suốt nhận chân đâu là chánh, đâu là tà cho việc tu tập của mình khỏi bị lệch hướng đáng tiếc. Để kết thúc tiểu tiết này, tôi xin phép tặng ông Gyal Wang hai câu trong bài kệ chúng tôi thường tụng khi lễ Phật: Nhữ kim vọng dĩ uế độ kiến Chúng ta đã thấy sự thiên kiến, chấp thủ sai lệch của ông Gyal Wang trong các phần trên, câu khiêm hạ sau đây của ông Gyal Wang ở phần cuối bài pháp thoại, chúng ta sẽ thấy rõ hơn nữa về một người được xưng tụng là “bậc Toàn Tri Tối tôn quí”: “Mặc dù sự hiểu biết tâm linh còn chưa tỏ tường rốt ráo. Tuy nhiên, tôi là người đã xa lìa tất cả bất tịnh ô nhiễm của tám món bận tâm thế tục”. (dòng 1-3 trang 184, sđd) Theo tâm lý học, người nào tự nói tâm tôi đã thanh tịnh, giải thoát các triền phược nhiễm ô, thì người ấy tâm còn phiền trược, ô nhiễm nặng nề. Nói thanh tịnh, ly nhiễm chỉ là một thái độ ngụy tín che giấu cái phàm tình bên trong. Đó cũng là một cách xác định bản ngã của người tầm thường thôi. Những câu trần tình, bộc bạch như thế không hề nghe thấy trong ngôn ngữ Thiền sư. Chỉ nghe những câu đối vượt thoát phàm tình như thế này: Trúc ảnh tảo giai trần bất động (câu đối chùa Trà Am – Huế) Tạm dịch: Bóng trúc quét thềm bụi không động Lại nữa, Ngài là “bậc thầy giác ngộ”, là “bậc toàn tri” của dòng Kim Cương Thừa, sao chẳng “thừa” kim cương gì cả. Vẫn biết bản môn Kim Cương Thừa và diệu dụng phá chấp của kinh Kim Cương không đồng đẳng. Song ở đây, tôi luận về “vô sở trụ”, cho nên cần trích dẫn kinh Kim Cương. Nếu Ngài là “bậc thầy giác ngộ”, thì Ngài phải liễu nghĩa kinh Kim Cương chứ, phải là bậc “Vô Sở Trụ” mới siêu việt. Còn Ngài trụ ở niệm xa lìa “tám món bận tâm thế tục” làm sao có thể sanh tâm, kiến tánh: “Ứng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Tâm sanh thì kiến tánh, kiến tánh thì ngộ nhập tánh không của vạn pháp, trực nhận “Bản Lai Vô Nhất Vật”, chỗ nào cho bụi trần bám vào mà xa lìa với không xa lìa?! Trụ ở cái ý niệm xa lìa tám món bận tâm thế tục ấy, thì chẳng bao giờ thấy được bể pháp mênh mông đâu. Xả bỏ nó đi! Phật dạy: ”phàm sở hữu tướng giai thị như vọng” và Phật cũng dạy rằng: ” pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp” (pháp còn phải xả bỏ huống hồ là phi pháp). Vướng vào ý niệm ấy là phi pháp rồi. Phật Tử Việt có thể xem đây là Bậc Thầy giác ngộ, là hóa thân của chư Phật, chư Bồ Tát được không? Một vị Tăng được gọi là “Như Lai sứ giả” đi trao truyền chánh pháp, mà soạn một bài giảng lý chẳng khế, cơ chẳng hợp!!! Chúng ta sanh vào thời mạt pháp, gặp nhiều tà sư, tà thuyết. Buồn thay!!! Từ Bi thắng sân hận Phần trên tôi đã trình bày về phần “ngôn giáo” của ông Gyal Wang. Chúng ta đã thấy rõ thật hư, chân giả của ông ấy. Để sáng rõ hơn nữa, tôi trình bày tiếp khía cạnh Thân Giáo và Hạnh Giáo. Về phương diện này, trước tiên tôi theo dõi những “oai nghi tế hạnh” của Ngài Gyal Wang qua các hình ảnh “biểu diễn” hấp dẫn, ngoạn mục trong cuốn “MANDALA”. Đầu tiên tôi quan sát hình ảnh Ngài trên trang bìa. Ngài đội mũ hình tháp cụt màu đen, trang trí những sợi dây màu vàng rất nổi. Miệng Ngài cười tươi như hoa nở, cổ khoác yếm xanh, dưới tay nhiều sợi dây như chuỗi hạt màu vàng chằng chịt. Nhìn toàn cảnh rất ngoạn mục, không khác gì một “ông đồng” ở điện Hòn Chén – Huế, khi lên diễn vũ điệu “Ông Chín Thượng Ngàn” (từ đồng bóng). Tôi quan sát rất kỹ tìm xem có nét nào của Thiền Sư hay Đạo Sĩ không? Không thấy, hoàn toàn không thấy!. Đây là đức tướng thứ nhất của Ngài Gyal Wang. Thứ đến, tôi lật vào các trang trong, thấy nhiều hình ảnh và màu sắc về Ngài Gyal Wang luôn thay đổi và rất sặc sỡ. Có hình Ngài đội bêrê đỏ, y vàng, y trơn như chiếc y của một chú Sa di ở Việt . Lật vào trong nữa, Ngài đội mũ bêrê xanh, quấn y trơn, y không điều – Điều là từng miếng vải kết lại thành từng ô, tượng trưng chiếc y như mảnh ruộng phước, gọi là Phước Điền Y. Điều cũng biểu thị tính chất đức độ của Tăng, Ni. Tôi lật tiếp thêm, thấy Ngài đội mũ đỏ thẳm, quàng y với nhiều hoa văn sặc sỡ vàng, đỏ, tím... Nếu có một cái nhìn tổng quát về trang phục, áo mão của ông ta thì thấy, khi thì vàng, khi thì đỏ, khi thì tím, khi thì nhiều hoa văn. Tôi có cảm giác như Ngài là một diễn viên trên sân khấu, thường xuyên hóa trang cho hợp vai diễn của mình. Đặc biệt, tôi nhìn kỹ tấm hình trang 142, ông ta diễn xuất rất điệu nghệ như hình của một diễn viên điện ảnh lành nghề. Nếu là một nghệ sĩ, một ngôi sao màn bạc thì đây là hình ảnh đẹp, tuyệt diệu. Nhưng ngược lại, một Tăng sĩ, một Đạo Sư thì hình ảnh này thiếu oai nghi, khó kính ngưỡng. Nếu không muốn nói là quái Tăng. Một Đạo Sư, hình ảnh phải chính diện, uy nghi, hợp với pháp phục, nghĩa là phải hủy bỏ cái hình ảnh sắc nét, không hợp với pháp phục (hủy kỳ hình hảo, ứng pháp phục cố) Một điều cần chú ý nữa là ông Gyal Wang để tóc dài phủ tới khỏi vành tai rất khó coi (h.t 126, 234, 250 sách Mandala). Có phải vì vậy mà Ngài phải luôn đội mũ? Giả sử có người tiện tay lột cái mũ của ông ta ra, thì không thấy hình tướng oai nghi của một người đệ tử Phật nữa rồi! Chúng ta đã biết rằng, người đệ tử Phật thường mặc áo hoại sắc, đơn giản, mỗi tháng trước hai kỳ Bố Tát phải thế phát tươm tất. Hình ảnh người tu sĩ Phật Giáo nhẹ nhàng, thanh thoát như thế từ trên 2500 năm trước đến nay vẫn không thay đổi. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV – biểu tượng cao nhất của Mật Tông –Tây Tạng – được cả thế giới kính ngưỡng vẫn có trang phục truyền thống của tăng sĩ Phật giáo. Vậy ông Gyal Wang có phải là một đệ tử Phật không? Mỗi người chúng ta hãy tự suy nghĩ. Trên đây là Thật Tướng (nghĩa đen) của ông Gyal Wang, còn Thật Hạnh thì như thế nào, đợi người đi Nepal về sẽ rõ. Một người đồng pháp giới với tôi ở miền Bắc, rất kính ngưỡng Ngài Pháp Vương Gyal Wang Drukpa. Nhưng sau khi đi dự Đại Hội Thường Niên dòng truyền thừa Drukpa về gặp tôi, thầy nói: - “Trăm nghe không bằng một thấy, tôi đã bể cái mộng cầu pháp Kim Cương Thừa rồi!” Tôi hỏi vì sao? Thầy kể một cách thất vọng: - “Ông ta ở trong một nữ tu viện, có phòng ốc sang trọng, kín như bưng, với mấy tầng cửa đóng then cài cẩn mật. Nhìn vào tôi tự nghĩ đây là tu viện hay pháo đài? Ông ta còn là một tài xế thiện nghệ, lái xe con chở nữ nhân Việt Nam chạy vù vù qua đường đèo dốc, tôi thấy chẳng đẹp mắt chút nào cả”. “Một vị Lạt Ma đã nói với tôi, ông ta là một cư sĩ, để tóc như thế cho tiện việc sinh hoạt đời thường”. Tôi nghĩ đây cũng là một Thanh Hải Vô Thượng Sư nữa rồi! Trầm ngâm một lúc, thầy tiếp: - Trong lúc đó, đời sống của người dân Nepal quanh tu viện nghèo nàn, xơ xác, nếu không nói là lạc hậu. Nhìn hai cảnh đời, trong tu viện và ngoài dân gian, tôi nhớ hai câu thơ của Đỗ Phủ đời Đường: “Châu Môn tửu nhục xú Lộ hữu đồng tử cốt” Nhấp một ngụm trà, thầy nói tiếp: - “Nếu là một ông thầy tu Phật Giáo thì phải có giới luật. Tăng Ni phải ở riêng như chúng ta. Ngài Đại Thiên (Mahadeva) nói một trong năm điều bất toàn của La Hán rằng: “tới bậc A-la-hán thì đoạn diệt hết mọi phiền não, nhưng vì còn có nhục thân, nên có vấn đề sinh lý không phải là hết hẳn, trong khi thụy miên (ngủ nghỉ), bị ác ma dụ hoặc vẫn có lậu thất.” Quan điểm của Ngài Đại Thiên tôi không đồng tình, tuy thế thấy ông Gyal Wang – một người vẫn có nhiều nét phàm tình, lại ở trong một nữ tu viện thì ai cũng có thể đặt một nghi vấn: Hẳn ông Gyal Wang thuộc dòng truyền thừa của “phái Mũ Đỏ” mới có thể chung cư trong một nữ tu viện. Phái này có lối tác pháp quái dị, Phật Giáo nghiêm cấm. Đặc biệt trong tu viện này không có hình tượng của Đức Phật mà chỉ có hình của ông Gyal Wang và các hình ảnh kỳ dị khác mà thôi? Thầy chợt thở dài: - “Thì ra cuộc đời là thế, nếu đứng xa mà nhìn thì rất mỹ hảo, nhưng khi đến cận cảnh thì vỡ mộng!” Đến đây, tôi ngắt lời thầy: “Thầy ơi, mộng vỡ hay lành cũng chỉ là mộng” Dùng Bát Nhã để quán chiếu là yên hết. Mời thầy dùng trà, trà Olong Tâm Châu chính hiệu đấy”. Tôi mỉm cười, đọc hai câu kệ: “Trước hữu sa trần hữu
Thưa quí vị độc giả Phật Tử. Khi viết về hành trạng của Pháp Vương Gyal Wang Drukpa qua phần Ngôn giáo, Thân giáo và Hạnh giáo, tôi cần phải quảng lãm cuốn “MANDALA – sự hợp nhất của từ bi và trí tuệ…”. Tôi thấy nội dung cuốn sách này cũng có một số vấn đề cần phải đàm luận. Mỗi tông phái Phật giáo đều có một nghi thức riêng, Mật Tông gọi là Nghi quỹ, Thiền Tông có Thanh Quy Bách Trượng, vấn đề này tôi hoàn toàn không đề cập đến, chỉ bàn sơ một vài nét nội dung, một vài nét thôi. Nếu đàm luận đủ chắc phải mất nhiều thời gian, có thể thành một cuốn sách nhỏ. Nhìn chung, nội dung cuốn sách, có nhiều truyền thuyết, huyền thoại và huyền ký mang tính “Phong Thần”, khó nghĩ khó bàn. Riêng về pháp quán đỉnh, trước đây tôi cứ nghĩ nó thuộc về diện Mật pháp khác với các pháp môn của Thiền tông, Tịnh Độ tông, và Mật Tông Việt . Song, khi đọc bài truyền pháp “quán đỉnh cộng đồng Phật Dược Sư, Đại Thành Tựu Phật A Di Đà” (t 21. Mandala), tôi thấy chẳng có gì khác mấy với các pháp môn tu tập mà Tổ Tổ tương truyền, các Thầy đã giảng ở Việt từ xưa tới nay. Pháp quán đỉnh của ông Gyal Wang giảng tương tự như phương pháp quán tượng niệm Phật, ngồi niệm Phật quán tưởng Đức Phật A Di Đà, ngự trên hoa sen ở trên đỉnh đầu mình. Quán cho đến khi nào ngồi vào niệm Phật là thấy rõ ràng ngay. Thế là đã thành tựu một pháp. Thứ nữa, khi ngồi niệm Phật quán toàn cảnh thế giới Cực Lạc hiện tiền. Theo Pháp quán này, khi ngồi vào niệm Phật, quán thấy toàn cõi Cực Lạc rực rỡ với Đức Phật A Di Đà đang thuyết pháp. Quán cho đến khi nào ngồi vào niệm Phật là thấy ngay cảnh giới Cực Lạc hiện tiền. Các pháp quán này nếu thực hành thành tựu viên mãn, khi lâm chung sẽ có mùi hương lạ lan tỏa khắp chung quanh. Điều này ở Việt đã có kiểm chứng. Đây tôi mới bàn luận về pháp quán để thấy rằng pháp quán đỉnh của ông Gyal Wang không xa lạ gì với Phật Tử Việt . Tôi chưa đề cập đến phương pháp trì danh niệm Phật khi đến nhất tâm bất loạn, thì khi cất tiếng niệm Phật là nghe cả bầu trời vang vọng tiếng niệm Phật, thường được gọi là Niệm Phật Tam Muội. Điều nữa, pháp quán tưởng tự tánh Quán Thế Âm, tự tánh A Di Đà, tự tánh Dược Sư, Thầy Tổ đã dạy, đã giảng từ lâu rồi. Chẳng hạn như quán tưởng tự mình là Quán Thế Âm, thì năng lượng từ bi sẽ lan tỏa, thương tha nhân như thương con một của mình, người xung quanh cảm nhận được sự bình an. Nếu quán tưởng tự tánh của ta là Phật A Di Đà, thì tự tâm muốn tiếp độ chúng sanh bình đẳng không sai biệt, và cảm thấy cảnh giới hiện tiền thanh tịnh, an lạc…vv… Ông Gyal Wang cứ tưởng nghi quỹ quán đỉnh của mình là đặc thù của dòng truyền thừa Drukpa thôi. Không có chi là đặc thù cả, phổ cập lắm, chỉ sai biệt ngôn ngữ thôi. Có một điều đặc biệt cần ghi nhận là ông ta nói về biểu tượng màu sắc. Chẳng hạn, Phật A Di Đà có sắc thân màu đỏ, Phật Thích Ca có sắc thân màu vàng, Phật Dược Sư có sắc thân màu xanh …vv…Mỗi màu sắc tượng trưng cho một năng lượng và diệu dụng khác nhau. Cũng nên nhớ rằng, tượng trưng không phải là hiện thực, ông Gyal Wang biến nó thành hiện thực trên mũ, trên áo là khôi hài. Cũng trong bài giảng pháp này (ở trang 28 dòng 8 sách Mandala) ông Gyal Wang thuyết giảng vô căn cứ rằng“Trong Kinh thừa không đề cập đến phương pháp quán tưởng này”. Tôi xin cung thỉnh Pháp Vương Gyal Wang Drukpa và Tăng đoàn tùy tùng sang Việt làm thính chúng. Tôi mạn phép làm thuyết trình viên nói về các pháp quán trong Kinh thừa, để quí vị bổ sung vào cái sở tri, sở kiến lầm tưởng cố hữu. Trong lúc chờ đợi, xin quí vị tạm thời nghe qua một số pháp quán trong Kinh Thừa như sau: - Kinh Hoa Nghiêm có ba pháp quán:
- Pháp Hoa tông có ba pháp quán:
- Thành thật tông có hai pháp quán:
Ngoài ra còn nhiều pháp quán như: “Lục diệu pháp môn quán, Bát thắng xứ quán, Bát bối xả quán (các pháp quán này thuộc diện Luận Tông). Những pháp quán sau đây thường được học và được nhiều người thực hành:
3. Biệt Tướng niệm xứ quán cũng có bốn pháp quán:
Những pháp quán này chỉ mới sơ lược về đề mục, nếu có dịp thuyết trình sẽ được triển khai ý nghĩa và thực hành cụ thể, và sẽ trình bày thêm nhiều pháp quán khác nữa. Đến đây, quý vị đã thấy lời thuyết giảng của ông Gyal Wang như người mù đọc sách chữ nổi, rồi thuyết trình với học giả hoặc ông ta như người mù cầm gậy dò đường về đất Phật?! Đáng tiếc thay! Ông Gyal Wang cần biết rằng, Phật Giáo Việt , sau một thời gian dài suy đồi; từ Lê – Nguyễn đến thời Pháp thuộc. Hai phần ba thế kỷ nay, việc chấn hưng Phật Giáo của quý Tăng sĩ và Cư sĩ đã đem lại những thành tựu thiết thực. Các trường từ Sơ cấp đến Học viện Đại học Phật Giáo có đủ. Pali tạng và Hán tạng cũng cụ túc. Các Tăng, Ni, Phật Tử có trình độ Đại học Phật Giáo không ít, có vị trí tuệ siêu việt như Thượng Tọa Tuệ Sỹ. Rất nhiều vị có học vị tiến sĩ như Thiền sư Trí Siêu, Thượng Tọa Nhật Từ, vv… Có lẽ, quý Ngài ấy không quan tâm đến những cuốn sách bình thường như Mandala này. Chỉ có người sơ căn, trí thiển như tôi mới tiếp cận, luận bàn và chấp bút mà thôi. Ông đến Việt mà phát biểu theo thiên kiến mơ hồ, không có cơ sở kiểm chứng rằng: - “Ngài là chủ hết thảy đạo sư”. Những lời thuyết giảng như vậy, được ghi lại thành sách, người ta sẽ cho rằng ông Gyal Wang là, nói theo lời dân gian, hơi thô một chút: “Điếc không sợ súng”. “Người ngu biết mình ngu
Quý thầy, quý cô thân, Nhìn hình ảnh trong cuốn Mandala của ông Gyal Wang thuyết giảng và tùy thuận in ra, tôi thấy quý vị đến dự pháp hội Quán đỉnh và nghe ông ta thuyết giảng khá đông đảo. Tôi có một vài suy nghĩ gởi đến quý vị. Phật giáo Việt đã hơn 2000 năm lịch sử truyền thừa. Các tông phái như Thiền Tông, Tịnh Độ tông cũng như Mật Tông đã hiện diện khắp nơi trên đất nước. Các pháp môn tu tập như Thiền quán, Sổ tức quán, và quán tưởng cảnh giới Cực Lạc niệm Phật hay trì danh niệm Phật đều được các cao Tăng truyền dạy khá đầy đủ, cũng có các vị dạy phương thức trì chú rất nghiêm mật trong sách vở cũng như hướng dẫn trực tiếp. Quý vị đã gia công thực hành chu đáo hay chưa? Tôi thấy trong hình có tính chất phô trương, thấy quý thầy, quý cô hương hoa tiếp rước, nghe giảng và thọ pháp quán đỉnh với ông Gyal Wang khá đông (h.t 190 - 215) Xin thưa rằng, ông ta là một người Tăng chẳng ra Tăng, tục chẳng ra tục, hình tượng giống như một giáo sĩ Bà La Môn. Đệ tử của Phật không có vị Tăng nào tóc dài và pháp phục sặc sỡ, nhiều màu sắc như thế. Quý vị pháp phục trang nghiêm (h.t 190), cúi đầu thọ pháp như vậy, có cảm thấy tổn thương Tông Môn và Thầy Tổ chăng?!!! Vẫn biết Phật Tính không có Nam Bắc, Đông Tây nhưng khi truyền pháp phải có lý sự viên dung, mới có thể thành tựu đàn tràng. Nếu quý vị là Tỳ Kheo, khi thọ giới thì Giới Thể và Giới Tướng đã cụ túc, gọi là Cụ Túc Giới, không thể thọ thêm giới pháp nào khác nữa. Giả dụ ông ta là một Bồ Tát hóa thân, thì phải “Trục loại tùy hình, ứng hiện sắc thân”. Nghĩa là ông ta phải thế phát, mặc pháp phục một vị Tăng, đệ tử Phật. Theo tôi, quý vị nên trở về Bản Môn, “hồi quang phản chiếu”, kiểm thúc thân tâm, phụng hành theo lời Thầy Tổ dạy:“Nội cần khắc niệm chi tâm, ngoại hằng bất tranh chi đức”, viễn ly các ác pháp như tham, sân, si… Chọn một pháp môn thích hợp với căn cơ mình, hành trì bất thối chuyển. Có công phu bất thối, thì sẽ có kết quả như sở nguyện, sở cầu, không cần phải tìm kiếm bên ngoài đâu xa. Thọ pháp với ông Gyal Wang một trăm lần đi nữa, cũng như nước xuôi qua cầu, chẳng có tác dụng gì đâu! Phương ngôn có câu: “Phật ở nhà không thiêng”, quý vị hãy chiêm nghiệm ý nghĩa trong câu này. Vì danh dự Tông Môn, Thầy Tổ, quý vị hãy coi đây là lời của một pháp lữ, không có ý thức dạy đạo, dạy đời. Xin quý thầy, quý cô hãy thức tỉnh và cảm thông. Nếu gặp người hiền trí Chỉ trách điều lỗi lầm Hãy tha thiết cầu thân Như người chỉ kho báu Kinh Pháp cú Tịnh Minh dịch Đến đây, xin được tiếp chuyện với hai vị học giả Nguyễn Tường Long và Vô Úy. Hôm nay hân hạnh được gặp quý vị trên văn đàn “Mandala” Rất tuyệt vời, quý vị là những nhà biên tập và dịch thuật “xuất sắc”, văn chương có cú pháp chặt chẽ, bóng bẩy, gợi cảm như nước chảy, mây trôi. Sau đây, tôi xin trích một vài câu, một số đoạn trong cuốn Mandala, ít câu trong bài pháp thoại để chứng minh và cùng thưởng thức: - “Bậc Toàn Tri Tối Tôn Quý – Đức Pháp Vương Gyal Wang Drukpa đời thứ XII” - “Còn hạnh phúc nào hơn! Trong biển khổ trầm luân vô định, thật may mắn cho những ai được quy y tu học dưới sự hướng đạo của bậc Thầy Tôn Quý, Đức Pháp Vương Gyal Wang đời thứ XII, Bậc Khai Sáng, lãnh đạo truyền thừa Drukpa quang vinh, hóa thân chân thật của Bồ Tát Quán Thế Âm.” - “Thật may mắn cho đất nước Việt Nam nói chung, Phật Tử Việt Nam nói riêng, đã có phúc duyên ba lần được Ngài thăm viếng, trao truyền quán đỉnh, khẩu truyền và trực tiếp hướng đạo, dưới ân đức gia trì của Đức Pháp Vương Gyal Wang Drukpa.” - “Ngài là bậc thầy giác ngộ, là hóa thân của chư Phật, chư Bồ Tát…xin quý Phật Tử hãy uống cạn dòng sữa pháp ngọt ngào, từ trái tim thấm đậm yêu thương của vị Bồ Tát để khôn lớn, để trưởng thành…” (Những đoạn trích trên đây trong “lời mở đầu” sách Mandala của Vô Úy) Xin tiếp tục: - “…quán tưởng bậc Thầy đang truyền quán đỉnh cho chúng ta chính là Phật Dược Sư.” (t 27) (Đây là phương thức tự thần thánh hóa của ông Gyal Wang Drukpa) Thêm nữa, ở trang 28, ông ta lại giảng một cách thiếu căn cứ: - “… trong Kinh thừa không có đề cập đến phương pháp quán tưởng này…” Để có một cái nhìn tổng thể, tôi xin trích thêm một số câu trong bài pháp thoại: - “Ngài là chủ hết thảy Đạo Sư.” Có người khi đọc cuốn Mandala và bài pháp thoại trên, gạch đỏ dưới những dòng đã trích trên, đến với tôi nói rằng: “Chắc Nguyễn Tường Long, Vô Úy và ông Gyal Wang đã bị bệnh hoang tưởng hay loạn tưởng nặng rồi. Cần chữa trị mới được.” (Bài này có thể là một liệu pháp). Tôi thì không nghĩ như thế, song tưởng cũng nên ghi lên đây lời của ông Jean Claude Carrière (*) tán thán Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV, trong cuốn “sức mạnh của đạo Phật” cho quý vị học tập để khi có dịp, viết hiện thực hơn, chứ không viết theo kiểu phóng đại, tô màu mang hình thức quảng cáo, người trí coi thường. “Tôi sinh năm 1931, hơn Ngài (Đức Đạt Lai Lạt Ma) 4 tuổi... Ngài là một đứa trẻ được chỉ định một cách huyền bí vào chức trách mà hiện nay Ngài đang nắm giữ, ấy vậy mà đôi khi, tôi có cảm giác rằng, người đàn ông đang đàm thoại với tôi, khi thì tươi cười, lúc lại đăm chiêu và thường thân mật nắm tay tôi, phải hơn tôi đến hai hoặc ba ngàn năm tuổi. Ngài mang trong mình cả một châu lục tư tưởng, hình ảnh, âm thanh, tình cảm của ngàn xưa, được duy trì qua thiền quán hàng ngày và vì thế mà luôn sống động” (t94 sđd) Đọc đoạn văn trên, ông Jean Claude Carrière không đề cập đến huyền thoại, huyền ký hay thần thánh gì cả. Nhưng tôi, cũng như người Tây Tạng, luôn thấy Ngài là một vị Phật sống. Riêng quý vị thì lại thổi phồng, cường điệu nhân vật Gyal Wang với nhiều nét thần thánh. Người có chánh tri kiến thì khó có thể tin tưởng và người sơ cơ lại mù quáng, mê muội tin theo… Quý vị nên đọc cuốn “Tự truyện Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV”, để thấy hội đồng Lạt Ma Trưởng Lão đi tìm Đức Đạt Lai Lạt Ma hóa thân một cách thiết thực và có kiểm chứng được. Và cũng nên đọc cuốn “Các Lạt Ma hóa thân”của Ngài Lobsang Ramba. Đây cũng là tự truyện của Ngài Lobsang Ramba. Ngài là con thủ tướng Tây Tạng thời Đức Đạt Lai Lạt Ma XIII. Ngài xuất gia lúc 7 tuổi. Lobsang Ramba được Đức Đạt Lai Lạt Ma XIII chỉ định luyện thần nhãn và học y khoa để sau này làm thị giả cho Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV lưu vong (các Ngài Trưởng Lão Tăng đã tiên tri như thế). Hai cuốn sách này cũng có nhiều điểm huyền bí, nhưng rất hiện thực và tin tưởng được. Tất nhiên, tôi rất kính ngưỡng Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV và các đệ tử của Ngài, riêng các vị Lạt Ma ở Tây Tạng hiện nay ngoài tri kiến của tôi… Về sự truyền thừa của Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV, “lược sử Phật Giáo Ấn Độ” của Ngài Thích Thanh Kiểm ghi nhận như sau: “Các phái kế thừa của Ngài Atisha, sau dần dần loại bỏ giáo lý Hiển Giáo, chỉ chú trọng ở giáo lý Mật giáo, đi vào lối tác pháp cực đoan của Kim Cương thừa, nên Mật Giáo dần dần bị trụy lạc, tức Mật Giáo đi vào con đường dị đoan của Tà đạo… May có Ngài Tôn Khách Ba (Tson Kha Pa) cải cách Mật Giáo. Ngài nghiêm trì giới luật, đưa hệ thống Mật Giáo thành một tổ chức mới. Hệ thống phái cải cách này, gọi là Hoàng Mạo phái (phái Mũ Vàng). Còn phái cũ gọi là Hồng Mạo phái (phái Mũ Đỏ. Đúng rồi, ông Gyal Wang thuộc phái Mũ Đỏ này) Trước khi viên tịch, Ngài Tôn Khách Ba đem giáo pháp di chúc cho hai đệ tử Thượng thủ là: Da Lai Blama (Đạt Lai Lạt Ma) và Pan Chen Blama (Ban Thiền Lạt Ma).” (trang 243 – sách lược sử Phật Giáo Ấn Độ) Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV thuộc dòng truyền thừa này. Qua những phần đã bàn luận trên, tôi có vài dòng tổng kết ngắn gọn như sau: Dựa trên 32 hiện tướng của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát trong phẩm Phổ Môn chúng ta thường tụng, nhiều người lạm xưng là Quán Thế Âm hiện thân, Quán Thế Âm hóa thân. Nhưng trên thực tế, Thật tướng đức Quán Thế Âm không thấy, Tự tánh đức Quán Thế Âm không thấy thể hiện, chỉ thấy những người vì danh, vì lợi, lạm dụng phô trương, quảng cáo mà thôi. Chúng ta hãy nghe Ngài Tuyên Hóa giảng về tự tánh Quán Thế Âm: - “Có một số người nói họ hành đạo Bồ Tát, nhưng đúng ra là họ cốt biểu diễn cho bà con thấy. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói ra, họ đều phô trương cho mọi người thấy chứ không phải chính họ” (nghĩa là không thực hành tự tánh Quán Thế Âm gì cả). - “Người tu hành hãy hiểu rõ “sai một ly, đi một dặm”, phải tự nhắc mình dụng công đi đúng hướng, tránh rẽ ngang, khỏi đi vào đường bàng môn ngoại đạo và lâm vào tình trạng tà tri – tà kiến. Phải luôn giữ Chánh Tri Kiến thì chánh niệm mới hiện tiền”. Về Mật Giáo và Kim Cang Thừa, tôi không hiểu biết nhiều, xin ghi nhận thêm vài đoạn trong cuốn “Lược sử Phật Giáo Ấn Độ” của Ngài Thích Thanh Kiểm, trang 233, phần cuối trang để chúng ta cùng tham cứu: “Hệ thống “Chân Ngôn thừa” và “Kim Cương thừa” (Vajrayana) của Mật Giáo sau khi xuất hiện, thì tư tưởng Mật Giáo phát triển mạnh mẽ trên lãnh thổ Ấn Độ. Trong hai hệ thống này, “Chân Ngôn thừa” thì chú trọng phần lý luận, nên kém phát triển ở phương diện thực tế, trái lại “Kim Cương thừa”, chú trọng phần thực tế, nên kém phát triển ở phương diện lý luận. Từ khoảng thế kỷ X trở về sau, vì “Kim Cương thừa” kết hợp với phái “Sàkta” của Ấn Độ Giáo (*), nên phái này bày đặt ra nhiều lối hành pháp theo tà giáo, dần dần đi vào vòng đọa lạc, lấy chủ nghĩa khoái lạc, dục vọng cho là diệu lý chí nhân, làm mất hẳn cái bản lai chân tướng của Phật Giáo”. “…Sự tướng của Mật Giáo như các cách tụng thần chú, quán Du Già vv… Không phải là lối tác pháp đặc biệt của Mật Giáo mà cũng là chịu ảnh hưởng tập tục cổ truyền của dân tộc Ấn Độ và Bà La Môn giáo. Thí dụ như pháp Thiền định của Phật Giáo thì chú trọng ở chỗ đạt tới trí tuệ, nhưng phép quán Du Già của Mật Giáo lại chú trọng ở mục tiêu cầu phúc, trừ tai hoạ cho thế gian”. Sau hết là sự quan hệ mật thiết giữa phái Sàkta (tính lực phái) của Ấn Độ Giáo, và phái “Kim Cương thừa” (Vajrayana) của Mật Giáo. Nguyên lai phái Sàkta thì sùng bái nữ thần Durga, nghi thức của phái này rất bí mật, có nhiều trò ma thuật, nhiều hình thức dâm đãng. Sau lối hành pháp của phái này lạm nhập vào lối hành pháp của “Kim Cương thừa” nên phái Kim Cương thừa dần dần bị đọa lạc vào vòng tà đạo, và cũng là nguyên nhân đọa lạc của Mật Giáo. Sự giao thiệp giữa Mật Giáo và Ấn Độ giáo cứ mỗi ngày mỗi rõ rệt, một mặt thì Mật Giáo tiếp nhận các yếu tố hành pháp của Ấn Độ Giáo, một mặt thì Ấn Độ Giáo tiếp nhận các lối hành pháp của Mật Giáo, nên hai giáo phái trở thành một trạng thái hỗn hợp khó thể phân biệt rõ ràng. (t231 – 232) Để đúc kết bài nhận định này, tôi ghi lên đây lời phê ngắn gọn, súc tích của Hòa Thượng Trí Quang, khi Ngài dịch và giới thiệu tập “Đại Thừa Khởi Tín Luận” của Ngài Mã Minh để chúng ta hãy cùng suy ngẫm: “Khi Mật Tông thịnh hành thì Đại Thừa trở thành tào tạp.” Tôi là người có căn sơ, trí thiển, “Lời quê góp nhặt dông dài”, luận bàn có chỗ nào “bất tương ưng”, xin quý vị cao minh hỷ xả. “Đạo khả đạo phi thường đạo” Lão Tử “Mai sau tín chủ nào nghe Huế, mùa An Cư Tân Mão, 2011 THÍCH NGUYÊN LIỄU Kính bút. Chú thích: (*) Jean Claude Carrière, người viết cuốn sách “Sức mạnh của Đạo Phật”, là nhà văn đồng thời là nhà soạn kịch, nhà viết kịch bản phim. .. Ông đã viết kịch bản cho hơn 60 bộ phim và là nhà văn có khối lượng tác phẩm đồsộ. Năm 1983, ông đạt giải thưởng César dành cho phim có kịch bản hay nhất. Với những đóng góp nghệ thuật, ông đã được nhà nước Pháp tặng huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh. (*) Bà La Môn Giáo, Ấn Độ Giáo và Hindu là một, do biến thiên của từng thời đại mà có tên gọi khác nhau. (*) Tha phương thử giới Trục loại tùy hình Phương này, phương kia, tùy hình thể chúng sanh mà Bồ Tát ứng hiện sắc thân cho phù hợp để diễn dương diệu pháp. |