Ý Nghĩa Của Chân Ngôn Thần Chú Trong Việc Chữa Lành

27/10/201012:00 SA(Xem: 30686)
Ý Nghĩa Của Chân Ngôn Thần Chú Trong Việc Chữa Lành

Ý NGHĨA CỦA CHÂN NGÔN THẦN CHÚ
TRONG VIỆC CHỮA LÀNH
Vô Úy

drukpa-ducphapvuong-002-contentChân ngôn là một đơn âm hoặc chuỗi âm thanh đầy năng lực, những âm thanh này chứa đựng hàng loạt sóng âm banăng lượng. Khi trì tụng, chân ngôn không chỉ giúp tiêu trừ bệnh tật, phiền não, nghiệp chướng mà còn có năng lực kết nối, hợp nhất tâm chúng ta với những tầng tâm thức cao hơn. Chân ngôn hay thần chú như vậy là chìa khóa trực tiếp giúp hiển lộ vũ trụ pháp giới bên ngoài và bên trong, là công cụ nhanh chóng, nhẹ nhàng, hiệu quả để tiếp cận những kênh năng lượng linh thiêng từ các chiều tâm thức cao hơn. Công lực của chân ngôn phụ thuộc vào trạng thái thiền địnhnội chứng của bạn và đặc biệt vào sự hướng đạo chỉ dẫn từ một bậc Thầy tâm linh giác ngộ.

Chân ngôn thần chú là sự kết hợp của các chữ chủng tử linh thiêng phát ra những năng lượng tâm linh tích cực, một chân ngôn hay còn gọi là một Mantra không phải là lời cầu nguyện mà là bản chất sâu kín của thực tại nên đôi khi người ta trì tụng như là tán tụng. Trong tiếng Phạn, từ "Man" là "suy nghĩ", trong khi từ "Tra" có nghĩa là "giải phóng bản thân khỏi thế giới vật chất".Việc kết hợp nghĩa hai từ này tạo thành "Mantra" có nghĩa là tư tưởng được giải thoátbảo vệ hay còn gọi là Bảo hộ tâm.

Chân ngôn bí mậtlinh thiêng diễn đạt những âm thanhtinh túy năng lượng cơ bản để mang lại sự hài hòa của những yếu tố giữa thân và tâm.Trì tụng một chân ngôn đem lại năng lượng chữa lành kỳ lạ và giúp chúng ta đạt được sự cân bằng giữa thân và tinh thần, giống như thức ăn cung cấp cho cơ thể thì chân ngôn thần chú nuôi dưỡng chữa lành tâm hồn cho mỗi chúng ta. Theo cách này, chân ngôn chính là sự hỗ trợ tinh thần đầy năng lực, nó không chỉ là những âm thanh theo những quy ước mà là sự cộng hưởng những năng lượng nguyên sơ vi tế đã sẵn có trong mỗi chúng ta. Khi trì tụng chân ngôn sóng âm ba được cộng hưởng phát ra những năng lượng chữa lành nhẹ nhàng khắp thân tâm chúng ta. Diễn đạt dưới góc độ tâm linh, chân ngônphương tiện giao tiếp, kết nối của Bản Tôn, chư Phật và Bồ Tát với chúng sinh để có thể đem lại sự tịnh hóa nghiệp chướngchứng ngộ cho hết thảy vạn loài hữu tình.

Về cách thức, nói chung, người mới trì tụng chân ngôn đầu tiên nên trì tụng để nghe rõ âm thanh mình trì tụng để sóng âm ba của chân ngôn phát ra lan tỏa sâu hơn vào tim và cuối cùng chúng ta có thể an trụ trong sự an tịnh, để siêu thanh bên trong tự nhậm vận hoạt động. Trên quan điểm thực hành, điều này vô cùng quan trọng.

Có một số chân ngônchúng ta phải trì tụng lặng lẽ trong tự thân. Tuy nhiên, có một vài chân ngôn không được phép trì tụng nếu không được nhận quán đỉnh hoặc khẩu truyền từ bậc Kim cương Thượng sư. Trong trường hợp này, chúng ta cần đón nhận sự hướng đạo chính thức về cách sử dụng chân ngôn. Sở dĩ bậc Thầy tâm linh cần truyền trao chân ngôn thần chú cho đệ tử vì khi bậc Thầy giác ngộ tán tụng khẩu truyền cho đệ tử mình, cũng là ban truyền dòng ban phúc gia trì không gián đoạn để các đệ tửnăng lực gia trìtiếp tục thực hành chân ngôn đạt được thành tựu. Nhờ vậy, năng lựccông đức tu trì chân ngôn sẽ tăng trưởng theo cấp số nhân. Trong thiền định Phật giáo, nhiều thứ có thể được sử dụng làm đối tượng của thiền định như hơi thở được sử dụng để nhiếp tâm tránh niệm, việc tỉnh giác lúc đi được sử dụng làm thiền định đi, những cảm xúc được sử dụng làm sự tập trung trong sự phát triển của lòng từ bi và quán tưởng hình ảnh và đối tượng được sử dụng trong việc thiền quán. Chân ngônâm thanh, từ hay cụm từ cũng được sử dụng là đối tượng của thiền định, âm thanh của chân ngôn có thể được trì tụng to hay trì tụng thầm.

Chân ngôn liên quan đến các yếu tố lịch sử cụ thể hay các Bản Tôn nguyên mẫu hay cũng có thể khôngliên quan những điều trên. Ví dụ chân ngôn liên quan đến Đức Phật lịch sử là: "Om muni muni mahamuni Shakyamuni svaha", chân ngôn liên quan đến Bản tôn Đức Avalokiteshvara Quán Thế Âm Bồ Tát là "Om mani padme hum", hay Chân ngôn Prajnaparamita Bát Nhã Ba la mật "Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha" không chỉ liên quan với một bậc giác ngộ mà còn với một bộ kinh nổi tiếng là kinh Bát Nhã ba-la-mật (trí tuệ hoàn hảo).

 Vô Úy





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
28/10/2011(Xem: 15911)
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :