- Dẫn Đề Hội Thảo
- Báo Cáo Tổng Hợp Đề Tài Tham Luận
- Tiểu Sử Bồ Tát Thích Quảng Đức (1897 - 1963)
- Một Số Tư Liệu Mới Về Bồ Tát Thích Quảng Đức - Lê Mạnh Thát
- Ngọn Lửa Quảng Đức - Tỷ Kheo Thích Trí Quang
- Ánh Đuốc Quảng Đức - Hoà Thượng Thích Đức Nhuận
- Vụ Tự Thiêu Của Hòa Thượng Thích Quảng Đức - Hòa Thượng Thích Đức Nghiệp
- Ngọn Đuốc Đại Hùng Đại Lực Đại Từ Bi Thích Quảng Đức Soi Sáng Con Đường Đạo Pháp Dân Tộc - Nguyễn Chính,
- Bồ Tát Quảng Đức Vị Pháp Thiêu Thân Đối Chiếu Qua Kinh Điển Nam Tông Và Bắc Tông - Tâm Diệu
- Từ Ngọn Lửa Thích Quảng Đức - Nguyễn Quốc Tuấn
- Ánh Đuốc Quảng Đức Và Một Vài Điều Chưa Nói Về Phật Đản 1963 - Hoàng Nguyên Nhuận
- Sức Mạnh Bất Bạo Động Nhìn Từ Ngọn Lửa Thích Quảng Đức - Lê Cung *
- Từ Một Kỷ Niệm Xa - Cao Huy Thuần
- Huế - Nơi Mở Đầu Phong Trào Phật Giáo Miền Nam Việt Nam Năm 1963 - Lê Cung *
- Sự Hậu Thuẫn Của Miền Bắc Đối Với Phong Trào Phật Giáo Miền Nam Việt Nam Năm 1963 - Triệu Xuyên * Hoàng Chí Hiếu **
- Ngọn Lửa Quảng Đức Và Biến Cố Phật Giáo 1963 Dưới Cái Nhìn Của Thế Giới - Bùi Kha
- Sáng Mãi Niềm Tin Quảng Đức - Thạc Sĩ Phạm Văn Cảnh
- Ngọn Lửa Và Trái Tim Bồ Tát Quảng Đức Sáng Ngời Bất Diệt - Tuệ Khương
- Phong Trào Phật Giáo Miền Nam Đấu Tranh Chống Chính Quyền Ngô Đình Diệm Trước Năm 1963 - Lê Cung – Phan Văn Hoàng
- Hoà Thượng Quảng Đức, Biểu Tượng Về Tính Dân Tộc Và Đạo Pháp Của Phật Giáo Việt Nam - Ts.trần Hồng Liên
- Từ Rạch Cát Tới Toà Đại Sứ - Tỷ Kheo Thích Trí Quang
- Toàn Trị Và Ngoại Thuộc - Cao Huy Thuần
- Tuyệt Thực Tại Chùa Từ Đà M Hồi Ký Của Bác Sĩ Erich Wulff Minh Nguyện Dịch
NGỌN LỬA VÀ TRÁI TIM
Lê Mạnh Thát Chủ biên
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM 2005
BIỂU TƯỢNG VỀ TÍNH DÂN TỘC VÀ ĐẠO PHÁP
CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TS.Trần Hồng Liên
Đã
42 năm trôi qua kể từ ngày hoà thượng Thích Quảng Đức
vị pháp thiêu thân. Nhưng ngọn lửa của tinh thần đấu tranh
cho Đạo pháp và cho Dân tộc của hòa thượng như vẫn
còn cháy mãi! Nhân dân trên thế giới và Việt Nam, những
người con Phật cũng như những người không theo đạo đều như bùi ngùi nhớ lại hình ảnh ngọn đuốc rực cháy
trên thân thể Người vào năm 1963 ấy. Điều gì đã làm nên
sự kỳ diệu đó ? Đây có phải chỉ là những phản
ứng chống lại sự kỳ thị về tôn giáo của một chế
độ độc tài? Có phải đó chỉ là “tiếng nói “ thay cho
những đòi hỏi về một sự công bằng trong chính sách đối
với các tôn giáo?? Tìm hiểu những câu hỏi trên chính
là nêu lên được những đóng góp lớn lao, những ý nghĩa
sâu sắc từ hành động vì đạo pháp và cho dân tộc
của hoà thượng Thích Quảng Đức; cũng chính là góp
phần chỉ ra được bản sắc của dân tộc Việt Nam
và của Phật giáo Việt Nam.
1.Trở lại với thời điểm sôi động của đất nước năm
1963, từ nguyên cớ hạ cờ Phật giáo của chế độ độc
tài Ngô Đình Diệm ở Huế để thấy rõ một điều rằng
sự độc đoán, tính đố kỵ và lòng vị kỷ của những
người cầm đầu chế độ ấy đã lên đến đỉnh điểm.
Việc hạ cờ Phật giáo chỉ là một hành động cuối cùng,
là điểm nút cuối cùng để bộc lộ hết tính vị kỷ, chấp chặt lấy đạo pháp của một chế độ ! Chính
sự chấp pháp ấy đã đưa đẩy chế độ độc tài Ngô Đình
Diệm mau chóng bị kết thúc từ những hành động mù quáng
của mình. Ngô Đình Diệm, với chính sách phân biệt đối xử, xem đạo của mình mới thật là đạo, được ban
cho đặc quyền, đặc lợi. Còn các đạo khác, dù có lịch
sử 2.000 năm , dù có hàng chục triệu tín đồ, vẩn
bị khinh miệt! Với Đạo dụ 10, sự phẩn uất của tăng
ni, phật tử càng lên cao. Chính quyền đã đàn áp Phật giáo
bằng những phương tiện quân sự và phương pháp tàn bạo. Hàng chục tăng ni Phật tử, rồi đến hàng trăm tăng
ni sau đó bị bắt bớ và bị giết hại. Ngọn sóng đàn
áp cứ thế mà ngày càng bùng lên mạnh mẽ. Người dân sống ở Huế vào năm 1963 không thể quên được hình ảnh
thảm khốc từ những chiếc xe tăng của Diệm càn lên những
người có đạo vô tội. Máu đã đổ và hận thù như
đã siết chặt thêm. Những người con Phật dùng vũ khí từ tinh thần Bi -Trí -Dũng để chống trả! Trước
những đàn áp bạo tàn và khốc liệt, những người con Phật
đã sử dụng thế Nhu của mình để chống trả lại thế
Cương của chế độ Diệm . Lấy thân mình thay cho tiếng nói
cảnh tỉnh, như những gáo nước lạnh dội vào ngọn
lửa của sự thù hận và vô minh. Những ngọn đuốc
đượïc đốt lên từ thân thể, hình hài của mỗi người con Phật như từng ngọn đèn thắp sáng, soi rọi
tận cùng vào sâu thẳm tâm hồn đen tối, độc tài của một
chế độ. Và cứ thế liên tục, hết người này đến
người khác…sao cho đến một ngày hành động vị pháp thiêu
thân ấy đã trở thành một tiếng gọi vang vọng, làm rúng
động lương tri của những người yêu chuộng hoà bình trên
thế giới. Đỉnh điểm ấy, ngọn sóng trào dâng tột đỉnh
ấy chính là hành động tự thiêu của hoà thượng Thích Quảng
Đức, là tiếng chuông vang vọng ngân xa, lan tỏa ra ngoài
phạm vi một quốc gia và trở thành bất diệt.
2. Hoà thượng Thích Quảng Đức, tên đời là Lâm Văn Tuấn, quê ở Khánh Hoà, hoà thượng đã trụ trì chùa Quán thế Aâm trước khi tự thiêu. Trước tình thế Phật giáo đồ bị sát hại thảm khốc, đã phát lời đại nguyện rằøng: “ Nhận thấy Phật giáo nước nhà đương lúc ngửa nghiêng, tôi là một tu sĩ, mệnh danh là trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để Phật pháp tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo…Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc” ( Lời nguyện tâm huyết, Tỳ kheo Thích Quảng Đức) .
Từ nhận thức được nung nấu sau bao cơn đàn áp bạo tàn của Diệm, hoà thượng Quảng Đức, đã viết : là trưởng tử của Như Lai, được thấm nhuần lẽ đạo, nên không thể ngôi yên. Hoà thượng hiểu rõ rằng, với một chế độ độc tài như vậy, với những con người có hành động thiếu đạo đức và không có nhân bản như vậy, đất nước sẽ không thể yên, lòng dân sẽ không thể được bình ổn, an lạc và đạo pháp sẽ không thể được bảo tồn ! Vì vậy, thực hành lời nói ấy, quyết đem lại một sự cảnh tỉnh lớn lao, làm thay đổi nhận thức con người, từ vô minh đến giác ngộ, phải bằng việc hy sinh chính bản thân mình. Lấy sự xả thân, tinh thần vô uý thí để đối lập lại cường quyền, bạo lực. Làm được điều đó, thực hành được suy nghĩ trên, đó là điều không dễ dàng, không phải ai cũng làm được. Do đâu hoà thượng Quảng Đức có được quyết tâm đó?
3. Trả lời câu hỏi trên chính là đi tìm lại cội nguồn của tinh thần dân tộc. Là người dân Việt, không ai không yêu nước. Tinh thần yêu nước này ngày càng được nhân lên cao hơn chính từ những cuộc ngoại xâm . Những người dân nước Việt đã qua thử thách trước nguy cơ xâm lược, từ đó tinh thần yêu nước càng như được củng cố. Tinh thần ấy còn được nhiều tấm gương trong lịch sử in đậm thêm qua quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước. Từ đó, hình ảnh của người dân ra biên cương chống giặc khi có ngoại xâm là hình ảnh đẹp đẽ, được lập đi lập lại trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, không loại trừ những người theo đạo Phật , với tư tưởng nhập thế, cứu đời, giúp đời. Không phải ngẫu nhiên mà có được một hoà thượng Thích Quảng Đức của thế kỷ XX, bởi vì đã có trong lịch sử hàng trăm năm trước , những thiền sư Vạn Hạnh, Khuông Việt….đã biết đem tinh thần Phật pháp ra áp dụng vào đời sống hàng ngày. Những tấm gương sáng ấy chính là bài học muôn đời về tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam , là sự thể hiện việc đem đạo vào đời, là tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam. Nó được nhân rộng, kế thừa và tiếp nối liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vì vậy không phải ngẫu nhiên mà có được những con người biết hy sinh thân mệnh mình cho đạo pháp , cho dân tộc.
Mặt
khác, còn chính trên cơ sở của dòng Phật giáo Việt
Nam, nổi bật từ thời các vua nhà Lý , nhà Trần…. đã biết đem thập thiện đến từng gia đình, đã biết cụ thể
hoá giáo lý nhà Phật trong điều kiện đất nước Việt Nam, đã bằng chính hành động từ bỏ ngai vàng, danh lợi và những
ham muốn vị kỷ cá nhân để trao truyền cho những thiền
sư Việt Nam một tinh thần xã thân cao quý . Tuỳ từng
thời điểm lịch sử, tuỳ vào những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau mà các thiền sư đã có những ứng xử khác nhau,
những cống hiến cho Đạo pháp và cho Dân tộc khác nhau. Nhưng
trên hết , vẫn là lòng yêu nước nồng nàn, là tình yêu thương nhân dân sâu đậm…Tình thương đó, lòng yêu
người đó đã tạo thành, đã giúp phát khởi nên một
quyết tâm cao độ, một đại nguyện vang lừng, đó là tinh
thần vô uý thí.
Chính
từ sự dâng hiến tất cả, không loại trừ ngay cả bản
thân mình, của những thiền sư trong lịch sử và của
hoà thượng Quảng Đức ở thế kỷ XX đã làm cho sự
cống hiến ấy trở thành bất tử, bởi vì một khi đã cho
đi hết thì sẽ nhận được tất cả!
4. Bài học về tinh thần xã thân này, được đưa ra trong giai đoạn đạo pháp đang bị chia rẽ, đất nước đang bị ngoại xâm….càng có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cái chết của hoà thượng không chỉ nhằm cảnh tỉnh những người trong chế độ độc tài nhà Ngô, mà sâu sắc và lớn lao hơn, nó còn mang ý nghĩa thời đại. Đó còn là tiếng chuông tỉnh thức cho những người con Phật còn đang thờ ơ trước sự hưng vong của đạo pháp, của quốc gia … kêu gọi họ cần nhanh chóng đoàn kết lại, một lòng chung sức cứu lấy nước nhà. Bởi vì tổ quốc còn, đạo pháp mới có thể còn tồn tại được! Đánh giá cao về hành động tự thiêu của hoà thượng Quảng Đức, GS. Trần Văn Giàu đã cho rằng: “ Đó là một hành động chống chiến tranh, là hành động bảo vệ hoà bình, vì Hoà bình mà hi sinh (…) nhà sư là một người yêu nước, Quảng Đức yêu nước theo phong cách một nhà sư “ (1)
5.Tìm hiểu về hành động “ Vị pháp thiêu thân” của hoà thượng Quảng Đức còn là nhằm nêu lên bài học có giá trị lịch sử , có ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Qua cái chết của hòa thượng đã góp phần khơi gợi trong tư duy của nhân dân thế giới, những ngườøi yêu chuộng hoà bình, suy nghĩ kỹ hơn về giá trị đích thực của một đời người. Đó không phải là tính ham sống, sợ chết ; không phải là lòng vị kỷ, độc tài, ham chuộng bạo lực…mà điều vi diệu trong cuộc sống, tạo nên giá trị vĩnh hằng, chân lý tối thượng …chính là tình thương, là lòng dũng cảm, là sự hy sinh cho những điều lớn lao , cao cả, là quyền lợi và sự sống còn của dân tộc, của đất nước, của đạo pháp….Bài học ấy mãi mãi sẽ còn nguyên giá trị , vì nhân dân thế giới đã có được hình ảnh xác thực qua cái chết của hoà thượng , một dấu ấn sâu đậm về con người Việt Nam biết hy sinh cho nghĩa cả, về một đất nước Việt Nam nhỏ bé nhưng kiên cường , bất khuất trước cái xấu, cái vị kỷ, trướùc những mưu toan đen tối nhằm đè bẹp, trấn áp bằng bạo lực của ngoại xâm….Chính từ những ý nghĩa ấy, hoà thượng Quảng Đức đã thực sự trở thành một vị Bồ tát, người luôn hướng tâm hồn mình, thể xác mình cho cuộc đời, cho người đời để cứu giúp và góp phần giác ngộ họ.
6. Những vị Thiền sư Việt Nam, trên đường tiếp nối hướng đi đúng đắn và có ý nghĩa của Phật giáo Việt Nam, đã “ nói” lên suy nghĩ của mình bằng hành động. Bồ tát Thích Quảng Đức đã hoà nhập thực sự vào dòng chảy nhập thế của Phật giáo Việt Nam, đã trở thành biểu tượng cho tính dân tộc và đạo pháp của Phật giáo Việt Nam. Bồ tát Thích Quảng Đức vì vậy đã trở thành bất tử. Trái tim để lại cho đời của bồ tát Quảng Đức vì vậy đã trở nên bất diệt!
(1) Trần Văn Giàu: Thích Quảng Đức. Tập Văn số 7, 1987, ban VHTW GHPGVN xb, tr. 30.