QUYỂN MỘT
SỰ QUÁN THẤY CỦA ĐỨC PHẬT
VỀ THẾ GIỚI
HOANG PHONG
BIÊN SOẠN và PHIÊN DỊCH
Chương 1
Đức Phật là ai ?
Lời Đức Phật
(Mahā-Parinibbāna Sutta / Bài giảng dài về sự hoà nhập với Nibbāna - DN 16)
Trên đây là lời của Đức Phật nói với một người trọng tuổi là Subhadda, và cũng là người đệ tử sau cùng được Ngài thụ phong trước khi tịch diệt. Câu này được trích dẫn từ bài thuyết giảng Mahā Parinibbāna Sutta / Bài giảng dài về sự hòa nhập với ‘Nibbana’, còn gọi là Kinh Đại-bát Niết-bàn (Dīgha Nikāya - DN 16 - Phân đoạn 5, tiết 62).
Đức Phật là một nhân vật lịch sử, điều đó không có gì để phải nghi ngờ. Ngài sinh ra trên miền Bắc Ấn tại một ngôi làng mang tên là Lumbini (Lâm-tì-ni) trong lãnh thổ của một vương quốc nhỏ. Ngày nay ngôi làng mang tên là Rummindei thuộc lãnh thổ của xứ Népal, nhưng nằm sát với biên giới nước Ấn. Theo các khảo cứu hiện đại nhất dựa vào các tư liệu sử học, thì năm sinh của Đức Phật là khoảng năm -566 và năm tịch diệt là khoảng năm -486, trước Tây lịch. Cách định tuổi bằng phương pháp khoa học thực hiện năm 2013, căn cứ vào các kết quả phân tích bằng phương pháp C14 trên các di vật khảo cổ tìm thấy tại Lumbini, cho biết tuổi của các di vật này là vào giữa thế kỷ thứ VI trước Tây lịch. Kết quả đó phù hợp với sự ước tính dựa vào sử liệu đã được nói đến trên đây. Theo kinh điển thì Đức Phật tịch diệt năm tám-mươi tuổi, một vài học giả và sử gia Tây phương nghĩ rằng có thể là sớm hơn đôi chút, nhưng không có một sử liệu nào chứng minh điều đó.
Ngài là con một vị vua của một vương quốc nhỏ tên là Kapilavastu. Tên của Ngài là Siddhattha Gotama (là tiếng Pali, tiếng Phạn là Siddharta Gotama / Tất-đạt-đa Cồ-đàm) và Ngài cũng được gọi bằng một tên khác là Śākyamuni (Thích-ca Mâu-ni), có nghĩa là ‘Vị thông thái của gia tộc Shakya’, hoặc cũng còn được gọi là Buddha (Đức Phật), chữ này xuất phát tử chữ Bodhi trong tiếng Pali, có nghĩa là sự Hiểu biết rộng lớn và tối thượng. Trong tiếng Phạn thì ngoài ý nghĩa trên đây chữ Buddha còn có nghĩa là sự Tỉnh thức hay sự Giác ngộ. Tóm lại Đức Phật là một con người rất thật, thật như chính chúng ta hôm nay, sự khác biệt duy nhất là Đức Phật là một Con người Hiểu biết, một Con người Thức tỉnh, chúng ta là những kẻ u mê, những con người quờ quạng trong một giấc mơ. Ngài du hành trên con đường của Đạo đức và sự Thật suốt trong năm-mươi-mốt năm, chúng ta thì vật lộn triền miên với khổ đau trong thế giới hiện tượng. Dù phải trải qua hơn hai-mươi-lăm thế kỷ, xuyên qua khắp các vùng lục địa trên hành tinh này, thế nhưng cuộc hành trình xa xôi và lâu dài đó của vị Giác Ngộ vẫn bảo toàn được một nền Đạo đức hữu ích trong cuộc sống và một nền Tư tưởng siêu việt trên phương diện tâm linh, hướng dẫn chúng ta từng bước một trên Con đường rất thật đó.
Thế nhưng thật hết sức lạ lùng, vô số các huyền thoại thật kỳ diệu đã được ghép thêm vào Con người rất thật đó, nâng Con người Thức tỉnh đó lên một cấp bậc siêu việt hơn con người. Thế nhưng cũng thật hết sức lạ lùng, trái ngược với các huyền thoại đó, khi đạt được sự Hiểu biết siêu việt và tối thượng, thì Con người rất thật đó lại hướng bàn tay phải của mình xuống phía dưới, các đầu ngón tay chạm vào mặt đất của hành tinh này để chứng minh cho sự Giác ngộ của mình trên địa cầu này, sự Tỉnh thức của mình trong thế giới này, một sự Giác ngộ vì con người, một sự Tỉnh thức vì tất cả chúng sinh trên hành tinh này.
Dưới đây xin trích dẫn một câu chuyện ngắn thuật lại cuộc đàm thoại giữa hai vị Bà-la-môn là Ārāmadaṇḍa và Mahākaccāna, nói lên sự tỏa rộng của nền Đạo đức và Tư tưởng của Đức Phật trong khung cảnh của thời bấy giờ :
Câu chuyện về một cuộc tranh biện
Vivadanta Sutta - Aṅguttara Nikāya - AN 2.37
(Dựa theo các bản dịch tiếng Anh của Thanissaro Bhikkhu và Bhikkhu Sujato, và bản dịch tiếng Pháp của Rémy)
Tôi từng được nghe như vầy :
« Một hôm, khi vị Mahākaccāna (một vị thầy Bà-la-môn) đang ngụ tại Varaṇā, [một ngôi làng] bên bờ hồ Kaddama, thì có một vị Bà-la-môn khác là Ārāmadaṇḍa tìm gặp vị này. Sau khi trao đổi vài lời xã giao với vị này thì ngồi sang một bên. Sau khi an tọa thì vị Bà-la-môn Ārāmadaṇḍa cất lời hỏi vị Mahāccāna như sau :
– Thưa Thầy Kaccāna, vì nguyên nhân nào, vì lý do nào,đã khiến những người quý tộc (các vua chúa và những người trong hoàng tộc) tranh cãi với những người quý tộc, những người Bà-la-môn (những người thuộc đẳng cấp cao nhất trong xã hội, các giáo sĩ thuộc tín ngưỡng Bà-la-môn) tranh cãi với những người Bà-la-môn, những người chủ gia đình (những người thế tục) tranh cãi với những người chủ gia đình ?
– Này ngài Bà-la-môn Ārāmadaṇḍa, vì nguyên nhân gây ra bởi các sự bám víu, các định kiến, các sự ám ảnh, các sự lệ thuộc cùng các sự trói buộc tạo ra bởi sự thèm khát (say mê)[các sự thích thú] dục tính, đã khiến những người quý tộc tranh cãi với những người quý tộc, những người Bà-la-môn tranh cãi với những người Bà-la-môn, những người chủ gia đình tranh cãi với những người chủ gia đình.
–Thưa Thầy Kaccāna, vì nguyên nhân nào, vì lý do nào đã khiến những người rời bỏ gia đình (những người tu hành) tranh cãi với những người rời bỏ gia đình ?
– Này ngài Bà-la-môn, vì các sự bám víu, các định kiến, các sự ám ảnh, các sự lệ thuộc cùng các sự trói buộc tạo ra bởi sự say mê các quan điểm đã khiến những người từ bỏ gia đình tranh cãi với những người từ bỏ gia đình ? (quan điểm trong trường hợp này là các chủ thuyết triết học, các đường hướng tôn giáo, các nền tảng tín ngưỡng…)
– Thưa Thầy Kaccāna, vậy thì có một vị nào trong thế giới này vượt được lên trên các sự bám víu, các định kiến, các sự ám ảnh, các sự lệ thuộc cùng các sự trói buộc tạo ra bởi sự thèm khát dục tính, và [đồng thời] cũng vượt được lên trên cả các sự bám víu, các định kiến, các sự lệ thuộc cùng các hình thức trói buộc tạo ra bởi sự say mê các quan điểm hay không ?
– Này ngài Bà-la-môn, trong thế giới này có Một Vị vượt được lên trên các sự bám víu, các định kiến, các sự ám ảnh, các sự lệ thuộc cùng các sự trói buộc tạo ra bởi sự thèm khát dục tính, và [đồng thời] cũng vượt được lên trên cả các sự bám víu, các định kiến, các sự lệ thuộc cùng các sự trói buộc tạo ra bởi sự say mê các quan điểm.
– Thưa Thầy Kaccāna, vậy thì Vị ấy là ai trong thế giới này đã vượt được lên trên các sự bám víu, các định kiến, các sự ám ảnh, các sự lệ thuộc cùng các sự trói buộc tạo ra bởi sự say mê các quan điểm ?
– Này ngài Bà-la-môn, nơi vùng phía Tây của một kinh thành mang tên là Sāvatthī (Xá-vệ) có Đấng Thế Tôn, một vị Arahant (A-la-hán) đã thực sự thực hiện được sự Giác ngộ và đang ngụ tại nơi ấy. Này ngài Bà-la-môn, vị Thế Tôn ấy, đã vượt lên trên các sự bám víu, các định kiến, các sự ám ảnh, các sự lệ thuộc cùng các sự trói buộc tạo ra bởi sự thèm khát dục tính, và đồng thời cũng đã vượt lên trên cả các sự bám víu, các định kiến, các sự ám ảnh, các sự lệ thuộc cùng các hình thức trói buộc tạo ra bởi sự say mê các quan điểm ».
Sau khi được nghe những lời nói ấy, thì vị Bà-la-môn Ārāmadaṇḍa, rời khỏi ghế, kéo vai áo ngay ngắn, quỳ đầu gối phải lên mặt đất, chắp hai tay đưa lên cao, hướng về phía kinh thành [Sāvatthī] vái lạy thật kính cẩn, đồng thời thốt lên ba lần câu sau đây:
« Vinh hạnh thay Đấng Thế Tôn, vị Arahant, một vị đã đạt được sự Giác ngộ đích thật ! Vinh hạnh thay Đấng Thế Tôn, vị Arahant, một vị đã đạt được sự Giác ngộ đích thật ! Vinh hạnh thay Đấng Thế Tôn, vị Arahant, một vị đã đạt được sự Giác ngộ đích thật ! Vị ấy, Đấng Thế Tôn ấy đã vượt được lên trên mọi sự bám víu, mọi định kiến, mọi sự ám ảnh, mọi sự lệ thuộc cùng các hình thức trói buộc tạo ra bởi sự thèm khát dục tính, đồng thời cũng vượt được lên trên cả mọi sự bám víu, mọi định kiến, mọi sự ám ảnh, mọi sự lệ thuộc cùng các sự trói buộc tạo ra bởi sự say mê các quan điểm ».
Mẫu đối thoại trên đây giữa hai vị Bà-la-môn cho thấy Đức Phật đã khắc phục được bản năng truyền giống mà còn khắc phục được cả sự bảo vệ các quan điểm của mình, phản ảnh ‘cái tôi’ của mình. Sự sống còn của con người luôn bị chi phối bởi ba thứ bản năng : sinh tồn, truyền giống và sợ chết. Bản năng sinh tồn là bản năng quan trọng hơn cả, tạo ra bản tính ích kỷ, tham lam của cải, đưa đến các hành động vơ vét, lừa đảo, cướp giật, mở rộng hơn là các hình thức chiến tranh xâm lược. Hai bản năng khác gây ra các ảnh hưởng tương đối thu hẹp hơn : bản năng truyền giống tạo ra sự thèm khát dục tính, và bản năng sợ chết tạo ra các hành vi kín đáo bảo vệ sự hiện hữu của mình, ‘cái tôi’ của mình, các quan điểm của mình. Ba thứ bản năng đó kết hợp với nhau tạo ra một sức mạnh thật khủng khiếp đưa đến các sự xung đột và chiến tranh trong gia đình và xã hội, giữa các quốc gia, trong khung cảnh của một dân tộc và cả trong các lãnh vực chính trị và tín ngưỡng. Chiến tranh chưa không bao giờ chấm dứt trên hành tinh này. Thế nhưng nơi phía Tây của một kinh thành mang tên là Sāvatthī, có một Vị đã vượt được lên trên cả ba thứ bản năng ấy. Vị ấy từ bỏ sự sung túc để sống bằng khất thực, từ bỏ sự đam mê dục tính trong khung cảnh gia đình dù vừa sinh ra một đứa con, từ bỏ sự độc đoán của vương quyền để tránh mọi xung đột và tranh cãi với bất cứ ai về bất cứ một quan điểm nào.
Ngoài các phẩm tính và cung cách hành xử trên đây, Đức Phật còn được xem là một con người thật yên lặng, luôn lắng sâu vào sự yên lặng, nhất là trước các vấn đề viễn vông và vô ích. Ngài là một con người vô cùng thiết thực, trực tiếp và cụ thể. Bài giảng dưới đây cho một người đệ tử thường hay thắc mắc, có thể nói lên sự yên lặng sâu xa đó của vị Giác Ngộ, một sự yên lặng vượt lên trên cả sự hiểu biết :
Bài giảng ngắn về các thắc mắc
của Māluṅkya
Cūḷa Māluṅkyovāda Sutta - MN 63
(Dựa theo các bản dịch tiếng Anh của Thanissaro Bhikkhu, Bhikkhu Sujato, Bhikkhu Bodhi, I.B. Horner, và bản dịch tiếng Pháp của Christian Maës)
Tôi từng được nghe như vầy, hôm đó Đấng Thế Tôn đang ngụ cạnh thị trấn Sāvatthī (Xá-vệ), nơi khu rừng thưa Jeta (Kỳ thọ, Kỳ viên), trong tu viện của vị Anāthapiṇḍika (Cấp-cô-độc, một vị phú hộ đứng ra mua đất và xây dựng một tu viện to lớn để cúng dường Đức Phật và Tăng đoàn). Vào lúc đó cũng có một người tu hành đơn độc đang ẩn cư [trong khu rừng này] tên là Māluṅkyaputta (Maluṅkya là họ, putta là con trai trưởng, Māluṅkyaputta có nghĩa là con trai trưởng của một người chủ gia đình tên là Maluṅkya. Cách gọi này là có ý nêu lên một người tu hành còn trẻ), và dòng tư tưởng sau đây đã hiện lên trong tâm trí của người ấy - ‘Các quan điểm mà Đấng Thế Tôn giữ yên lặng (không giải thích, không nêu lên), đặt sang một bên và bác bỏ là :
‘Vũ trụ trường tồn’, ‘Vũ trụ không trường tồn’,
‘Vũ trụ có giới hạn’, ‘Vũ trụ vô biên’,
‘Linh hồn (1) và thân thể là một thứ’, ‘Linh hồn là một thứ và thân thể là một thứ khác’,
‘Sau khi chết một vị Tathāgata (Như Lai) tiếp tục hiện hữu’, ‘Sau khi chết một vị Tathāgata không còn hiện hữu’,
‘Sau khi chết một vị Tathāgata tiếp tục hiện hữu, nhưng cũng không hiện hữu’,
‘Sau khi chết một vị Tathāgata không còn hiện hữu, nhưng cũng không phải là không còn hiện hữu’.
(1) Chữ ‘linh hồn’ nêu lên trên đây là chữ jīva trong bản gốc bằng tiếng Pali, chữ này có nghĩa là sự sống nói chung, nhưng cũng có nghĩa là nguyên lý của sự sống hay linh hồn của một cá thể (life, vital principle, individual soul), là một ý niệm trong Ấn giáo. Hầu hết các bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp đều dịch chữ jīva là « soul» hay « âme» , và các chữ này thì có nghĩa là « linh hồn» trong các tín ngưỡng Tây phương.
Tôi không thể đồng tình [trước các quan điểm đó], tôi không thể chấp nhận [các quan điểm đó trong trường hợp] nếu Đấng Thế Tôn không lột trần được ý nghĩa [của các quan điểm đó]. Vậy tôi phải tìm gặp Đấng Thế Tôn để hỏi cho ra lẽ về việc này. Nếu Đấng Thế Tôn lột trần được ý nghĩa [của các quan điểm]…
‘Vũ trụ trường tồn’, ‘Vũ trụ không trường tồn’,
‘Vũ trụ có giới hạn’, ‘Vũ trụ vô biên’,
‘Linh hồn và thân thể là cùng một thứ’, ‘Linh hồn là một thứ và thân thể là một thứ khác’,
‘Sau khi chết một vị Tathāgata còn hiện hữu’, ‘Sau khi chết một vị Tathāgata không còn hiện hữu’,
‘Sau khi chết một vị Tathāgata còn hiện hữu nhưng cũng không hiện hữu’,
‘Sau khi chết một vị Tathāgata không còn hiện hữu, nhưng cũng không phải là không còn hiện hữu’,
…, thì khi đó tôi sẽ sống cuộc sống thánh thiện (cuộc sống của một người tu hành) dưới sự hướng dẫn của Đấng Thế Tôn.
[Ngược lại], nếu Đấng Thế Tôn không lột trần được ý nghĩa của các quan điểm ‘Vũ trụ trường tồn…, ‘Sau khi chết một vị Tathāgata không còn hiện hữu nhưng cũng không phải là không còn hiện hữu’, thì tôi sẽ từ bỏ việc tu tập để quay lại với cuộc sống thấp kém (tầm thường) [của người thế tục]» .
Vì vậy, khi chiều vừa xuống, ngài Māluṅkyaputta rời khỏi nơi ẩn cư để tìm gặp Đấng Thế Thôn. Khi đến nơi thì cúi đầu vái chào [Đấng Thế Tôn] và ngồi sang một bên (ngồi sang một bên là một công thức nói lên sự tôn kính). Sau khi an tọa thì cất lời hỏi Đấng Thế Tôn như sau: « Thưa Ngài, vừa mới đây trong khi đang ngồi một mình tại nơi ẩn cư, thì dòng tư tưởng sau đây hiện lên trong tâm trí tôi, ‘Vũ trụ trường tồn…, ‘Sau khi chết thì một vị Tathāgata không còn hiện hữu, thế nhưng cũng không phải là không còn hiện hữu’. Đối với các quan điểm đó, Đấng Thế Tôn luôn giữ yên lặng, gạt sang một bên và bác bỏ, [thế nhưng] nếu Đấng Thế Tôn lột trần được ý nghĩa [của các quan điểm đó] thì tôi sẽ sống cuộc sống thánh thiện dưới sự hướng dẫn của Đấng Thế Tôn. [Hoặc ngược lại], nếu Đấng Thế Tôn không lột trần được ý nghĩa [trong các quan điểm đó] thì tôi sẽ xin từ bỏ việc tu tập để quay lại cuộc sống thấp kém [của người thế tục].
« Thưa Ngài, là một vị Thế Tôn, nếu Ngài biết được ‘Vũ trụ là trường tồn’ thì xin Ngài cứ tiết lộ với tôi là ‘Vũ trụ trường tồn’. Nếu Ngài biết được ‘Vũ trụ không trường tồn’ thì xin Ngài cũng cứ tiết lộ với tôi là ‘Vũ trụ không trường tồn’. Thế nhưng nếu Thế Tôn không biết cũng không trông thấy được vũ trụ trường tồn hay không trường tồn, thì đối với một người mê lầm và mù quáng như tôi, thì Thế Tôn cũng chỉ cần đơn giản chấp nhận [nói lên] là ‘Tôi không biết. Tôi không trông thấy’… Nếu Thế Tôn không biết cũng không trông thấy ‘Sau khi chết một vị Tathāgata còn hiện hữu… không còn hiện hữu…, không còn hiện hữu… nhưng cũng không phải là không còn hiện hữu', thì đối với một người mê lầm và mù quáng như tôi, thì Thế Tôn cũng chỉ cần đơn giản chấp nhận [nói lên] là ‘Tôi không biết. Tôi không trông thấy’» .
« Này Māluṅkyaputta, ta chưa bao giờ nói với bạn, ‘Này Māluṅkyaputta, hãy sống cuộc sống thánh thiện (bước theo con đường tu tập) dưới sự hướng dẫn của ta thì ta sẽ tiết lộ (tuyên bố, khẳng định) với bạn là ‘Vũ trụ trường tồn’ hay ‘Vũ trụ không trường tồn’, hoặc ‘Vũ trụ có giới hạn’ hay ‘Vũ trụ vô biên’, hoặc ‘Linh hồn và thân thể là một thứ’, hoặc ‘Linh hồn là một thứ và thân thể là một thứ khác’, hoặc ‘Sau khi chết một vị Tathāgata còn hiện hữu’, hoặc ‘Sau khi chết một vị Tathāgata không còn hiện hữu, hoặc ‘Sau khi chết một vị Tathāgata không còn hiện hữu nhưng cũng không phải là không còn hiện hữu’» .
« Không, thưa Ngài» (Ngài chưa hề trực tiếp khẳng định với tôi về các điều ấy)
« Và trước đây chính bạn cũng chưa hề nói lên với ta, ‘Thưa Ngài, tôi sẽ sống cuộc sống thánh thiện dưới sự hướng dẫn của Thế Tôn, nếu Thế Tôn tiết lộ với tôi [nhắc lại các câu trên đây] ‘Vũ trụ trường tồn’, ‘Vũ trụ không trường tồn’, hoặc ‘Vũ trụ có giới hạn’, ‘Vũ trụ vô biên’, hoặc ‘Linh hồn và thân xác là một thứ’, ‘Thân xác là một thứ’, ‘Linh hồn là một thứ khác’, hoặc ‘Sau khi chết một vị Tathāgata còn hiện hữu’, ‘Sau khi chết một vị Tathāgata không còn hiện hữu’, hoặc ‘Sau khi chết một vị Tathāgata còn hiện hữu nhưng cũng không còn hiện hữu’, hoặc ‘Sau khi chết một vị Tathāgata không còn hiện hữu nhưng cũng không phải là không còn hiện hữu’ (cách Đức Phật nêu lên là để đánh đổ mọi sự khẳng định – tức là con đường ‘trung đạo’, trái lại người tu hành trẻ tuổi Māluṅkyaputta thì lại bám víu vào tính cách khẳng định của từng trường hợp một, xuyên qua các sự tạo dựng của tâm trí mình).
« Không, thưa Ngài » (Trước đây, tôi chưa từng đòi hỏi Ngài phải giải thích về các thắc mắc ấy như là một điều kiện tiên quyết đối với việc tu tập của tôi) ».
« Nếu là như vậy, thì bạn quả là một người mê muội, bạn là ai (là người thế nào) mà lại nêu lên sự phiền trách đó đối với người khác (trách cứ Đức Phật giữ yên lặng trước các thắc mắc của mình) ? ».
« Này Māluṅkyaputta, nếu như có một người nào đó nói lên ‘Nếu Thế Tôn không tiết lộ ‘Vũ trụ trường tồn’… « Sau khi chết một vị Tathāgata không còn hiện hữu nhưng cũng không phải là không còn hiện hữu’, thì tôi sẽ không sống cuộc sống thánh thiện dưới sự hướng dẫn của Thế Tôn» , và [trong trường hợp đó] người ấy sẽ chết và các điều ấy (các quan điểm ấy) sẽ tiếp tục còn là những gì mà vị Tathāgata không nêu lên (giữ yên lặng, không nói đến) ».
« Chuyện đó cũng chẳng khác gì như một người bị trúng một mũi tên tẩm thật nhiều thuốc độc. Bạn bè, đồng nghiệp, họ hàng và thân quyến đổ đi tìm một vị lương y giải phẩu, thế nhưng người ấy cứ khăng khăng : ‘Tôi không muốn nhổ bỏ mũi tên khi tôi chưa biết được là kẻ bắn tôi là một chiến binh thuộc dòng dõi quý tộc, một vị Bà-la-môn, một con buôn hay một người làm công’. Người ấy cứ khăng khăng, ‘Tôi không muốn nhổ bỏ mũi tên cho khi tôi chưa biết được đích danh tên họ của người bắn tôi,... khi tôi chưa biết đến người bắn tôi mang tầm vóc to lớn, trung bình hay bé nhỏ,… khi tôi chưa biết được người bắn tôi da dẻ đen đúa, nâu sậm hay ánh vàng,… khi tôi chưa biết được người bắn tôi gốc gác từ làng nào, thị trấn nào hay tỉnh lỵ nào,… khi tôi chưa biết được chiếc cung mà người bắn tôi sử dụng thuộc loại to lớn hay chỉ là một chiếc nỏ,… khi tôi chưa biết được là dây cung làm bằng thớ cây, sợi tre, gân thú vật, sợi gai hay vỏ cây,… khi tôi chưa biết được mũi tên bắn trúng tôi được làm từ một loại cây thiên nhiên hay do người trồng,… khi tôi chưa biết được chiếc lông ở đuôi mũi tên dùng để bắn tôi là lông chim kên kên, lông cò, lông chim ưng, lông chim công hoặc là một loại chim nào khác,… khi tôi chưa biết được mũi tên dùng để bắn tôi được cột [vào lông chim] bằng gân bò, gân trâu nước, gân khỉ langur (một loài khỉ châu Á, khỉ lọ nồi) hoặc loại khỉ thông thường. Người này cứ khăng khăng, ‘Tôi không muốn nhổ bỏ mũi tên khi tôi chưa biết được mũi tên bắn trúng tôi thuộc loại thông thường, thuộc loại cong, thuộc loại có khía (có ngạnh), tương tự như răng bò con, hoặc như lá trúc đào (lá của loại cây này có hình thon dài và nhọn)’. [Trong trường hợp đó] thì người ấy sẽ chết và những điều trên đây vẫn còn là những điều mà người ấy chưa hề biết được (tương tự như vị tu hành trẻ tuổi Māluṅkyaputta cứ muốn biết là ‘Vũ trụ có giới hạn hay vô biên…, ‘Sau khi chết một vị Như Lai còn hiện hữu hay không còn hiện hữu…’, và ra điều kiện với Đức Phật là phải khẳng định về các điều ấy, nếu không thì mình sẽ từ bỏ việc tu tập. Trong trường hợp đó thì vị Māluṅkyaputta sẽ chết trước khi có thể hiểu được ‘Vũ trụ có giới hạn hay vô tận’…, ‘Sau khi chết một vị Như Lai còn hiện hữu hay không còn hiện hữu’…) ».
« Cũng vậy, khi một người nào đó nói lên ‘Suốt đời, tôi sẽ không sống cuộc sống thánh thánh thiện dưới sự hướng dẫn của Đấng Thế Tôn cho đến khi nào vị ấy còn không tiết lộ (khẳng định) với tôi là ‘Vũ trụ trường tồn…’, hoặc ‘Sau khi chết thì một vị Tathāgata không còn hiện hữu nhưng cũng không phải là không còn hiện hữu’, thì người ấy sẽ chết và các điều ấy vẫn tiếp tục còn là những gì mà Tathāgata không nói (vẫn giữ sự yên lặng, nói một cách khác và qua một góc nhìn khác, thì sau khi đạt được một cấp bậc tu tập và hiểu biết nào đó thì người ấy tất nhiên sẽ hiểu được các thắc mắc đó của mình. Vị Như Lai chưa có thể nêu lên với người ấy với trình độ hiểu biết của người ấy trong hiện tại).
« Này Māluṅkyaputta, quả không đúng khi chủ trương quan điểm ‘Vũ trụ trường tồn’ là cách sống cuộc sống thánh thiện. Cũng không đúng khi chủ trương quan điểm ‘Vũ trụ không trường tồn’ là cách sống cuộc sống thánh thiện. Khi chủ trương quan điểm: ‘Vũ trụ trường tồn’, hoặc chủ trương quan điểm ‘Vũ trụ không trường tồn’, thì [theo đó] sẽ có sự sinh, có sự già nua, có cái chết, có đau buồn, phiền muộn, đớn đau, tuyệt vọng và âu lo (distress / lo lắng, căng thẳng, hốt hoảng), và đấy là những điều mà ta nêu lên để cho thấy sự tàn phá của các thứ ấy đang xảy ra tại nơi này và ngay trong giây phút này (đối với trường hợp của Māluṅkyaputta thì Đức Phật không nói lên là ‘Vũ trụ trường tồn hay không trường tồn…’, mà chỉ cho biết là các thắc mắc đó chỉ đơn giản là các hình thức bám víu đưa đến mọi sự tàn phá ‘tại nơi này và ngay trong lúc này’ mà thôi, và đó cũng là cách kéo Māluṅkyaputta trở về với thực tại. ‘Vũ trụ có giới hạn hay vô tận’ chỉ là các chuyện viễn vông, bám víu vào các thắc mắc đó là cách tự trói mình vào sự chuyển động của thế giới hiện tuợng mà thôi)» .
« Quả không đúng khi cho rằng ‘Vũ trụ có giới hạn’ và xem đấy là cách sống cuộc sống thánh thiện. Và cũng không đúng khi cho rằng ‘Vũ trụ vô tận’ và xem đấy là cách sống cuộc sống thánh thiện. Khi cho rằng ‘Vũ trụ có giới hạn’, hoặc khi cho rằng ‘Vũ trụ vô tận’, thì [theo đó] sẽ có sự sinh, có sự già nua, có cái chết, có đau buồn, phiền muộn, đớn đau, tuyệt vọng và âu lo, và đấy là những điều mà ta nêu lên để cho thấy sự tàn phá của các thứ ấy đang xảy ra tại nơi này và trong giây phút này (Như Lai chỉ nêu lên bản chất khổ đau của thực tại nhưng không nêu lên các phóng tưởng viễn vông của tâm thức về một ‘vũ trụ có giới hạn hay vô tận’).
« Quả không đúng khi chủ trương quan điểm ‘Linh hồn và thân thể là một thứ’, và xem đấy là cách sống cuộc sống thánh thiện. Và cũng không đúng khi chủ trương quan điểm ‘Linh hồn là một thứ và thân thể là một thứ khác’ và xem đấy là cách sống cuộc sống thánh thiện. Khi chủ trương quan điểm ‘Linh hồn và thân thể là một thứ’ hoặc khi cho rằng ‘Linh hồn là một thứ và thân thể là một thứ khác’, thì [theo đó] sẽ có sự sinh, có sự già nua, có cái chết, có đau buồn, phiền muộn, đớn đau, tuyệt vọng và âu lo, và đấy là những điều mà ta nêu lên để cho thấy sự tàn phá của các thứ ấy đang xảy ra tại nơi này và trong giây phút này.
« Quả không đúng khi chủ trương quan điểm ‘Sau khi chết một vị Tathāgata còn hiện hữu’, và xem đấy là cách sống cuộc sống thánh thiện. Và cũng không đúng khi cho rằng ‘Sau khi chết một vị Tathāgata không còn hiện hữu’, và xem đấy là cách sống cuộc sống thánh thiện. Và cũng không đúng khi cho rằng ‘Sau khi chết một vị Tathāgata còn hiện hữu nhưng cũng không còn hiện hữu’, và xem đấy là cách sống cuộc sống thánh thiện. Và cũng không đúng khi cho rằng ‘Sau khi chết một vị Tathāgata không còn hiện hữu nhưng cũng không phải là không còn hiện hữu’, và xem đấy là cách sống cuộc sống thánh thiện. Khi cho rằng ‘Sau khi chết một vị Tathāgata còn hiện hữu’…, ‘Sau khi chết một vị Tathāgata không còn hiện hữu’…, ‘Sau khi chết một vị Tathāgata còn hiện hữu nhưng cũng không còn hiện hữu’…, ‘Sau khi chết một vị Tathāgata không còn hiện hữu nhưng cũng không phải là không còn hiện hữu’, thì [theo đó] sẽ có sự sinh, có sự già nua, có cái chết, có đau buồn, phiền muộn, đớn đau, tuyệt vọng và âu lo, và đấy là những điều mà ta nêu lên để cho thấy sự tàn phá của các thứ ấy đang xảy ra tại nơi này và trong giây phút này.
« Vì vậy, này Māluṅkyaputta, hãy ghi nhớ những gì mà ta không nêu lên (giữ yên lặng, không nói ra, không vạch trần) đúng như ta không nêu lên, và những gì ta nêu lên đúng với những gì mà ta nêu lên. Vậy những gì mà ta không nêu lên? ‘Vũ trụ trường tồn’ là những gì mà ta không nêu lên. ‘Vũ trụ không trường tồn’ là những gì mà ta không nêu lên. ‘Vũ trụ có giới hạn’ là những gì mà ta không nêu lên… ‘Vũ trụ vô biên’ là những gì mà ta không nêu lên… ‘Linh hồn và thân thể là một thứ’… ‘Linh hồn là một thứ, thân thể là một thứ khác’…’Sau cái chết một vị Tathāgata còn hiện hữu’…’Sau cái chết một vị Tathāgata không còn hiện hữu’… ‘Sau cái chết một vị Tathāgata còn hiện hữu nhưng cũng không còn hiện hữu’… ‘Sau cái chết một vị Tathāgata không còn hiện hữu nhưng cũng không phải là không còn hiện hữu’, là những gì mà ta không nêu lên (giữ yên lặng, không tiết lộ, không giải thích).
« Vậy, tại sao các điều ấy ta lại không nêu lên? Bởi vì các điều ấy không liên hệ gì đến chủ đích [tu tập], không phải là nền tảng của một cuộc sống thánh thiện. Các điều ấy không mang lại sự tỉnh ngộ, sự thanh thản (dispassion / không đam mê), sự chấm dứt, sự an bình, sự hiểu biết trực giác, sự tỉnh thức, sự Giải thoát.
« Vậy, những điều mà ta nêu lên là gì? ‘Sự âu lo’ (stress / lo lắng, căng thẳng, hoảng hốt, sợ hãi, bất an, khổ đau) là điều mà ta nêu lên. ‘Sự chấm dứt của sự âu lo’ là điều mà ta nêu lên. ‘Con đường tu tập mang lại sự chấm dứt của sự âu lo’ là điều mà ta nêu lên. Và tại sao ta lại nêu lên các điều ấy? Bởi vì các điều ấy liên hệ đến chủ đích, liên hệ đến nền tảng của cuộc sống thánh thiện (cuộc sống của người tu tập). Các điều ấy mang lại sự tỉnh ngộ, sự thanh thản, sự chấm dứt, sự an bình, sự hiểu biết trực giác, sự Thức tỉnh, sự Giải thoát. Đấy là lý do tại sao ta lại nêu lên các điều ấy» .
Đấy là những lời thuyết giảng của Đấng Thế Tôn. Ngài Māluṅkyaputta rất hả dạ và cảm thấy vui sướng trước những lời thuyết giảng đó.
Sau đây là một bài giảng khác rất nổi tiếng, thuật lại câu chuyện Đức Phật đến thăm một người tỳ-kheo đang đau ốm. Người tỳ-kheo này rất tôn kính và quý mến Đức Phật, lúc nào cũng cứ muốn được ở bên cạnh Đức Phật và trông thấy tận mắt Đức Phật. Bài giảng nêu lên sự ân cần của Đức Phật khi đến thăm và khuyên người đệ tử này nên nhìn vào Ngài, vào con người của Ngài, như thế nào :
Bài giảng cho người tỳ-kheo Vakkali
Vakkali Sutta - SN 22.87
(Dựa theo bản dịch tiếng Pháp của Rémy và các bản dịch tiếng Anh của Maurice O’Connell Walshe, Bhikkhu Sujato và
Bhikkhu Bodhi)
(...)
Ngài Vakkali trông thấy Đấng Thế Tôn từ xa đến, vội gượng dậy và định rời khỏi giường. Thấy thế Đấng Thế Tôn bèn bảo với người tỳ-kheo Vakkali :
— Này Vakkali, không cần phải gượng dậy [cứ nằm ở giường]. Sẵn có chiếc ghế bên cạnh, ta sẽ ngồi vào đấy.
Đấng Thế Tôn ngồi vào một chiếc ghế có sẵn [bên cạnh giường], sau khi ngồi thì Ngài nói với người tỳ-kheo Vakkali như sau :
— Này Vakkali, có kham nổi không, có đủ sức chịu đựng không ? Các cơn đau giảm dần hay gia tăng, Vakkali nhận thấy thế nào, các cơn đau giảm xuống hay ngày càng gia tăng ?
— Thưa Thế Tôn, quả không sao kham nổi, tôi không còn chịu đựng được nữa. Các cơn đau chẳng những không thuyên giảm mà cứ gia tăng thêm, tôi nhận thấy các cơn đau ngày càng gia tăng nhưng không hề giảm xuống.
— Này Vakkali, vậy thì có điều gì khiến Vakkali phải ân hận (remorse / ăn năn, hối hận) hoặc có điều gì khiến Vakkali phải hối tiếc (regret / luyến tiếc, ray rứt) hay không (không làm được vì đau ốm) ?
— Thưa Thế Tôn, hẳn nhiên là tôi có rất nhiều điều ân hận và hối tiếc.
— Nếu là như thế, này Vakkali, thì có điều gì đáng trách khiến Vakkali phải ân hận (hối hận) trên phương diện đạo đức hay không ?
— Không, thưa Thế Tôn, không có điều gì khiến tôi phải ân hận trên phương diện đạo đức cả.
— Vậy thì, này Vakkali, nếu không có điều gì đáng trách trên phương diện đạo đức, thì tại sao Vakkali lại ân hận và hối tiếc ?
— Từ lâu nay, thưa Thế Tôn, tôi vẫn cứ mong ước được [tận mắt] trông thấy Thế Tôn, thế nhưng vì thân xác suy yếu không cho phép tôi tìm đến bên cạnh Thế Tôn để được [tận mắt] trông thấy Thế Tôn.
— Nói thế cũng là đủ ! Này Vakkali, tại sao lại cứ muốn trông thấy cái thân xác ghê tởm (repugnant / gớm ghiếc) này [của ta] ? Này Vakkali, bất cứ ai trông thấy Dhamma (tức là Giáo huấn của Đức Phật) thì sẽ trông thấy ta ; và bất cứ ai trông thấy ta thì sẽ trông thấy Dhamma. Bởi vì trông thấy Dhamma tức là trông thấy ta ; và trông thấy ta tức là trông thấy Dhamma.)
(…)
Vài lời ghi Chú
Câu phát biểu trên đây cho thấy Đức Phật đồng hóa mình với Dhamma : Giáo huấn của Ngài cũng chính là Ngài và toàn thân của Ngài, sự hiện hữu của Ngài, cũng chính là Giáo huấn của Ngài. Trước khi tịch diệt Đức Phật không hề đề cử bất cứ một người đệ tử nào trong Tăng đoàn thay Ngài hướng dẫn Tăng đoàn và bảo vệ Dhamma, mà khuyên tất cả các tỳ-kheo hãy xem Dhamma là Thầy mình, tương tự như một hòn đảo làm nơi an trú cho mình. Giả sử nếu Đức Phật giao phó Dhamma cho một vị trong Tăng đoàn thì Dhamma đó sẽ không còn là Dhamma của Ngài nữa, và biết đâu Dhamma đó cũng có thể sẽ không còn tồn tại đến ngày nay.
Thế nhưng ngày nay, đôi khi chúng ta lại có xu hướng nhìn vào Dhamma đó của Đức Phật qua các khía cạnh đơn thuần của một tín ngưỡng với ý nghĩa của chữ Phật giáo / Buddhism theo cách hiểu của người Tây phương. Điều đó cũng tương tự như người đệ tử nhìn vào vị Thầy của mình với tất cả lòng thành kính, nhưng không trông thấy những gì mà vị Thầy của mình thuyết giảng, và đấy cũng là trường hợp của người tỳ-kheo Vakkali chỉ nhìn vào hình tướng của Đức Phật, và cứ muốn tiếp tục được nhìn thấy tận mắt hình tướng của Ngài, nhưng không nhìn thấy Dhamma. Một người bước theo Dhamma của Đức Phật không nhất thiết là phải nhìn vào Đức Phật như là một Vị siêu nhiên, hàm chứa một quyền năng tối thượng, hoặc đại diện cho một sức mạnh thiêng liêng và siêu phàm, mà phải nhìn vào chính mình để tìm hiểu sự vận hành của tâm thức mình, nhìn vào thế giới để tìm hiểu sự vận hành của thế giới, hầu mang lại sự Hiểu biết đích thật và hữu ích cho mình, và đấy mới thật sự là cách phải nhìn vào Đức Phật để trông thấy Đức Phật xuyên qua Dhamma của Ngài. Dhamma là Đức Phật, là Hiện thực, là Con đường đưa đến sự Tỉnh thức, là như vậy. Thế nhưng người tỳ-kheo Vakkali thì lúc nào cũng cứ muốn trông thấy tận mắt Đức Phật, nhưng quên mất Đức Phật cũng là Dhamma và Dhamma cũng là những gì đang vận hành trong môi trường bên ngoài là thế giới và cả bên trong tâm thức mình.
Dưới đây là một bài giảng khác nêu lên bản chất của thế giới, các hiện tượng trong thế giới, và sự Tỉnh thức của Đức Phật đối với sự vận hành của các hiện tượng tức là các dhamma trong thế giới :
Bài giảng về một đóa hoa sen
Puppha Sutta - SN 22.94
(Dựa theo các bản dịch tiếng Anh của Thanissaro Bhikkhu, Bhikkhu Sujato và Bikkhu Bhodi)
Tại một nơi gần kinh thành Sāvatthī, tôi từng được nghe Đấng Thế Tôn thuyết giảng như sau : « Này các tỳ-kheo, không phải là ta tranh cãi (dispute / tranh biện, tranh luận) với thế giới (chữ thế giới ở đây có nghĩa là mọi người trong thế giới), mà là thế giới tranh cãi với ta. Một môn đệ của Dhamma (một người bước theo Giáo lý của Đức Phật) không tranh cãi với bất cứ ai về những gì liên quan đến thế giới. Bất cứ thứ gì mà các vị thông thái (the wises / các vị sáng suốt, các vị hiền triết, và cũng là cách gọi những Bà-la-môn thuộc đẳng cấp cao nhất trong xã hội Ấn) cho rằng không hiện hữu trong thế giới, [thì đối với ta cũng vậy] ta bảo rằng : ‘Thứ ấy không hề hiện hữu’. Bất cứ thứ gì mà các vị thông thái cho rằng hiện hữu trong thế giới, [thì đối với ta cũng vậy] ta bảo rằng : ‘Thứ ấy hiện hữu’.
Vậy thì thứ gì mà các vị thông thái cho rằng không hề hiện hữu trong thế giới, và ta cũng vậy, cũng cho rằng thứ ấy không hề hiện hữu [trong thế giới] ?
« Hình tướng (form / có nghĩa là các hình tướng vật chất, chẳng hạn như thân xác) mang tính cách bất biến, trường tồn, vô tận, không biến đổi, mà các vị thông thái cho rằng không hề hiện hữu trong thế giới, [thì đối với ta cũng vậy], ta bảo rằng : ‘[Thể loại] hình tướng ấy không hề hiện hữu [trong thế giới]’.
« Sự cảm nhận (feeling / các sự cảm nhận của lục giác) mang tính cách bất biến, trường tồn, vô tận, không gánh chịu sự biến đổi, mà các vị thông thái cho rằng không hề hiện hữu trong thế giới, [thì đối với ta cũng vậy], ta bảo rằng : ‘[Thể loại] cảm nhận ấy không hề hiện hữu [trong thế giới]’.
« Sự nhận thức (perception / sự nhận biết) mang tính cách bất biến, trường tồn, vô tận, không biến đổi, mà các vị thông thái cho rằng không hề hiện hữu trong thế giới, [thì đối với ta cũng vậy], ta bảo rằng : ‘Sự nhận thức ấy không hề hiện hữu’.
« Các sự tạo tác [tâm thần] (fabrications / các sự hình dung, tưởng tượng, các sự tạo dựng trong tâm thức…) mang tính cách bất biến, trường tồn, vô tận, không biến đổi, mà các vị thông thái cho rằng không hề hiện hữu trong thế giới, [thì đối với ta cũng vậy], ta bảo rằng : ‘Các sự tạo tác ấy không hề hiện hữu’.
« Tri thức (consciousness / tâm thần) mang tính cách bất biến, trường tồn, vô tận, không biến đổi, mà các vị thông thái cho rằng không hề hiện hữu trong thế giới, [thì đối với ta cũng vậy], ta bảo rằng : ‘Tri thức ấy không hề hiện hữu’.
« Vậy thì những gì mà các vị thông thái cho rằng hiện hữu trong thế giới ?
« Hình tướng (form / thân thể, thân xác) luôn biến đổi, mang tính cách khổ đau (stressful / suffering / lo buồn, đớn đau), phải gánh chịu sự đổi thay, mà các vị thông thái cho rằng hiện hữu trong thế giới, [thì đối với ta cũng vậy], ta bảo rằng : ‘Hình tướng ấy hiện hữu [trong thế giới]’.
« Sự cảm nhận (feeling) luôn biến đổi, mang tính cách khổ đau, phải gánh chịu sự đổi thay, mà các vị thông thái cho rằng hiện hữu trong thế giới, [thì đối với ta cũng vậy], ta bảo rằng : ‘Sự cảm nhận ấy hiện hữu [trong thế giới]’.
« Sự nhận thước (perception) luôn biến đổi, mang tính cách khổ đau, phải gánh chịu sự đổi thay, mà các vị thông thái cho rằng hiện hữu trong thế giới, [thì đối với ta cũng vậy], ta bảo rằng : ‘Sự nhận thức ấy hiện hữu [trong thế giới]’.
« Các sự tạo tác [tâm thần] (fabrications) luôn biến đổi, mang tính cách khổ đau, phải gánh chịu sự đổi thay, mà các vị thông thái cho rằng hiện hữu trong thế giới, [thì đối với ta cũng vậy], ta bảo rằng : ‘Các thứ tạo tác ấy hiện hữu [trong thế giới]’.
« Tri thức (consciousness) luôn biến đổi, mang tính cách khổ đau, phải gánh chịu sự đổi thay, mà các vị thông thái cho rằng hiện hữu trong thế giới , [thì đối với ta cũng vậy], ta bảo rằng : ‘Tri thức ấy hiện hữu [trong thế giới]’.
« Này các tỳ-kheo, có một thứ hiện tượng mang tính cách toàn cầu (world-phenomenon) mà Tathāgata (Như Lai) trực tiếp tỉnh ngộ (awake / thức tỉnh) đối với nó, thấu triệt được nó. Và sau khi tỉnh ngộ đối với nó, thấu triệt được nó, thì ta nêu nó lên, thuyết giảng về nó, mô tả nó, phơi bày nó. Ta vạch trần nó, giải thích nó, làm cho nó trở nên sáng tỏ. Vậy trong thế giới hiện tượng mang tính các toàn cầu ấy là gì mà Tathāgata trực tiếp tỉnh ngộ đối với nó, thấu triệt được nó – và sau khi đã trực tiếp tỉnh ngộ đối với nó, thấu triệt được nó – thì ta nói lên, giảng dạy, mô tả, trình bày, vạch trần, giải thích về nó và làm cho nó trở nên sáng tỏ ?
« Hình tướng (form) là một thứ hiện tượng mang tính cách toàn cầu (world-phenomenon) trong thế giới mà Tathāgata trực tiếp tỉnh ngộ (awake / thức tỉnh) đối với nó, thấu triệt được nó. Và sau khi trực tiếp tỉnh ngộ đối với nó, thấu triệt được nó, thì Tathāgata nêu nó lên, thuyết giảng về nó, mô tả nó, trình bày nó. Tathāgata vạch trần nó, giải thích nó, làm cho nó trở nên sáng tỏ. [Thế nhưng] nếu bất cứ ai – sau khi được nghe Tathāgata nói lên, thuyết giảng, mô tả, trình bày, vạch trần, giải thích về nó và làm cho nó trở nên sáng tỏ – nhưng vẫn không hiểu được nó, không trông thấy được nó, thì nào ta có làm gì được cho kẻ điên rồ (fool / đần độn) ấy, con người bình dị (run-of-the-mill / tầm thường) ấy : một con người mù lòa, không có mắt, không hiểu biết cũng không trông thấy ?
(Câu trên đây được lập lại với các trường hợp liên quan đến sự cảm nhận (feeling), sự nhận thức (perception), các sự tạo tác tâm thần](fabrications) thế nhưng đã được rút ngắn nhằm tránh bớt sự dài dòng)
« Sự cảm nhận (feeling) là một thứ hiện tượng toàn cầu… [luôn biến đổi] trong thế giới… mà Tathāgata trực tiếp tỉnh ngộ đối với nó…
« Sự nhận thức (perception) là một hiện tượng toàn cầu …[luôn biến đổi] trong thế giới… mà Tathāgata trực tiếp tỉnh ngộ đối với nó…
« Các sự tạo tác [tâm thần] (fabrications) là các hiện tượng toàn cầu…[luôn biến đổi] trong thế giới… mà Tathāgata trực tiếp tỉnh ngộ đối với nó… (xin lưu ý : ba chấm liên tiếp (…) là cách biểu trưng cho các đoạn đã được cắt bớt).
« Tri thức (conciousness) là một hiện tượng toàn cầu trong thế giới mà Tathāgata tỉnh ngộ đối với nó, thấu triệt được nó. Và sau khi tỉnh ngộ đối với nó, thấu triệt được nó, thì Tathāgata nói lên về nó, thuyết giảng nó, mô tả nó, trình bày nó. Tathāgata vạch trần nó, giải thích nó, làm cho nó trở nên sáng tỏ. Bất cứ ai – sau khi được nghe Tathāgata nói lên, giảng dạy, mô tả, trình bày, vạch trần, giải thích về nó và làm cho nó trở nên sáng tỏ – nhưng vẫn không hiểu, không trông thấy, thì nào ta có làm gì được cho kẻ điên rồ (fool / đần độn) ấy : một con người mù lòa, không có mắt, không hiểu biết cũng không trông thấy ?
« Này các tỳ-kheo, tương tự như một đóa hoa sen màu tía , màu đỏ hay màu trắng – mọc trong nước, vươn lên trong nước – vượt khỏi mặt nước, nhưng không hề thấm nước ; Tathāgata cũng vậy – sinh ra trong thế giới, lớn lên trong thế giới – chinh phục được thế giới, nhưng không hề bị thế giới làm cho ô uế ».
Vài lời ghi chú
Bài giảng nêu lên hai điểm nổi bật, trước hết là sự chuyển động và tình trạng luôn biến đổi của mọi hiện tượng trong thế giới, kể cả thân xác và cả những gì hiển hiện bên trong tâm thức của mỗi cá thể con người : từ thân xác vật chất, các sự cảm nhận, các sự nhận thức, các sự tạo tác tâm thần cho đến toàn bộ tri thức, tất cả và hoàn toàn tất cả đều chuyển động và thường xuyên biến đổi. Từ trên thân xác cho đến bên trong tâm thức của mỗi con người, từ vũ trụ cho đến không gian và cả thời gian, không có một hiện tượng nào – một dhamma nào – là trường tồn, bất biến, vô tận, không gánh chịu sự đổi thay. Bám víu vào các hiện tượng đó – có nghĩa là bám víu vào vô thường, bám víu vào các dhamma – thì chỉ là cách mang lại khổ đau cho mình mà thôi. Đối với những người mượn bản chất vô thường của mình để bám víu vào bản chất vô thường của chính mình và của cả của thế giới – nhưng không hề ý thức được điều đó – dù đã được nghe Đức Phật ‘nói lên, giảng dạy, mô tả, trình bày, vạch trần, giải thích về điều đó và làm cho điều đó trở nên sáng tỏ, thì những người ấy chỉ là những người đần độn, không hiểu gì cả, không trông thấy gì cả’. Câu trách cứ đó quả là nghiêm khắc, thế nhưng tiếc thay chẳng có một lời nào khác hơn : con người vô thường lăn xả vào vô thường của chính mình và của cả thế giới, và xem đấy là cội nguồn của hạnh phúc, là mục đích của đời mình. Tuy nghiêm khắc thế nhưng thiết nghĩ chúng ta cũng nên nhìn vào những lời trách cứ ấy của Đấng Thế Tôn để ngẫm nghĩ về cuộc sống của chính mình.
Điểm nổi bật thứ hai là lời kết luận của toàn bộ bài giảng, và đấy cũng là tấm gương cho chúng ta nhìn vào : Đức Phật sinh ra trong thế giới hiện tượng, lớn lên trong thế giới hiện tượng, thế nhưng Ngài đã thoát ra khỏi mọi hiện tượng trong thế giới và vượt lên trên thế giới, tương tự như một đóa hoa sen mọc trong nước, lớn lên trong nước và vượt lên trên mặt nước.
Sau hết, xin trích dẫn hai câu 351 và 352 trong một tập gộp chung 423 câu thuyết giảng của Đức Phật, mang tựa là Dhammapada / Những lời thuyết giảng chủ yếu về Dhamma (Khuddaka Nikāya / Tiểu Bộ Kinh, phẩm Buddha Vagga / Con đường của Đức Phật). Chữ pada trong chữ Dhammapada có nghĩa là chủ yếu, căn bản hay quan điểm (foot, base, root, position), kinh sách Hán ngữ thì lại gọi những lời thuyết giảng này là ‘cú’, chữ cú có nghĩa là câu văn hay câu thơ, và toàn bộ 425 cây thuyết giảng thi gọi là Kinh Pháp cú. Hai câu trích dẫn này như sau :
351. Vị ấy (tức là Đức Phật) đã đi trọn con đường,
Vượt thoát mọi sự thèm khát,
Bẻ gẫy được các mũi tên của sự hình thành.
Loại bỏ được mọi sự sợ hãi và mọi thứ ô nhiễm,
Thân xác [hiện tại] này của vị ấy là thân xác cuối cùng.
352. Loại bỏ được mọi sự thèm khát và mọi sự bám víu,
Vị ấy nắm vững được những lời thuyết giảng[của mình],
Chủ động được những lời do mình nêu lên,
Thấu triệt được những lời do kẻ khác nói ra,
Vị ấy là một vị Hiền triết, một Vĩ nhân.
Dưới đây là phần tóm lược ý nghĩa trong các bài thuyết giảng đã được trích dẫn trên đây :
Bài giảng nêu lên Câu chuyện về một cuộc tranh biện (Vivanda Sutta – AN 2.37) cho thấy Đấng Thế Tôn là một vị đã thoát ra khỏi mọi sự thèm khát dục tính, vượt lên trên mọi quan điểm và các định kiến.
Bài giảng ngắn về các thắc mắc của Māluṅkya (Cūḷa Māluṅkyovāda Sutta – MN 63) cho thấy Đấng Thế Tôn rất thiết thực, trông thấy được sự xao lãng của chúng sinh. Ngài giữ sự yên lặng trước các thắc mắc viễn vông và vô ích của chúng sinh, và chỉ nêu lên những gì ích lợi và khẩn thiết, tương tự như nhổ bỏ mũi tên tẩm thuốc độc cho một người bị trúng tên.
Bài giảng cho người tỳ-kheo Vakkali (Vakkali Sutta – SN 22.87) nêu lên lời khuyên của Đức Phật là phải nhìn vào Dhamma nhưng không nên chỉ biết nhìn vào con người của Ngài. Đức Phật nói với người tỳ-kheo Vakkali một câu như sau : « Này Vakkali, tại sao lại cứ muốn trông thấy cái thân xác ghê tởm này [của ta] ? Này Vakkali, bất cứ ai trông thấy Dhamma thì sẽ trông thấy ta ; và bất cứ ai trông thấy ta thì sẽ trông thấy Dhamma ». Đức Phật hóa thành Giáo huấn của Ngài, bước theo Giáo huấn của Ngài tức là trông thấy được con người của chính Ngài.
Bài giảng về đóa hoa sen (Puppha Sutta – SN 22.94) nêu lên một câu nói của Đấng thế Tôn như sau : « Này các tỳ-kheo, tương tự như một đóa hoa sen màu tía, màu đỏ hay màu trắng – mọc trong nước, vươn lên trong nước – vượt khỏi mặt nước, nhưng không hề thấm nước ; Tathāgata / Như Lai cũng vậy – sinh ra trong thế giới, lớn lên trong thế giới – chinh phục được thế giới, nhưng không hề bị thế giới làm cho ô uế ».
Trong tập sách góp nhặt Các câu giảng chủ yếu về Dhamma (Dhammapada / Kinh Pháp cú – Khuddaka Nikāya) có một câu như sau : ‘Đức Phật là một Vị Thầy nắm vững được những lời thuyết giảng của mình, chủ động được những lời do mình nêu lên, thấu triệt được những lời do kẻ khác nói ra. Vị Thầy ấy là một vị Hiền triết, một Vĩ nhân’.
Các trích dẫn trên đây thiết nghĩ có thể giải đáp được phần nào thắc mắc : ‘Đức Phật là ai ?’. Trong chương tiếp theo dưới đây, chúng ta sẽ nêu lên một thắc mắc khác : ‘Phật giáo là gì ?’.