Thư Viện Hoa Sen

Tứ Diệu Đế Yếu Lược Tập 2 | Thiện Phúc (Sách song ngữ Vietnamese-English PDF)

14/07/20244:01 SA(Xem: 6231)
Tứ Diệu Đế Yếu Lược Tập 2 | Thiện Phúc (Sách song ngữ Vietnamese-English PDF)

THIỆN PHÚC
TỨ DIỆU ĐẾ YẾU LƯỢC
ESSENTIAL SUMMARIES OF THE FOUR WONDERFUL TRUTHS

TẬP II | VOLUME II

tu dieu de yeu luoc tap 2PDF icon (4)TỨ DIỆU ĐẾ YẾU LƯỢC - TẬP II
XEM TẬP I:
Tứ Diệu Đế Yếu Lược Tập 1 | Thiện Phúc (Sách song ngữ Vietnamese-English PDF)

 

Copyright © 2024 by Ngoc Tran. All rights reserved.

No part of this work may be reproduced or transmitted in any form or by any means, electronic or mechanical, including photocopying and recording, or by any information storage or retrieval system without the prior written permission of the author, except for the inclusion of brief quotations. However, staff members of Vietnamese temples who want to reprint this work for the benefit of teaching of the Buddhadharma, please contact Ngoc Tran at (714) 778-2832.

 

 

MỤC LỤC TẬP II

Table of Content Volume II

Mục Lục—Table of Content 
Lời Đầu Sách—Preface 
Phần Sáu A—Part Six A: Yếu Lược Về Diệt Đế—Essential Summaries of The Truth of Cessation of Sufferings  
Chương Ba Mươi Bốn—Chapter Thirty-Four: Sơ Lược Về Diệt Đế—A Summary of the Truth of Cessation of Sufferings  
Chương Ba Mươi Lăm—Chapter Thirty-Five: Tu Tập Để Loại Trừ Mê Hoặc Cũng Là Giảm Thiểu Khổ Đau Phiền Não—To Cultivate to Eliminate Perversions Also Means to Reduce Sufferings and Afflictions 
Chương Ba Mươi Sáu—Chapter Thirty-Six: Tu Tập Chuyển Hóa “Nội Kết” Nhằm Giảm Thiểu Đau Khổ Phiền Não—To Cultivate to Transform the Internal Formations Has the Ability to Reduce Sufferings and Afflictions 
Chương Ba Mươi Bảy—Chapter Thirty-Seven: Ba Loại Tu Hành Đoạn Khổ—Three Modes of Cultivation for the Cessation of Suffering
Chương Ba Mươi Tám—Chapter Thirty-Eight: Hiểu Biết Đúng Đắn Về “Tánh Không” Sẽ Dẫn Đến Đoạn Khổ—The True Understanding of the State of Emptiness Will Lead to the Cessation of Suffering
Chương Ba Mươi Chín—Chapter Thirty-Nine: Hàng Phục Phiền Não Cũng Là Đang Triệt Tiêu Khổ Đau—To Subdue Afflictions Also Means to Eliminate Sufferings 
Chương Bốn Mươi—Chapter Forty: Tam Tu Giới-Định-Tuệ Là Phương Tiện Tuyệt Vời Để Tu TậpTriệt Tiêu Khổ Đau Phiền Não—Threefold Study of Precept-Concentration-Wisdom Are Excellent Means to Cultivate to Get Rid of Sufferings & Afflictions 
Chương Bốn Mươi Mốt—Chapter Forty-One: Thứ Lớp Đoạn Hoặc Trong Diệt Đế—Orders of Removal of Afflictions In the Truth of Cessation of Sufferings 
Chương Bốn Mươi Hai—Chapter Forty-Two: Các Thứ Bậc Tu Chứng Sau Khi Đã Đoạn Hoặc Trong Diệt Đế—Ranks of Realization After Cutting off of All Delusions In the Truth of Cessation of Sufferings 
Chương Bốn Mươi Ba—Chapter Forty-Three: Hoàn Tất Tu Tập Diệt Đế Nghĩa Là Trên Đường Đi Đến Niết Bàn—To Complete the Cultivation In the Truth of Cessation of Sufferings Means Being  On the Way to Reach Nirvana 
Phần Sáu B—Part Six B: Phụ Lục Phần Diệt Đế—Appendices of the Truth of Cessation of Sufferings 
Phụ Lục A—Appendix A: Phiền Não: Những Tên Giặc Nguy Hiểm Nhất Trên Đời—Afflictions: The Most Dangerous Robbers in Human Life 
Phụ Lục B—Appendix B: Cố Gắng Điều Phục Thân-Khẩu-Ý Để Giảm Thiểu Khổ Đau Phiền Não—Try to Control the Body-Mouth-Mind to Reduce Sufferings & Afflictions
Phụ Lục C—Appendix C: Cố Gắng Đối Trị Tham Sân Si Để Giảm Thiểu Khổ Đau Phiền Não—Try to Subdue Lust, Anger and Ignorance to Reduce Sufferings & Afflictions 
Phụ Lục D—Appendix D: Cố Gắng Thiểu Dục Tri Túc Để Giảm Thiểu Khổ Đau Phiền Não—Try to Be Content with Few Desires and Be Satisfied with What We Have to Reduce Sufferings & Afflictions
Phụ Lục E—Appendix E: Tu Tập Loại Trừ Tập Khí Sẽ Dẫn Đến Giảm Thiểu Khổ Đau Phiền Não—To Practice to Eliminate Remnants of Habits Will Lead to Reducing of Sufferings & Afflictions 
Phụ Lục F—Appendix F: Triệt Tiêu Ngã Chấp Sẽ Dẫn Đến Chấm Dứt Khổ Đau Phiền Não—Elimination of the Attachment to the ‘Self’Will Lead to the End of Sufferings & Afflictions 
Phụ Lục G—Appendix G: Quân BìnhChế Ngự Sân Hận: Con Đường Chấm Dứt Khổ Đau Phiền Não—To Balance and to Subdue Anger: The Path to End Sufferings & Afflictions
Phụ Lục H—Appendix H: Tu Tập Thu Thúc Lục Căn Trong Những Sinh Hoạt Hằng Ngày—Practicing Sense Restraint in Daily Activities
Phụ Lục I—Appendix I: Quân Bình Tham Dục Sẽ Giảm Thiểu Khổ Đau Phiền Não—To Balance Lust Will Reduce Sufferings & Afflictions 
Phụ Lục J—Appendix J: Tu Tập ThiềnCố Gắng Đạt Được Chánh Định—To Practice Zen Is to Try to Gain Right Concentration
Phụ Lục K—Appendix K:Chánh Định Giúp Hành Giả Thấy Được Mặt Mũi Của Thực Tại—Right Concentration Helps Practitioners See the True Face of Reality
Phụ Lục L—Appendix L: Chánh Định Giúp Hành Giả Thanh Tịnh Thân Tâm—Right Concentration Helps Practitioners Purify Body and Mind 
Phụ Lục M—Appendix M: Thanh Tịnh Giới Đức Trong Tu Tập Sẽ Dẫn Tới Chánh Niệm Và Chánh Định—Purifying Morality in Cultivation Will Lead to Righ Mindfulness and Right Concentration
Phụ Lục N—Appendix N: Chánh Định Giúp Hành Giả Biết Được Bản Chất Của Chính Mình—Right Concentration Helps Practitioners Know Their Own Nature 
Phụ Lục O—Appendix O: Chánh Định Giúp Hành Giả Nhận Chân Được Bản Chất Vô Thường Của Vạn Hữu—Right Concentration Helps Practitioners Realize the Impermacence of All Things
Phụ Lục P—Appendix P: Chánh NiệmChánh Định Giúp Hành Giả Nhận Chân Được Trạng Thái Vô Minh Của Chính Mình—Right Mindfulness and Right Concentration Helps Practitioners Realize Their Own State of Ignorance
Phụ Lục Q—Appendix Q: Vai Trò Của Chánh KiếnChánh Tư Duy Trong Tu Tập—The Roles of Right Understanding and Right Thought in Cultivation
Phụ Lục R—Appendix R: Vai Trò Của Chánh NiệmChánh Định Trong Việc Phát Triển Trí Tuệ—Roles of Right Remembrance and Right Concentration In the Development of Insight or Wisdom
Phụ Lục S—Appendix S: Chánh Định Và Tam Muội—Right Concentration and Samadhi 
Phụ Lục T—Appendix T: Tâm Định Tĩnh Giúp Hành Giả Thấy Được Chân Tướng Của Những Khảo Đảo Trong Tu Tập—A Concentrative Mind Helps Practitioners See The Real Faces of Testing Conditions in Cultivation 
Phụ Lục U—Appendix U: Kinh Nhập Tức Xuất Tức NiệmTu Tập Chánh Niệm-Chánh Định—The Anapanasatisuttam and the Cultivation of Right Mindfulness and Concentration 
Phụ Lục V—Appendix V: Chánh NiệmChánh Định Giúp Điều Phục Năm Thứ Vọng Tưởng—Right Mindfulness and Right Concentration Help Subdue Five Kinds of False Thinking 
Phụ Lục W—Appendix W: Chánh Định Giúp Hành Giả Nghe Được Vạn Vật Thuyết Pháp—Right Concentration Helps Practitioners Hearing The Preachings of Dharma From All Things
Phụ Lục X—Appendix X: Chánh NiệmChánh Định Giúp Hành Giả Đạt Đến Giác Ngộ và Giải Thoát—Right Mindfulness and Concentration Help Practitioners Reach Enlightenment and Emancipation
Phụ Lục Y—Appendix Y: Chánh NiệmChánh Định Giúp Hành Giả Hiểu Được Tâm Tướng—Right Mindfulness and Right Concentration Helps Practitioners Understand the Mind in Action
Phụ Lục Z—Appendix Z: Tu Tập Định Trong Thiền—Cultivating Concentration in Meditation 
Phụ Lục AA—Appendix AA: Tiến Trình Đi Đến Chánh Định—The Process of Meditation Toward Right Concentration 
Phần Bảy A—Part Seven A: Yếu Lược Về Đạo Đế—Essential Summaries of The Truth of the Path of Cessation of Sufferings 
Chương Bốn Mươi Bốn—Chapter Forty-Four: Đức Phật Thuyết Bài Pháp Đầu Tiên Về Con Dường Diệt Khổ—The Buddha Preached the First Sermon On the Path of Removal of Sufferings 
Chương Bốn Mươi Lăm—Chapter Forty-Five: Sơ Lược Về Đạo Đế—A Summary of the Path of  of the Cessation of Sufferings 
Chương Bốn Mươi Sáu—Chapter Forty-Six: Những Bước Tu Tập Cơ Bản Trên Đạo Lộ Diệt Khổ—Essential Steps of Cultivation on the Path to the Removal of Sufferings 
Chương Bốn Mươi Bảy—Chapter Forty-Seven: Tu Tập Bốn Điều Nên Biết Đủ Nhằm Triệt Tiêu Khổ Đau Phiền Não—To Cultivate the Four Sufficiences to Eliminate Sufferings & Afflictions 
Chương Bốn Mươi Tám—Chapter Forty-Eight: Tu Tập Bốn Pháp Tinh Cần Nhằm Triệt Tiêu Khổ Đau Phiền Não—To Cultivate the Four Right Efforts to Eliminate Sufferings & Afflictions 
Chương Bốn Mươi Chín—Chapter Forty-Nine:     Vững Bước Trên Năm Tiểu Lộ Có Thể Giúp Hành Giả Triệt Tiêu Khổ Đau Phiền Não—Firmly Step on the Five Small Roads Can Help Practitioners Eliminating Sufferings & Afflictions 
Chương Năm Mươi—Chapter Fifty: Năm Sức Mạnh Có Thể Giúp Hành Giả Triệt Tiêu Khổ Đau Phiền Não—Five Powers That Can Help Practitioners Eliminating Sufferings & Afflictions
Chương Năm Mươi Mốt—Chapter Fifty-One: Hành Giả Luôn Hành Trình Trên Đạo Lộ Diệt Khổ Với Tứ Niệm Xứ—Practitioners Always Travel on the Path of Elimination of Sufferings With Four Kinds of Mindfulness 
Chương Năm Mươi Hai—Chapter Fifty-Two: Trên Con Đường Diệt Khổ, Thất Bồ Đề Phần Là Bảy Yếu Tố Quan Trọng Giúp Hành Giả Triệt Tiêu Khổ Đau Phiền Não—On the Path of Cessation of Sufferings, Seven Bodhi Shares Are Seven Important Factors That Help Practitioners Eliminate Sufferings and Afflictions
Chương Năm Mươi Ba—Chapter Fifty-Three: Bát Thánh Đạo Là Tám Yếu Tố Chính Trong Đạo Đế Giúp Hành Giả Diệt Khổ—The Noble Eightfold Path Are  Eight Essential Factors in the Noble Path of Extinction of Sufferings 
Chương Năm Mươi Bốn—Chapter Fifty-Four: Tu Tập Quán Tưởng Nhằm Cải Thiện Tự Thân & Hoàn Cảnh Để Đi Đến Quả Vị Bồ Đề—Contemplation to Improve Ourselves & Our Circumstances to Eventually Reach the Fruit of Bodhi 
Chương Năm Mươi Lăm—Chapter Fifty-Five: Đạo ĐếCon Đường Chấm Dứt Cả Kiến Hoặc Lẫn Tư Hoặc—The Path of Cessation of Sufferings Is the Way That Eliminates Both Delusions  in the Visible World&Illusions in the Mental World 
Chương Năm Mươi Sáu—Chapter Fifty-Six: Sức Mạnh Giúp Hành Giả Bước Lên Đạo Lộ Diệt Khổ Là Sự Tu Tập—The Strength That Helps Practitioners Stepping On The Path of Removal of Sufferings Is Cultivation
Chương Năm Mươi Bảy—Chapter Fifty-Seven: Đạo Phật: Đạo Lộ Diệt Khổ—Buddhism: The Path to the Removal of Sufferings 
Chương Năm Mươi Tám—Chapter Fifty-Eight: Đạo Phật: Dòng Suối Dẫn Đến Giác Ngộ & Giải Thoát—Buddhism: A Stream That Leads to Enlightenment & Emancipation
Chương Năm Mươi Chín—Chapter Fifty-Nine: Đạo Phật: Con Đường Lên Phật—Buddhism: The Path That Is Leading to the Buddhahood 
Chương Sáu Mươi—Chapter Sixty: Đạo Phật: Giải Thoát Ngay Trong Kiếp Nầy—Buddhism: Emancipation In This Very Life 
Phần Bảy B—Part Seven B: Phụ Lục Phần Đạo Đế—Appendices of the Truth of Cessation of The Path of Cessation of Sufferings 
Phụ Lục A—Appendix A: Bốn Cảnh Làm Thay Đổi Cuộc Đời Đức Phật—Four Sights That Changed the Buddha’s Life   
Phụ Lục B—Appendix C: Đi Trên Con Đường Diệt Khổ Cũng Là Đang Vượt Thoát Khỏi Nhà Lửa Tam Giới—Travelling On the Path of Cessation of Sufferings Also Means Escaping the Burning House in the Triple World 
Phụ Lục C—Appendix C: Người Phật Tử Nên Luôn Cố Gắng Đi Trên Con Đường Diệt Khổ—Buddhists Should Always Try to Tread on the the Path of the Removal of Sufferings 
Phụ Lục D—Appendix D: Lợi Ích Trong Việc Tu Tập Bát Thánh Đạo—The Benefits in Practicing the  Eightfold Noble Path
Phụ Lục E—Appendix E: Dự Bị Tu Tập Bát Thánh Đạo—Preparation for Developping the Noble Eightfold Path 
Phụ Lục F—Appendix F: Vai Trò Của Bát Thánh Đạo Trong Tu Tập— Roles of the Eightfold Noble Truth in Cultivation
Phụ Lục G—Appendix G: Bát Thánh Đạo Giúp Hành Giả Duy Trì Được Kham Nhẫn Và Điều Hòa Trong Cuộc Sống Hằng Ngày—The Eightfold Noble Truth Help Practitioners Maintain Endurance and Moderation In Daily Life
Phụ Lục H—Appendix H: Bát Thánh Đạo Giúp Hành Giả Điều Phục Vọng Tâm—The Eightfold Nobel Path Help Practitioners Taming Their Deluded Minds 
Phụ Lục I—Appendix I: Tu Tập Bát Thánh ĐạoTu Tập Kỷ Luật Tâm Linh—Cultivating the Eightfold Noble Path Means Cultivating on the Spiritual Discipline 
Phụ Lục J—Appendix J: Hành Giả Tu ThiềnBát Thánh Đạo—Zen Practitioners and the Eightfold Noble Path 
Tài Liệu Tham Khảo—References 
    

Lời Đầu Sách

___________________________________ 

Ngay sau khi Đức Phật đạt được đại giác tại Bồ đề đạo tràng, Ngài đã đi vào vườn Lộc uyển tại thành Ba La Nại, để giảng bài pháp đầu tiên về Trung ĐạoTứ Thánh Đế và Bát Thánh Đạo. Tại Vườn Lộc Uyển trong thành Ba La Nạithoạt đầu Đức Phật bị năm anh em Kiều Trần Như lãng tránh, nhưng khi Đức Phật tiến lại gần họ, họ cảm nhận từ nơi Ngài có những tướng hảo rất đặc biệt, nên tất cả đều tự động đứng dậy nghênh tiếp Ngài. Sau đó năm vị đạo sĩ thỉnh cầu Đức Thế Tôn chỉ giáo những điều Ngài đã giác ngộĐức Phật nhân đó đã thuyết Bài Pháp Đầu TiênChuyển Bánh Xe Pháp. Ngài bắt đầu thuyết giảng: “Này các Sa Môn! Các ông nên biết rằng có bốn Chân Lý. Một là Chân Lý về Khổ. Cuộc sống đầy dẫy những khổ đau phiền não như già, bệnh, bất hạnh và chết chóc. Con người luôn chạy theo các dục lạc, nhưng cuối cùng chỉ tìm thấy khổ đau. Mà ngay khi có được thú vui thì họ cũng nhanh chóng cảm thấy mệt mỏi vì những lạc thú nầy. Không có nơi nào mà con người tìm thấy được sự thỏa mãn thật sự hay an lạc hoàn toàn cả. Thứ hai là Chân Lý về Nguyên Nhân của Khổ. Khi tâm chúng ta chứa đầy lòng tham dục và vọng tưởng chúng ta sẽ gặp mọi điều đau khổ. Thứ ba là Chân Lý về sự Chấm dứt Khổ. Khi tâm chúng ta tháo gỡ hết tham dục và vọng tưởng thì sự khổ đau sẽ chấm dứtChúng ta sẽ cảm nghiệm được niềm hạnh phúc không diễn tả được bằng lời. Cuối cùng là Chân Lý về Đạo Diệt Khổcon đường giúp chúng ta đạt được trí tuệ tối thượng.”

Nói rộng ra về Tứ Diệu Đế, về chân lý thứ nhất là Khổ ĐếĐức Phật dạy rằng mọi vật đều khổ: sanh, lão, bệnh, tử, chia lìa, không thỏa mãn ước muốn, hủy hoại, trạng thái thay đổi liên tục của tất cả các hiện tượng, bất cứ cảm nhận nào, dù sung sướng hay đau khổ đều là “khổ.” Khổ là điều kiện vô thường của vũ trụ tác động trên vạn vật. Ngay cả “cái tôi” hoặc “bản ngã” cũng không có đặc tính vững bềndo bởi trên thực tế nó chỉ là một sai lầm khởi lên từ một khái niệm sai lầm mà thôi. Thuyết “Vô Ngã” này là một trong ba đặc tính của tất cả sự sống cùng với “khổ” là “vô thường.” Tưởng cũng nên nhắc lại rằng Phật giáo định nghĩa khổ đau và hạnh phúc bằng một cách rất đơn giản: Cái gì mang lại khó khăn là đau khổ. Khổ đau hay phiền não đến trong nhiều lốt vỏ khác nhau. Cần nên nhớ rằng khi Đức Phật bảo cuộc sống của chúng ta là khổ, ý Ngài muốn nói đến mọi trạng thái không thỏa mãn của chúng ta với một phạm vi rất rộng, từ những bực dọc nho nhỏ đến những vấn đề khó khăn trong đời sống, từ những nỗi khổ đau nát lòng chí đến những tang thương của kiếp sống. Cái gì mang lại thoải mái là hạnh phúc. Cần nên hiểu rằng khi Đức Phật bảo cuộc sống của chúng ta là khổ, ý Ngài muốn nói đến mọi trạng thái không thỏa mãn của chúng ta với một phạm vi rất rộng, từ những bực dọc nho nhỏ đến những vấn đề khó khăn trong đời sống, từ những nỗi khổ đau nát lòng chí đến những tang thương của kiếp sống. Vì vậy chữ “Dukkha” nên được dùng để diễn tả những việc không hoàn hảo xảy ra trong đời sống của chúng ta và chúng ta có thể cải hóa chúng cho tốt hơn. Nói cách khác, mọi hiện hữu đều có bản chất khổ chứ không mang lại toại nguyện (sự khổ vô biên vô hạn, sanh khổgià khổbịnh khổchết khổthương yêu mà phải xa lìa khổ, oán ghét mà cứ gặp nhau là khổ, cầu bất đắc khổvân vân. Khổ đeo theo ngũ uẩn như sắc thân, sự cảm thọ, tưởng tượng, hình ảnh, hành động, tri thức). Qua thiền địnhhành giả tu Phật có thể thấy trực tiếp là các hiện tượng danh và sắc, hay thân và tâm, đều đau khổ.

Nói về chân lý thứ hai là “Tập Đế,” Tập Đế giải thích rằng ‘khổ’ phát sinh từ tham áitham muốn có nhiều hay có ít, tham muốn sinh tồn hay hoại diệt. Sự tham ái hoặc lòng tham như thế là một phần của chu kỳ được mô tả trong thập nhị nhân duyên: phát sinh từ thọ, lần lượt phát sinh từ xúc, từ lục căn, từ danh sắc, từ thức, từ ý hành, từ vô minh, từ khổ, từ sanh, hữu, thủ, và trở lại ái, cứ như thế mà xoay vòng liên tục trở lại. Một trong những định luật căn bản tự nhiên nổi tiếng trong đạo Phật. Lý Duyên Khởi hoặc Thập Nhị Nhân Duyên đặt nền móng cho Nghiệp, nhân quả, sự thay đổi và tự nguyện và tính cách mà ở đó tất cả những hiện tượng quy ước tồn tại. Nó thường được mô tả là sự khởi đầu với vô minh hoặc mê mờ. Khi có một đệ tử đến sám hối với Đức Phật về những việc sai trái trong quá khứĐức Phật không hề hứa tha thứ, vì Ngài biết rằng một khi đã gây tội tạo nghiệp, dầu lớn hay dầu nhỏ, mỗi người đều phải gặt kết quả khổ đau hay phiền não của nhân do chính mình đã gieo. Tam Độc Tham-Sân-Si là những nguyên nhân chính không thể tranh cãi của khổ đau phiền não phiền não. Chính vì những lý do nầy mà hành giả tu Phật nên luôn cố gắng hết sức mình tìm cách đối trị chúng. Theo Phật giáotu tập, nhất là tu tập thiền định, là sự trợ lực lớn lao giúp chúng ta điềm tĩnh khi đối diện với những tư duy xấu nầy. Bên cạnh đó, tà kiến cũng góp phần không nhỏ trong việc vân tập khổ đau phiền nãoTà kiến là những tâm thái và giáo thuyết chống lại với giáo thuyết và phương cách tu tập của Phật giáo, như tin nơi cái ngã thường hằng; chối bỏ luật nhân quảthường kiến hay tin rằng có một linh hồn vĩnh cửu sau khi chếtđoạn kiến hay tin rằng không còn gì hết sau khi chếtgiới cấm thủ hay tuân thủ giới luật tà vạykiến thủ hay nhận rằng những hành động bất thiện là tốt; và nghi pháp (Phật pháp), vân vânTà kiến cũng có nghĩa là khư khư bảo thủkiên trì giữ lấy định kiến của mình, không chấp nhận rằng có những kiếp sống trong quá khứ và những kiếp sống kế tiếp trong tương lai, không chấp nhận rằng con người có thể đạt tới trạng thái Niết Bàn. Đây chính là những nguyên nhân gây ra vô vàn khổ đau phiền não trên cõi đời nầy.

Nói về chân lý thứ ba là “Diệt Đế,” chân lý nầy khẳng định rằng có một sự chấm dứt ‘khổ’ hay sự giải thoát cuối cùng và tối cao là sự dập tắt lửa tham, sân và si, việc này xảy ra khi nhân của ‘khổ’ bị loại trừ. Khi người ta hiểu rõ lý Duyên Khởi và những hậu quả của nó được mở lối, khi ấy chuỗi dây xích bị phá và tham ái dẫn đến vòng sinh tử luân hồi bất tận bị đoạn tận và sự diệt khổ đã hoàn tấtĐức Phật gọi chân lý thứ ba là “sự diệt tắt.” Sự kiện này không giống như Niết BànNiết Bàn không phải là quả được tạo bởi nhân: nếu là Niết Bàn, nó tự phát sinh, và nếu nó đã tự sinh; nó không thể đưa ra một phương cách để vượt khỏi những sự bám chặt vào nghiệp và tái sinh. Trong tu tập Phật giáohàng phục phiền não cũng là đang triệt tiêu khổ đau. Như trên đã nói, phiền não chỉ tất cả những nhơ bẩn làm rối loạn tinh thần, cơ sở của bất thiện, cũng như gắn liền con người vào chu kỳ sanh tử. Trong Phật giáo, người ta còn gọi chúng là khát vọng của Ma vươngHành giả muốn giác ngộ trước tiên con người phải cố gắng thanh lọc tất cả những nhơ bẩn nầy bằng cách thường xuyên tu tập thiền định. Theo Đức Phậthiểu biết đúng đắn về “Tánh Không” sẽ dẫn đến đoạn khổ đoạn não. Phật tử chân thuần nên luôn nhớ rằng khổ đau chỉ có thể vượt qua bằng cách triệt tiêu căn cố của chính nó. ‘Tánh Không’ tượng trưng cho một phương pháp tu tập hơn chỉ là một khái niệm để bàn luận. Như trên đã nói, về mặt tâm lý học, ‘Tánh Không’ là sự buông bỏ chấp thủPháp thoại về ‘Tánh Không’ nhằm để buông xả tất cả khát ái của tâm. Về mặt đạo đức học, sự phủ định của ‘Tánh Không’ là một hiệu quả tích cực, ngăn chặn Bồ Tát không làm các điều ác mà nỗ lực giúp người khác như chính bản thân mình. Đức hạnh nầy khiến nuôi dưỡng và tăng trưởng lòng từ bi. Về mặt nhận thức luận, ‘Tánh Không’ như ánh sáng chân trí tuệ rằng chân lý không phải là thực thể tuyệt đốiTri thức chỉ cung cấp kiến thức, không cung cấp trí tuệ chân thật và tuệ giác là vượt qua tất cả ngôn từ. Về mặt siêu hình, ‘Tánh Không’ nghĩa là tất cả các pháp không có bản chất, tánh cách và chức năng cố định. Về mặt tinh thần, ‘Tánh Không’ là sự tự doNiết Bàn hoặc giải thoát khỏi khổ đau phiền não. Như vậy, ‘Tánh Không’ không phải là lý thuyết suông, mà là nấc thang để bước lên giải thoátCông dụng duy nhất của ‘Tánh Không’ là giúp cho chúng ta loại bỏ khổ đau phiền não và vô minh đang bao bọc chúng ta để mở ra những tiến trình tâm linh siêu vượt thế giới nầy ngang qua tuệ giác.

Nói về Chân lý thứ tư là “Đạo Đế,” Đức Phật giúp chúng ta xác định những yếu tố dẫn đến sự diệt khổ và khẳng định ba thành phần căn bản của sự tu tập tâm linh Phật giáo: Giới, Định, và Huệ. Gần hai mươi sáu thế kỷ về trước, Đức Phật đã chiến đấu và chiến thắng như một vị anh hùng chinh phục và đạt được mục đích của Ngài. Ngài cũng đã tìm thấy những phẩm trợ đạo trên con đường tu tập diệt khổ và dẫn tới giác ngộ và quả vị Phật. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo bao gồm Tứ Chánh CầnTứ Như Ý TúcTứ Niệm XứNgũ CănNgũ LựcThất Bồ Đề Phần và Bát Thánh Đạo. Nói cách khác, Chân Lý về Đạo Diệt Khổcon đường giúp chúng ta đạt được trí tuệ tối thượng.” Bài pháp đầu tiên này của đức Phật đã trở thành cốt lõi của giáo pháp nhà Phật trong đó bao gồm những phẩm trợ đạo dẫn tới giác ngộ và quả vị Phật.

Tứ Diệu Đế được giải thích bằng cách dùng một hình thức bóng bẩy mang tính y học. Trong đế thứ nhất, thân phận con người được chẩn đoán là khổ. Chân lý thứ hai trích dẫn tham ái, nhân của chứng bệnh này. Chân lý thứ ba tạo nên một triệu chứng tình trạng, chỉ ra rằng có thể hồi phụcCuối cùng chân lý thứ tư, Bát Chánh Đạo đi đến sự diệt khổ là phương thuốc được kê toa để phục hồi sức khỏe bệnh nhân. Theo lệ thường, người ta cũng kết hợp hình thức hoạt động nào đó với từng chân lý một. Chân lý thứ nhất được ‘hiểu thông suốt.’ Chân lý thứ hai được loại trừ tận gốc: nó đòi hỏi sự khao khát cần được dập tắtChân lý thứ ba là cần được chứng nghiệm, để biến thành thực tế. Và chân lý thứ tư cần được trau dồi, “được biến thành hiện thực,” nghĩa là cần được gìn giữ và tuân thủToàn bộ Phật Pháp có thể được xem như là sự giải thích rộng rãi và tỉ mỉ từ Tứ Diệu Đế mà ra. Nói tóm lạigiáo pháp của Đức Phật được diễn tả rất ngắn gọn trong Tứ Diệu Đế, một trong những phương thức được chấp nhận rộng rãi nhất của tư tưởng Phật giáo. Những chân lý này công bố về “khổ” và sự chấm dứt khổ và phản ánh nội dung sự giác ngộ của Ngài.

Quyển sách nhỏ có tựa đề “Tứ Diệu Đế Yếu Lược” này không phải là một nghiên cứu về triết lý sống, mà nó chỉ đơn thuần trình bày bài pháp đầu tiên của đức Phật, một bậc giác ngộ vĩ đại trong lịch sử nhân loạiPhật tử chân thuần nên luôn nhớ rằng tu Phật không hẳn là cần thiết phải xuất gia vào chùa làm Tăng hay Ni, mà nó có nghĩa là bước vào việc thực tập những bài tập được liên kết để thiết lập những mẫu mực sống hằng ngày của mình, giúp cho đời sống của chúng ta gánh chịu ngày càng ít khổ đau phiền não và ngày càng trở nên yên bình, tỉnh thức, và hạnh phúc hơn. Đức Như Lai đã giải thích rõ về con đường diệt khổ mà Ngài đã tìm ra và trên con đường đó Ngài đã tiến tới quả vị Phật. Hành trang của cuộc hành trình hướng đến Niết Bàn bao gồm  chánh pháp của đức Phật hay nội dung của những chứng ngộ của con đường dẫn đến sự diệt khổ và diệt hết những nhân tố ngọn nguồn tạo ra khổ nằm trong dòng tâm thức. Trong đó bốn chân lý nhiệm mầu trong giáo lý nhà Phật đóng một vai trò rất quan trọng, vì chúng là giáo pháp căn bản của nhà Phật, chúng nói rõ do đâu có khổ và con đường giải thoát. Cuộc hành trình qua bờ bên kia (Niết Bàn) còn đòi hỏi nhiều cố gắng và hiểu biết liên tục. Đường tu tập còn đòi hỏi nhiều cố gắng và hiểu biết liên tục. Chính vì thế mà mặc dù hiện tại đã có quá nhiều sách viết về Phật giáo, tôi cũng mạo muội biên soạn tập sách “Tứ Diệu Đế Yếu Lược” song ngữ Việt Anh nhằm giới thiệu giáo lý nhà Phật cho Phật tử ở mọi trình độđặc biệt là những người sơ cơ. Những mong sự đóng góp nhoi nầy sẽ mang lại lợi lạc cho những ai mong cầu có được cuộc sống an bìnhtỉnh thức và hạnh phúc.

 Thiện Phúc

 

Preface

 ____________________________


Right after the Buddha’s Enlightenment at Buddha Gaya, He moved slowly across India until he reached the Deer Park near Benares, where he preached to five ascetics his First Sermon. The Sermon preached about the Middle Way between all extremes, the Four Noble Truths and the Noble Eightfold Path. In the Deer Park, Benares, at first the Buddha was ignored by the five brothers of Kaundinya, but as the Buddha approached them, they felt that there was something very special about him, so they automatically stood up as He drew near. Then the five men, with great respect, invited the Buddha to teach them what He has enlightened. So, the Buddha delivered His First Teaching: Turning the Wheel of the Dharma. He began to preach: “O monk! You must know that there are Four Noble Truths. The first is the Noble Truth of Suffering. Life is filled with the miseries and afflictions of old age, sickness, unhappiness and death. People chase after pleasure but find only pain. Even when they do find something pleasant they soon grow tired of it. Nowhere is there any real satisfaction or perfect peace. The second is the Noble Truth of the Cause of Suffering. When our mind is filled with greed and desire and wandering thoughts, sufferings of all types follow. The third is the Noble Truth of the End of Suffering. When we remove all craving, desire, and wandering thoughts from our mind, sufferings will come to an end. We shall experience undescribable happiness. And finally, the Noble Truth of the Path, the Path that helps us reach the ultimate wisdom.”

Broadly speaking on the Four Noble Truths, for the first Noble Truth is the Truth of Duhkha, affirms that everything is “duhkha”: birth, ageing, sickness, death, parting, unfulfilled desires, decay, the state of all phenomena constantly changing, any experience, whether pleasurable or painful, is “duhkha.” Duhkha is the condition of universal impermanence which affects everything. Even the “I” or “Self” has no enduring quality, because in reality it is merely an error arising from false conceptualization. This doctrine of “no-self” is one of three characteristics of all conditioned existence, together with “duhkha” and impermanence. It should be reminded that Buddhism defines suffering and happiness in a very simple way: What is difficult to bear is sorrow. Sorrow or suffering comes in different guises. It should be remembered that when the Buddha described our lives as “Dukkha”, he was referring to any and all unsatisfactory conditions. These range from minor disappointments, problems and difficulties to intense pain and misery. What can be borne with ease is happiness. When the Buddha described our lives as “Dukkha”, he was referring to any and all unsatisfactory conditions. These range from minor disappointments, problems and difficulties to intense pain and misery. Therefore, Dukkha should be used to describe the fact that things are not completely right in our lives and could be better. In other words, all existence entails suffering. All existence is characterized by suffering and does not bring satisfaction.Through meditation, Buddhist practitioners may see directly that all physical and mental phenomena share the characteristic of suffering.

Talking on the second Noble Truth, the Truth of the Origin of “duhkha,” explains that “duhkha” arises from craving (literally ‘thirst’; Pali, trishna): craving for sensual pleasure, for having more or for having less, for existence or for self-annihilation. Such craving or greed is part of a cycle that is described as a twelve-linked chain of Dependent Origination: it arises from feeling, which in turn arises from sense-contact, which arises from the six senses, which arise from mind and form, which arise from consciousness, which arises from formations, which arise from ignorance, which arises from suffering, which arises from birth, which arises from becoming, which arises from grasping, which arises from craving, and thus round and round again. One of the most celebrated principles of Buddhism, Dependent Origination underlies Karma, causality, change and free will, and the way in which all conditioned phenomena exist. It is usually described as beginning with ignorance or confusion. When a disciple came to the Buddha penitent over past misdeeds, the Buddha did not promise any forgiveness, for He knew that once commiting sins and karmas, big or tiny, each must reap the results sufferings and afflictions of the seeds that he or she had sown. Three Poisons of Greed-Anger-Ignorance are undisputably main causes of sufferings and afflictions. For these reasons, Buddhist practitioners should always try their best to find ways to subdue them. According to Buddhist teachings, cultivation, especially practices of meditation, will contribute an immense help to enable us to face all these with calm. Besides, wrong views considerably contribute to the accumulation of sufferings and afflictions. Wrong views are attitudes and doctrines that are antithetical to the teachings and practices of Buddhism. For example, belief in a truly existent self (atman);  rejection of the working of cause and effect (karma); eternalism or belief that there is a soul that exists after death; annihilationism or belief that the soul persishes after death; adherence to false ethics; 6) perceiving negative actions as good; and doubt regarding the central tenets of Buddhism. Wrong views also involve in stubbornly attaching to ones' prejudice views, vigorously and hostilely denying the existence of such things as past and future lives, the possibility of attaining Nirvana. These surely are causes of numerous kinds of sufferings and afflictions in this world.

Talking on the third Truth is the Noble Truth of the Cessation of Duhkha, this Truth asserts that there is an end to “duhkha”: supreme and final liberation is the “blowing out” of the fires of greed, hatred and delusion that occurs when the cause of “duhkha” is removed. When Dependent Origination is fully understood and its consequences drawn out, when the chain is broken and the craving that leads to endless births and deaths is abandoned, complete and final cessation of “duhkha” is achieved. The Buddha called the third Noble Truth “the Cessation.” This is not identical to nirvana. Nirvana is not an effect produced by a cause: if it were, it would arise dependently, and if it arose dependently, it would not be able to offer a means of escape from the clutches of karma and rebirth. In Buddhist cultivation, to subdue afflictions also means to eliminate sufferings. As mentioned above, afflictions also mean all defilements that dull the mind, the basis for all unwholesome actions as well as kinks that bind people to the cycle of rebirths. In Buddhist teachings, people also call Afflictions the thirst of Mara. In order to attain enlightenment, the number one priority is to eliminate these defilements by practicing meditation on a regular basis. According to the Buddha, the True Understanding of the State of Emptiness Will Lead to the Cessation of Sufferings and afflictions. Devout Buddhists should always remember that suffering can only be overcome through completely extinguishing the roots of suffering. Emptiness is a practical concept for cultivation, not a view for discussion. As mentioned above, psychologically, ‘Sunyata’ is detachment. The teaching of Sunyata is to empty the mind of cravings. Morally, this negation has a positive effect, namely, preventing one from doing evils and making one love oneself and others. It is to foster the virtue of compassion. Epistemologically, Sunyata is an unattached insight that truth is not absolutely true. It teaches that discursive knowledge does not provide true wisdom and that enlightenment is the abandonment of conceptual thinking. Metaphysically, Sunyata means that all things are devoid of definite nature, characteristic and function, and that metaphysical views are unintelligible and should be discarded. Spiritually, Sunyata is freedom, Nirvana or liberation from suffering of the world. The only use of the Emptiness is to help us get rid of sufferings and afflictions in this world and of the ignorance which binds us to it. It has only one meaning which is to help us transcend the world through wisdom.

Talking on the fourth Noble Truth, the Truth of the Eightfold Noble Path, the Buddha helps us identifying the factors leading to the cessation of “duhkha” and affirms the three essential elements of Buddhist spiritual training, moral conduct, concentration and wisdom. Almost twenty-six centuries ago, the Buddha struggled like a hero who conquered, he eventually gained his objects. He also discovered supportive conditions on the path of cessation of sufferings and leading to bodhi or Buddhahood. Thirty-seven limbs of enlightenment comprise of Four Right Efforts, Four Sufficiencies, Four Foundations of Mindfulness, Five Faculties, Five Powers, Seven Limbs of Enlightenments, and the Eightfold Noble Path. In other words, the Noble Truth of the Path, the Path that helps us reach the ultimate wisdom.” This first sermon became the core teachings of Buddhism which include supportive conditions leading to bodhi or Buddhahood.

The Four Noble Truths are commonly explained by use of medical allegory. In the First Noble Truth the human condition is diagnosed as being “duhkha.” The Second Noble Truth cites craving as the cause of this malady. The Third Noble Truth make a prognosis about the condition, proclaiming that recovery is possible. Finally, the Fourth Noble Truth, the Eightfold Noble Path to the Cessation of “duhkha,” is the medicine prescribed to restore the patient’s health. It is also customary to associate some sort of activity with each of the four Truths. The first Truth is to be “fully comprehended.” The second needs to be eradicated: it requires thirst to be quenched. The third Truth is to be realized, to be made into reality. And the fourth is to be cultivated, “to be brought into being,” that is, to be kept and followed. The entire Buddhist Dharma can be seen as an elaboration of the Four Noble Truths. In short, the Buddha’s teaching is most succinctly expressed in the Four Noble Truths, one of the most universally accepted formulations of Buddhism. These Truths proclaim “duhkha” and its cessation, and reflect the content of the Buddha’s enlightenment.

This little book titled “Essential Summaries of the Four Wonderful Truths” is not a philosiphical study of life, but a book that simply presents the first sermon of the Buddha, the Great Enlightened in human history. Devout Buddhists should always remember that cultivation in Buddhism does not necessarily mean to renounce the world and to enter into a temple as a monk or nun, but it means to enter into practicing well-being exercises that are linked to established daily life patterns that help make our lives bearing less and less sufferings and afflictions and becoming more and more peaceful, mindful and happy. The Buddha already explained clearly about the path of elimination of sufferings which He found out and He advanced to the Buddhahood on that path. The luggages of the journey of Nirvana comprise of the Buddha's Correct Dharma which is the content of realizations of the path and absence of suffering and its causes on the mindstreams. Among them, the Four Noble Truths play a very important role because they are fundamental doctrines of Buddhism which clarify the cause of suffering and the way to emancipation. The journey to reach the other shore (Nirvana) still demands continuous efforts with right understanding and practice. The path of cultivation still demands continuous efforts with right understanding and practice. Presently even with so many books available on Buddhism, I venture to compose this booklet titled “Essential Summaries of the Four Wonderful Truths” in Vietnamese and English to introduce basic things in Buddhism to all Vietnamese Buddhist followers, especially Buddhist beginners, hoping this little contribution will help Buddhists in different levels to understand on how to achieve and lead a life of peace, mindfulness and happiness.

Thiện Phúc

Tạo bài viết
11/11/2010(Xem: 192759)
01/04/2012(Xem: 38534)
08/11/2018(Xem: 17034)
08/02/2015(Xem: 56562)
free website cloud based tv menu online azimenu
Sau những ngày Miến Điện nghỉ Tết, nhóm thiện nguyện Ánh Sáng Từ Bi do Sư Cô Tn Như Hiếu điều hành đã tiếp tục dấn thân cứu trợ. Hôm nay 22. April 2025 chúng con xin tiếp tục tường trình hình ảnh cứu trợ động đất Myanmar đợt 5. Cũng như 4 đợt cứu trợ vừa qua, lần này chúng con cũng kết hợp cùng với chư vị Bhante, chư Tăng Ni VN tại Myanmar (Nhóm thiện nguyện Ánh Sáng Từ Bi, Quỹ Phụng Sự Tâm An, Quỹ Từ Tâm, nhóm Sư Cô Thích nữ Như Hiếu- Suriyavati) Xin tường trình Lộ trình đi cứu trợ miền động đất Myanmar.
Kính gửi : Chư tôn Hòa thượng Trưởng lão,Chư Hòa thượng,Chư Thượng tọa, Đại đức Tăng ni,Quý Phật tử trong vả ngoài nước : THÔNG BẠCH ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PHẬT LỊCH 2569 của HĐGPTƯ Chánh thư ký Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống,Tỳ kheo Thích Đức Thắng
Khởi sự với lòng từ mong muốn đem nguồn nước của đức “Đại Bi” khơi nguồn nơi khô cằn sỏi đá và thiếu nguồn nước vào mùa khô ở Đăk Nông, từ ngày 19 tháng Giêng năm Ất Tỵ (19/2/2025) chúng con đã đi tiền trạm, khảo sát các trường học/ khu dân cư cần giếng nước sạch ở Đăk Nông. Sau khi tiến hành khảo sát đợt 1 vào ngày 19/2/2025 và đợt 2 vào ngày 17/3/2025, chúng con đã chọn lọc trong số các trường đã khảo sát và quyết định tặng 18 giếng nước/công trình lọc nước phèn/máy phát điện cho 20 trường học thuộc tỉnh Đăk Nông (có 4 trường trong cùng khuôn viên đất ở 2 địa điểm sẽ sử dụng chung công trình được tặng).