Thư Viện Hoa Sen

Từ Paris Đến Quê Hương | Kỷ Niệm Với Anh Cao Huy Thuần (1937-1934) | Nhất Nguyên Phạm Trọng Chánh

13/07/20244:16 SA(Xem: 1879)
Từ Paris Đến Quê Hương | Kỷ Niệm Với Anh Cao Huy Thuần (1937-1934) | Nhất Nguyên Phạm Trọng Chánh

TỪ PARIS ĐẾN QUÊ HƯƠNG
KỶ NIỆM VỚI ANH CAO HUY THUẦN (1937-1934)
NHẤT UYÊN

            cao huy thuần (2)Anh Cao Huy Thuần vừa qua đời lúc 23giờ 26 ngày 7-7-1924 tại Paris.

Được tin anh qua đời tôi không khỏi ngậm ngùi, nhớ lại những kỷ niệm cùng anh suốt gần 60 năm,

từ Việt Nam đến Paris.

            Anh sinh tại Huế, học Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1955-1960) và dạy đại học Huế (1962-1964)

Năm 1964 anh sang Pháp du học. Năm 1969 anh bảo vệ Luận án Tiến sĩ Quốc Gia tại Đại Học Paris, và giảng dạy tại Viện Đại Học Picardie cho đến khi về hưu.

Tôi và anh cùng xuất thân từ Phong Trào Phật Giáo miền Trung, anh là đệ tử Thầy Trí Quang và anh là Chủ bút tờ báo Lập Trường tại Huế,  Chủ nhiệm là bác sĩ Lê Khắc Quyến, cha nhạc sĩ dương cầm Lê Khắc Thanh Hoài. Tôi là một huynh trưởng Gia Đình Phật Tử chăm lo sinh hoạt cho các thanh thiếu niên tại Phan Thiết. Những ngày tháng sôi động Phật Giáo Miền Trung, tôi và anh Nguyễn Bắc Sơn (nhà thơ) cùng cổ động cho tờ báo của anh. Những bài anh viết chúng tôi thường đọc và bàn luận sôi nổi.

            Tôi và anh cùng sinh ra trong một thế hệ mà phân nửa bạn bè hy sinh trên chiến trường, những hô hào cổ võ chiến tranh, chúng tôi chỉ thấy « chập chờn bay trên bại thắng, ngọn cờ khăn sô màu trắng » (Tâm Ca Phạm Duy. Để lại cho em). Và sau ngọn cờ khăn sô đó là thân xác, máu xương của cả một thế hệ, bao nhiêu nhân tài đất nước không được sống qua tuổi ba mươi, để xây dựng một đất nước nghèo nàn nhược tiểu vừa thoát khỏi thuộc địa, để trở thành tốt đẹp hơn, mà trở thành con tốt thí trên bàn cờ chính trị thế giới.

            Anh được học bổng du học, hay chỉ là việc tống khứ ra khỏi nước một phần tử xách động cho phong trào hòa bình. Nhưng dù thế nào, trong hoàn cảnh nào anh cũng gắng sức học tập để đạt những thành tựu gian nan trong Đại Học Pháp, hoàn thành luận án Tiến sĩ, làm trợ giáo, rồi giảng viên, thành Giáo sư Đại họccon đường gian nan, không dễ dàng gì trước bức tường bằng kính trong suốt những kỳ thị cực đoan.

            Anh vẫn sống trọn vẹn tâm hồn người Phật tử giữ năm giới cấm nhà Phật : Không giết người, không trộm cắp, không nói dối, không tà hạnh, không rượu chè say sưa. Những giới luật căn bản tưởng chừng như « ngây thơ » trước sự hổn loạn của xã hội, đạo đức bị sụp đổ, nhìn kỷ những luật pháp mọi thời, mọi xã hội cũng không ra ngoài những điều căn bản đó.

            Anh không thuyết giảng những lời cao siêu, khúc mắc,  nhưng nhìn anh, lời nói anh, tâm tình anh, bài viết anh đã bộc lộ những lời chân thật, chính những chân tình đó đã lôi cuốn thu hút người đọc, những người gặp anh, tiếp xúc với anh..

            Rồi đi du học sang Pháp năm 1970, tôi lại gặp anh và sinh hoạt cùng anh trong Hội Phật Tử Việt Kiều Hải Ngoại chi Bộ Pháp, Thầy Thích Thiện Châu, và báo Gió Nội tại Paris. Tôi và anh gặp nhau trong những buổi họp hằng tuần làm báo cùng anh Bùi Mộng Hùng, Trần Hải Hạc, Nguyễn Tùng, Lê Kim Chi, chị Thái Thị Kim Lan, anh Lê Văn Tâm, anh Trần Tiễn Tiến.. và những trại hè Phật Tử tại Pháp, trại mùa đông tại Đức, trong các buổi lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, Lễ Tết.. Bao lần tôi bàn luận cùng anh, nói chuyện tâm tình. Chuyện tâm tình anh thổ lộ trong hàng trăm bài viết, in thành sách, Nhưng chuyện tôi và anh tôi vẫn giữ mãi trong tim, và hôm nay anh đã ra đi.

            Những ngày Paris lúc anh còn sống độc thân, có lúc anh bị tách con ngươi mắt, suýt bị mù phải nằm Bệnh viện Cư xá Sinh viên hàng tháng trời, hai mắt anh băng kín, tôi ở trong cư xá gần bên, hàng ngày tôi đến chăm sóc, giúp ăn uống hằng ngày như người anh trong gia đình. Tôi thông cảm cùng anh mối tình không trọn vẹn, hằng tuần anh đi về giữa Paris và Munich,  hai người quý mến nhau, cùng tình yêu quê hương xứ Huế, nhưng tình yêu lại không thành. Rồi anh về Huế cưới chị Phương Liên, những ngày tháng dài đằng đẳng anh than thở « phải làm giấy chứng nhận cư trú cho vợ, một thủ tục hành chánh thật là buồn cười », công việc khó khăn nhiêu khê thời ấy phải nhờ đến nhà thơ Huy Cận can thiệp mới được nhanh chóng. Và chị đã sang anh mua nhà tại gần vườn Hồng, L ́Haie les Roses làm tiệc mời nhà thơ Huy Cận và tôi, nhân một chuyến Huy Cận sang Paris.

           Trong phong trào đấu tranh cho hòa bình Việt Nam tại Paris, anh Cao Huy Thuần, anh Đặng Tiến và tôi  là những người từng viết văn, làm báo, in sách, in thơ tại Việt Nam, nên tên thường xuất hiện chung trên báo chí Pháp Việt với tư cách nhân sĩ.

            Tôi kính phục anh tư cách điềm dạm, chín chắn, nói và viết tế nhị phong phú, văn chương anh nhẹ nhàng thanh thoát. Khi có những gì thắc mắc tôi hỏi anh, anh trả lời thông suốt gọn gàng.

Tại Paris, cậu tôi là TS Nguyễn Xuân Thọ nhân từng làm việc tại Bộ Ngoại Giao Pháp và soạn luận án về Bước đầu thâm nhập Pháp tại Việt Nam đã cung cấp cho anh nhiều tài liệu quý để hoàn thành Luận án Tiến sĩ Quốc Gia : Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa Pháp tại Việt Nam (1857-1914).

Khi sách TS Nguyễn Xuân Thọ xuất bản tại Mỹ và nhờ tôi phổ biến tại Pháp. Tôi mang đến anh Cao Huy Thuần, anh là người đầu tiên ủng hộ sách.

            Sống tại Pháp, nhưng thật sự chỉ dùng ngôn ngữ Pháp cho chuyện cơm áo, soạn luận án, soạn bài giảng dạy cho sinh viên để sinh sống hằng ngày. Nhưng khi trở về với lòng mình, thì chỉ là thơ, viết văn, viết nghiên cứu viết bằng tiếng Việt, đó là điều nghịch lý của những người yêu quê hương sống nơi xứ người. Dù thời gian ở xứ người gấp đôi, gấp ba lần thời gian sống trên quê hương. Người Việt nơi xứ người không phải là một người cô đơn, nơi xứ lạ mà chung quanh là một cộng đồng bạn bè Việt Nam, vợ con Việt, nấu ăn món Việt đủ mùi mắm muối quê hương. Họ không phải chỉ cần mắm muối mà còn cần những bài thơ, bài văn, bài nghiên cứu viết bằng tiếng Việt. Ở Pháp không thiếu tư liệu như nhiều người lầm tưởng, khác với thái độ trịch thượng : « ở xa Việt Nam mấy ông bà người Pháp gốc Việt ở lâu năm xứ người biết gì mà viết ! », mà cả một kho tàng văn hoá Việt Nam được lưu trử từ Trường Viễn Đông Bác Cổ, đến các thư viện quốc gia Paris cả một kho tàng bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ, chữ Pháp. Người Việt nước ngoài có cơ hội tiếp xúc rộng rãi với các nền văn minh thế giới, biết người, biết ta có thể giúp cho người trong nước mở rộng hơn tầm kiến thức văn minh nhân loại.

            Việt Nam là nơi quê cha, mẹ quê đất tổ dù đi xa nhưng làm sao có thể quên được, trong thời chiến tranh hàng ngày báo chí, truyền hình cảnh bom đạn trên đất nước. Người đi xa chỉ còn thấy : « Càng đi xa càng gần gủi quê nhà, Càng đau xót khi bom gầm đạn nổ, Muối xát tâm hồn, cay bỏng thịt da. Công cha như núi Trường Sơn,Thơ Nhất Uyên ». Đó là điều thôi thúc người Việt sống nơi xứ người dấn thân cho hoà bình, dù phải trải qua những gian nan bị cúp thông thành, cúp học bổng, cúp chuyển ngân.. và phải trở thành Tây giấy..

            Trong « Sen thơm và nắng hạ » anh viết : « Cả đời tôi cứ tự hỏi, ấy là viết văn để viết văn, viết văn như một nhu cầu, viết văn cho nữ thần nghệ thuật hay đó là bức thư tình máu thịt cho một người có thịt có xương. Câu hỏi càng hợp với thời đại, nhưng tôi cứ bỏ ngõ, việc gì mà phải trắng đen phân minh để mất đi cái hương vị của một thứ tình đầu. ? »

            Trong Sống và biển về Phật Giáo anh viết : « Ngồi thiền không phải là thu hẹp cái tâm lại vòo mục đích vị kỷ là để thành công, mà để rộng cái tâm ra cho cả cuộc đời . »

            Anh Cao Huy Thuần, anh Đặng Tiến và tôi là những người viết không mỏi mệt từ gần 60 năm qua, viết chẳng có một món tiền nhuận bút nào, chẳng lợi lộc nào, chẳng phục vụ cho một đảng phái mục đích chính trị nào, mỗi người một lãnh vực. Anh Cao Huy Thuần thiên về Phật Giáo, tùy bút tâm tình. Anh Đặng Tiến thiên về phê bình văn học phê bình các nhà thơ từ xưa đến nay, từ nam chí bắc không bị rào cản bởi vĩ tuyến nào, chính trị nào. Còn tôi nối tiếp các công trình nghiên cứu còn dang dỡ Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, từ chuyện vì bản Lưu Hương Ký bị cất dấu suốt 40 năm, tôi viết về Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Đoàn thị Điểm và từ đó sang các nhà thơ Cổ điển Việt Nam viết bằng chữ Hán , dịch thơ đường luật toàn bộ Tinh Sà Kỷ Hành của Phan Huy Ích, toàn bộ 100 bài Cúc thu bách vịnh thơ đối thoại giữa Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm, toàn bộ Hoàng Hoa Đồ Phả của Ngô Thì Nhậm... và sang dịch thuật bằng thơ lục bát, song thất lục bát các tác phẩm văn chương vĩ đại của nhân loại : Odyssée, Iliade của thi hào Homère, Thần Khúc của Dante, Tiểu Thuyết Hoa Hồng của Guillame de Lorris và Jean de Meun, Trường ca Roland. Les Lusiades của Camoẽs. Trường ca Roland. Énéide của Virgile. 

            Từ khi về hưu anh Cao Huy Thuần thường về nước, được mời thỉnh giảng , nói chuyện tại các đại học, các viện nghiên cứu. Các bài viết anh được tập họp xuất bản trong nước.

Thượng đế, Thiên nhiên, Người, Tôi và Ta (triết lý luậntư tưởng Phật Giáo) Nxb TPHCM. 2000.

tái bản Nxb Hồng Đức / Khai Tâm. 2017

Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa Pháp tại Việt Nam, 1857-1914. Nxb Tôn Giáo 2002. nxb Hồng Đức/ Phương Nam 2014.

Từ Đông sang Tây. Tập họp các bài viết tăng Giáo sư Lê Thành Khôi. Chủ biên cùng Nguyễn Tùng, Trần Hải Hạc, Vĩnh Sính. Nxb Đà Nẵng 2005.

Tôn Giáoxã hội hiện đại. Nxb Thuận Hóa. Phương Nam 2006 tái bản Nxb Hồng Đức Khai Tâm 2017.

Nắng và Hoa. Nxb Văn Hoá SàiGòn 2006.

Thế giới quanh ta. Nxb Đà Nẵng 2007.

Thấy Phật, Nxb Tri Thức / Phương Nam 2009, tái bản 2013.

Khi tựa gối khi cúi đầu. Nxb Văn Học, Nhã Nam 2011.

Chuyện trò. Nxb Trẻ 2014.

Nhật ký sen trắng Nxb Trẻ 2014.

Sợi tơ nhiện Nxb Trẻ 2015.

Đến với Phật cùng tôi Nxb Hồng Đức 2016.

Người khuân đá . Nxb Trẻ 2018

Sen thơm nắng hạ quê mình. Nxb Tri Thức/ Khai Tâm 2020

Im lặng như lời chia tay. Nxb Khai Tâm Đà Nẵng 2022.

            Và quyển sách cuối cùng của anh : Im lặng như lời chia tay. Anh viết : «  Hãy sống thử bao giờ cũng là khoảng khắc cuối cùng và hãy yêu cuộc đời như một ân huệ tối thượng mà ta phải đền đáp bằng tất cả tốt đẹp thánh thiện trong lòng. ». Như một lời vĩnh biệt ngừng viết và hôm nay anh đã thực sự ra đi ở tuổi 87. Anh đã sống trọn vẹn cuộc đời, để lại cho đời những gì anh mong ước và hôm nay anh đã thanh thản ra đi, và ngày 15, lễ hỏa táng thân xác anh cát bụi trở về cát bụi.

Ngồi viết về anh nhớ về anh, nhớ mãi những kỷ niệm vui buồn cùng anh.

Paris 13-7-2024

NHẤT UYÊN PHẠM TRỌNG CHÁNH


_________________

Trích từ bản tin Thư Viên Hoa Sen và báo Giác Ngộ:

....Trong đó có thể kể những tác phẩm và các bài viết sau:

Aung San Suu Kyi Và Hồn Của Nước
Bản chất văn hóa của cuộc đấu tranh Phật giáo trong Pháp nạn 1963
Bát Nước Của Ngài Anan
Bilingual: Flowers And Fruits (Thầy Nhất Hạnh In My Heart) / Hoa Và Trái 
Cái Mũi Của Darwin: Có Ai Thích Ông Nội Là Cà Khọt Cà Khẹt? - Gs. Cao Huy Thuần
Cái Mũi Của Darwin: Tiến Hóa Và Tình Cờ Ngâu Nhiên - Gs. Cao Huy Thuần
Cao Huy Thuần: "Trả Cái Đầu Lại Cho Cái Đầu"
Chén trà
Chiếc Áo - Giáo Sư Cao Huy Thuần
Cho tôi bát nước
Chuyện con cá
Chuyện Thiền - Cao Huy Thuần
Công Bằng, Dân Chủ Dưới Con Mắt Phật Giáo Gs. Cao Huy Thuần
Dân Chủ Và Phật Giáo - Cao Huy Thuần
Dân Tộc Tôi Chưa Xứng Với Tổ Tiên
Đạo Phật Hiện Đại Như Thế Nào Trước Mắt Tây Phương?
Đọc Kinh Bốn Mươi Hai Bài
Đối Thoại Về Bất Bạo Động Với Aung San Suu Kyi
Đức Phật và câu chuyện của con tôi
Đừng Gọi Tên Khỉ Nữa Mà Cảm Thấy Nhục Nhã Gs. Cao Huy Thuần
Giáo dục hàng hóa hay công ích?
Giáo Sĩ Thừa Sai Và Chính Sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam
Giới Thiệu Sách "BUÔNG“ Của Đỗ Hồng Ngọc
Gs Cao Huy Thuần: Ta Mất Đi Nền Văn Hóa Độc Lập?
Hai Bài Kinh Bát Nhã
Hãy Bay Với Hai Cánh Vào Hiện Đại - Cao Huy Thuần
Hoa Và Trái (Thầy Nhất Hạnh Trong Tôi) - Cao Huy Thuần
Hồn Của Cây Cao Huy Thuần
Kỷ Niệm 40 Năm 1963 Toàn Trị Và Ngoại Thuộc, Cao Huy Thuần
Mặt Trăng Thứ Nhất
Mẹ Tôi
Nắng Và Hoa Trên Mộ Cao Huy Thuần
Nước Giếng Trong Cao Huy Thuần
Oan Gia Nghiệp Báo
Pháp Nạn 1963: Tưởng Niệm, Bản Chất Văn Hóa, Tinh Thần Bất Bạo Động
Phật Giáo Chống Ai, Chống Gì
Phật Giáo Muốn Gì?
Quán Thế Âm Thấy Mùi Thơm
Sống không nhìn lui, sống không nhìn tới
Tại sao Phật giáo ảnh hưởng ở Phương Tây
Tặng người quét chùa trên núi Túy Vân
Thầy Trí Quang Một Trang Lịch Sử
Thầy Và Trò Cao Huy Thuần
Thế nào là một dân tộc văn minh
Thượng Đế, Thiên Nhiên, Người, Tôi & Ta
Toàn Trị Và Ngoại Thuộc Phần - Cao Huy Thuần
Tôn Giả Angulimala
Trị quốc mà cực đoan thì hỏng
Trung đạo qua hai bài thơ
Từ Đàm
Từ Một Kỷ Niệm Xa, Cao Huy Thuần
Tưởng Niệm Ngọn Đuốc 1963
Vài Điều Căn Bản Về Phong Trào Phật Giáo Cao Huy Thuần





 

Tạo bài viết
21/01/2018(Xem: 22285)
12/10/2016(Xem: 20271)
26/01/2020(Xem: 13164)
12/04/2018(Xem: 21349)
06/01/2020(Xem: 11943)
24/08/2018(Xem: 10371)
12/01/2023(Xem: 4851)
28/09/2016(Xem: 25954)
free website cloud based tv menu online azimenu
Sau những ngày Miến Điện nghỉ Tết, nhóm thiện nguyện Ánh Sáng Từ Bi do Sư Cô Tn Như Hiếu điều hành đã tiếp tục dấn thân cứu trợ. Hôm nay 22. April 2025 chúng con xin tiếp tục tường trình hình ảnh cứu trợ động đất Myanmar đợt 5. Cũng như 4 đợt cứu trợ vừa qua, lần này chúng con cũng kết hợp cùng với chư vị Bhante, chư Tăng Ni VN tại Myanmar (Nhóm thiện nguyện Ánh Sáng Từ Bi, Quỹ Phụng Sự Tâm An, Quỹ Từ Tâm, nhóm Sư Cô Thích nữ Như Hiếu- Suriyavati) Xin tường trình Lộ trình đi cứu trợ miền động đất Myanmar.
Kính gửi : Chư tôn Hòa thượng Trưởng lão,Chư Hòa thượng,Chư Thượng tọa, Đại đức Tăng ni,Quý Phật tử trong vả ngoài nước : THÔNG BẠCH ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PHẬT LỊCH 2569 của HĐGPTƯ Chánh thư ký Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống,Tỳ kheo Thích Đức Thắng
Khởi sự với lòng từ mong muốn đem nguồn nước của đức “Đại Bi” khơi nguồn nơi khô cằn sỏi đá và thiếu nguồn nước vào mùa khô ở Đăk Nông, từ ngày 19 tháng Giêng năm Ất Tỵ (19/2/2025) chúng con đã đi tiền trạm, khảo sát các trường học/ khu dân cư cần giếng nước sạch ở Đăk Nông. Sau khi tiến hành khảo sát đợt 1 vào ngày 19/2/2025 và đợt 2 vào ngày 17/3/2025, chúng con đã chọn lọc trong số các trường đã khảo sát và quyết định tặng 18 giếng nước/công trình lọc nước phèn/máy phát điện cho 20 trường học thuộc tỉnh Đăk Nông (có 4 trường trong cùng khuôn viên đất ở 2 địa điểm sẽ sử dụng chung công trình được tặng).