- Lời Mở Đầu
- 1. Quan Điểm Về Ăn Chay Của Phật Giáo Nam Truyền
- 2. Quan Điểm Về Ăn Chay Của Phật Giáo Bắc Truyền
- 3. Vấn Đề Ăn Chay Được Ghi Chép Trong Kinh Điển Phật Giáo Bắc Truyền
- 4. Quan Điểm Chung Của Phật Giáo Về Việc Ăn Thịt
- 5. Không Giết Hại Giới Luật Đầu Tiên Của Phật Giáo
- 6. Ăn Chay Có Phạm Tội Sát Sinh Không & Cỏ Cây Có Linh Hồn Không
- 7. Ăn Chay Vì Lòng Từ Bi
- 8. Vấn Đề Ăn Chay Ở Nhật Bản
- 9. Vấn Đề Ăn Chay Tại Tây Tạng
- 10. Việc Ăn Chay Tại Các Quốc Gia Tây Phương
- 11. Y Vào Ý Nghĩa, Không Y Vào Văn Tự Chữ Viết
- 12. Chuyển Đổi Chế Độ Từ Ăn Mặn Qua Ăn Chay
- 13. Thay Lời Bạt - Nhìn Lại 44 Năm Chuyển Đổi Chế Độ Ăn Uống
- 14. Phụ Lục 1: Buổi Thuyết Trình Về Vấn Đề Ăn Chay
- 15. Phụ Lục 2: Hỏi ĐápVề Ăn Chay
- Về Tác Giả
QUA LĂNG KÍNH PHẬT GIÁO
Tâm Diệu
Nhà xuất bản: Ananda Viet Foundation 2024
CHƯƠNG 9
VẤN ĐỀ ĂN CHAY TẠI TÂY TẠNG
Trong văn hóa Tây Tạng, việc tiêu thụ thịt được xem là điều bình thường, tuy nhiên căn cứ vào giới thứ nhất cấm sát sinh của Phật giáo, việc ăn thịt luôn đặt ra những vấn đề đạo đức quan trọng.
Người ta thường cho rằng độ cao và khí hậu khắc nghiệt của Tây Tạng đã ngăn cản sự phát triển của các loại rau củ quả nên việc ăn thịt là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, đối với nhiều người Tây Tạng, món bột lúa mạch rang (tsampa) là món ăn chính trong chế độ ăn uống, cùng với bơ và các sản phẩm từ sữa khác. Hầu hết người dân Tây Tạng lớn lên bằng cách ăn Tsampa và những người này ngẫu nhiên được xem như là những người ăn chay, đã sống lâu và khỏe mạnh, nên rõ ràng một chế độ ăn uống có thể phát triển tốt mà không cần phải ăn thịt.
Do thời tiết, trong lịch sử quốc gia này đã có những tháng mùa đông hoàn toàn không có rau; đối với nhiều người, thịt là lựa chọn duy nhất. Tuy vậy, trong phần lớn thời gian trong năm, người Tây Tạng thực sự đã tránh giết mổ động vật. Do đó, thịt là thực phẩm theo mùa chứ không phải là thực phẩm chủ yếu.
Đa số người dân Tây Tạng tin rằng thịt rất cần thiết cho sức khỏe con người và cơ thể sẽ trở nên yếu đuối nếu không có thịt. Truyền thống y học Tây Tạng cũng cho rằng thịt ngăn cản “khí dịch trở nên quá mạnh, và do đó coi việc ăn thịt là quan trọng để duy trì sự cân bằng của cơ thể. Các yếu tố khác cũng góp phần vào sự phổ biến của thịt, chẳng hạn như niềm tin văn hóa của người Tây Tạng rằng nó tượng trưng cho sự giàu có và địa vị do giá thành của nó cao so với các món ăn làm từ thực vật, hoặc ảnh hưởng của cái mà người ta gọi là “nam tính anh hùng” trong văn hóa đại chúng Tây Tạng— ý tưởng cho rằng thành công được đánh đồng với sức mạnh thể chất và sự thống trị, bao gồm cả sự thống trị và tiêu thụ thịt động vật.
Vậy thì những người ăn thịt ở đất nước Tây Tạng biện minh cho hành động của mình như thế nào? Và những người ăn chay ở Tây Tạng đã tranh luận trường hợp của họ như thế nào?
Theo học giả Geoffrey Barstow tác giả quyển sách The Faults of Meat Những lỗi lầm của thịt, cho biết điểm khởi đầu cơ bản của các học giả Tây Tạng là bản ghi chép kinh điển về lời dạy của Đức Phật. Những người ủng hộ việc ăn chay thường trích dẫn các tác phẩm như Kinh Lăng Già, trong đó Đức Phật bác bỏ quan điểm cho rằng ăn thịt khác với hành động sát sinh.
Barstow lưu ý rằng một trong những cách bảo vệ phổ biến nhất của Phật giáo đối với việc ăn thịt xoay quanh ý tưởng rằng người tiêu dùng không có lỗi nếu thịt được mua ở chợ; điều này tập trung vào một quy tắc tu viện thường được trích dẫn liên quan đến “ba thứ tịnh thịt”, theo đó nếu người tiêu dùng không đích thân giết con vật (1). Mắt không thấy giết: Chính mắt mình không thấy sinh vật ấy vì mình mà bị giết. (2). Tai không nghe giết: Đối với người đáng tin, không nghe nói sinh vật ấy vì mình mà bị giết. (3). Không nghi giết: Biết nơi đó không có nhà đồ tể, hoặc sinh vật ấy đã tự chết, vì thế không còn ngờ là vì mình mà sinh vật ấy bị giết.
Trong lịch sử, hầu hết người Tây Tạng đều đưa thịt vào chế độ ăn uống của họ. Tuy nhiên, có những ví dụ ban đầu về các bậc thầy Tây Tạng đã bác bỏ chuẩn mực này, tránh ăn thịt ngay cả khi các bậc thầy của họ chấp nhận nó.
Một trong những người ủng hộ việc ăn chay sớm nhất là đạo sư Bön Metön Sherab Özer (1058–1132), người có công trong việc thành lập tu viện Bön. Ông mô tả sự vô đạo đức và những rủi ro cá nhân của việc ăn thịt, nói rõ: “Theo định nghĩa, thứ được gọi là ‘thịt’ này xuất phát từ việc giết hại động vật. Không có lòng thương xót sẽ đưa người ấy vào địa ngục. Với sự hối tiếc lớn lao, hãy từ bỏ việc ăn nó. Thứ được gọi là ‘thịt’ này đến từ cha và mẹ.”
Những nhận xét của đạo sư Metön nêu bật vấn đề trọng tâm trong các cuộc tranh luận của người Tây Tạng về việc ăn thịt: lòng từ bi và mẫn cảm.
Niềm tin rằng lòng bi mẫn trong chế độ ăn uống là không thể thiếu trong đời sống tu viện đã được các học giả sau này ủng hộ, bao gồm Ngorchen Kunga Sangpo (1382–1456), bậc thầy có ảnh hưởng của trường phái Sakya của Phật giáo Tây Tạng và người sáng lập Tu viện Ngor Ewam Chöden. Việc Ngorchen ăn chay và việc ông nhấn mạnh rằng các tu sĩ trong tu viện của ông phải áp dụng chế độ ăn chay nghiêm ngặt đã khiến Ngor trở thành một trong những nơi hiếm hoi ở Tây Tạng có quy định ăn chay.
Ngorchen đã tìm cách khôi phục truyền thống Sakya trở lại vinh quang ban đầu bằng cách khai thác những gì ông tin là “những giáo lý thuần khiết và không tì vết của những người sáng lập Sakya vĩ đại thời kỳ đầu”. Điều này bao gồm việc lấy cảm hứng từ Jetsun Drakpa Gyaltsen (1147–1216), một trong năm vị sáng lập của dòng truyền thừa Sakya, người đã cẩn thận tránh ăn thịt và rượu trừ những dịp đặc biệt, chẳng hạn như biểu diễn nghi lễ Mật thừa.
Chính nghi lễ Mật thừa đã trở thành một vấn đề đối với những người Tây Tạng ủng hộ việc ăn chay. Thật vậy, làm thế nào những Phật tử Mật tông có thể tránh ăn thịt khi việc ăn thịt rất quan trọng đối với nghi lễ của họ? Một người tiên phong trong việc giải quyết vấn đề này là Dolpopa Sherab Gyaltsen (1292–1361), người sáng lập trường phái Jonang của Phật giáo Tây Tạng.
Dolpopa cho rằng việc giết mổ thịt là không được phép ngay cả trong bối cảnh Mật thừa. Loại thịt duy nhất được tiêu thụ trong nghi lễ Mật thừa phải đến từ những con vật chết tự nhiên - điều này, Dolpopa lập luận, tránh được những vấn đề liên quan đến việc giết một con vật, mà ông cảnh báo sẽ dẫn đến tái sinh trong cõi súc sinh. Điều quan trọng là Dolpopa cũng nhấn mạnh rằng chỉ những hành giả mật tông có chứng ngộ cao mới nên ăn thịt trong các nghi lễ - ông nói, bất kỳ ai khác cũng nên tránh việc vi phạm đạo đức này.
Bất chấp những lập luận của Metön, Ngorchen và Dolpopa, không phải tất cả các học giả Tây Tạng đều xem việc ăn chay là bắt buộc đối với các tu sĩ, hoặc thậm chí đối với các vị bồ tát. Học giả phái Geluk Khedrup Je Gelek Palsang (1385–1438) lập luận rằng ăn thịt không chỉ được phép về mặt đạo đức mà thậm chí, trong một số trường hợp, còn có đạo đức.
Khedrup đã tham gia vào hai truyền thống văn bản có vẻ trái ngược nhau – các quy tắc tu viện được nêu trong Luật Tạng và Kinh Lăng Già nói trên – để trình bày một phân tích có nhiều sắc thái nhằm tránh việc đơn giản trả lời có hoặc không đối với câu hỏi liệu ăn thịt là có vấn đề về mặt đạo đức. Ông lập luận rằng không có chỗ nào trong Luật Tạng Đức Phật cấm các tu sĩ ăn thịt, và ông lý luận rằng những tuyên bố của Đức Phật rằng không nên ăn một số loại động vật ngụ ý rằng ít nhất một số loại thịt được cho phép. Ông quay sang quy tắc nói trên về tam tịnh nhục tức ba loại tịnh thịt, mà ông tin rằng sẽ giúp người tiêu dùng thoát khỏi mọi trách nhiệm về nghiệp chướng bằng cách đảm bảo không liên quan đến việc giết hại động vật.
Dựa trên tác phẩm của nhà triết học Phật giáo Ấn Độ Bhaviveka thế kỷ thứ sáu, Khedrup bác bỏ ý kiến cho rằng nếu không ăn thịt thì sẽ không có giết chóc, nói rằng những tuyên bố như vậy dẫn đến những điều phi lý. Ví dụ, ông lập luận rằng nếu ai đó có tội về mặt đạo đức khi ăn thịt bị người khác giết chứ không phải để hưởng thụ, thì họ cũng đáng trách như nhau khi đeo ngọc trai, dùng đồ da, lụa hoặc len. Tất nhiên, những người ăn chay ngày nay sẽ đưa ra lập luận chính xác như vậy, nhưng Khedrup gần như chắc chắn sẽ coi việc ăn chay là phi lý. Đối với Khedrup, một người ăn thịt chỉ có lỗi và chỉ tích lũy nghiệp báo giết hại nếu anh ta trả tiền cho người bán thịt để giết một con vật sống để anh ta có thể ăn thịt nó vì mục đích hưởng thụ của riêng mình. Lưu ý rằng mối quan tâm của Khedrup không chỉ là hành động mà còn là trạng thái tinh thần của người tiêu dùng. Theo lập luận này, hành động với sự thèm muốn và ham muốn là vấn đề thực sự đối với một Phật tử ăn thịt, và nếu các tu sĩ ăn thịt mà không có bất kỳ cảm giác ham muốn nào cho sự thỏa mãn cá nhân thì họ sẽ được miễn trừ mọi hành vi sai trái.
Chuyển sang những lập luận ủng hộ việc ăn chay của Kinh Lăng Già, Khedrup cho rằng kinh này không dành cho các nhà sư mà dành cho các vị bồ tát, những người có “bản chất từ bi” và có “thân thể hoàn toàn thanh tịnh”, cùng với những đặc điểm đáng chú ý khác. Hơn nữa, Ngài tuyên bố rằng việc cấm ăn thịt của Kinh Lăng Già thậm chí không áp dụng phổ biến cho các vị bồ tát, những người mà Ngài khẳng định có thể ăn thịt mà không có lỗi trong một số trường hợp nhất định, chẳng hạn như khi ăn thịt sẽ mang lại lợi ích cho người khác hoặc chữa khỏi bệnh. Do đó, quan điểm của Khedrup hoàn toàn trái ngược với quan điểm của Dolpopa và Ngorchen khi ông đã nỗ lực hết sức để xác định các trường hợp mà Phật tử có thể và không thể ăn thịt, làm phức tạp thêm mọi giả định rằng thịt trên thực tế là phi đạo đức.
Bất chấp những khó khăn lớn trong việc ăn chay ở Tây Tạng, do khí hậu khắc nghiệt thiếu thảm thực vật, có rất nhiều ví dụ về các đạo sư Phật giáo Tây Tạng vĩ đại ủng hộ việc ăn chay, như Ngorchen Kunga Zangpo, Jonang Kunkhyen Dolpopa , Karmapa thứ 4, Karmapa thứ 8, Patrul Rinpoche và gần đây hơn là Jadral Rinpoche, Khenpo Tsultrim Lodro Rinpoche, Jetsunma Tenzin Palmo và Karmapa thứ 17, Orgyen Trinley Dorje.
Ngoài việc là người phát ngôn hàng đầu về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ trong Phật giáo Tây Tạng, Đức Karmapa thứ 17 còn là một trong những nhà ủng hộ Phật giáo Tây Tạng hàng đầu thế giới về việc ăn chay và quyền động vật vì lý do từ bi, môi trường và đạo đức. Ngài ấy đã nói về chủ đề này nhiều lần. Ngoài ra, khi còn là một thanh niên, mặc dù được nuôi dưỡng như một người ăn thịt trong một gia đình du mục ở Tây Tạng, nhưng sau đó Ngài đã từ bỏ thịt và rõ ràng không khuyến khích người khác mua, làm và ăn thịt.
Trong bài phát biểu của Đức Karmapa thứ 17 tại Kagyu Monlam năm 2007 ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ, trong đó ngài đã yêu cầu cấm mua, nấu và tiêu thụ thịt ở các trung tâm Phật pháp Karma Kagyu và tu viện. Việc này đã gây ra một số làn sóng chấn động trong khán giả trước sự nhấn mạnh trực tiếp và thẳng thắn của ngài rằng việc ăn thịt động vật bị cố ý giết để làm thức ăn không phải là Phật giáo, cũng không phải là một phần của truyền thống Karma Kagyu.
Tuy nhiên, không có nhiều thông tin về các vị Karmapa tiền nhiệm và quan điểm của họ về việc ăn thịt. Trên thực tế, các bài báo học thuật gần đây về chủ đề ăn chay ở Tây Tạng, xưa và nay, đã bỏ qua lối sống và thái độ ăn chay nghiêm ngặt của các vị Karmapa trước đây. Như Đức Karmapa thứ 17 đã giải thích, ăn chay không phải là một hiện tượng hiện đại ở Tây Tạng, các vị Karmapa trước đây cũng là những người nhiệt tình ủng hộ việc từ bỏ việc ăn thịt động vật bị sát hại.
Những giáo lý gần đây đáng chú ý vì đây là lần đầu tiên một vị thầy cao cấp của Phật giáo Tây Tạng và người đứng đầu một trong bốn dòng truyền thừa lớn đã ban những giáo lý chi tiết như vậy về lịch sử ăn chay của Phật giáo cũng như những lý do cho việc ăn chay nghiêm ngặt đó. Có những vị thầy khác đã nhấn mạnh mạnh mẽ đến sự cần thiết của việc ăn chay, chẳng hạn như Jadrel Rinpoche, nhưng Đức Karmapa thứ 17 là người duy nhất đứng đầu một dòng truyền thừa đã làm như vậy.
Hiện nay, các bác sĩ y khoa Tây Tạng càng lúc càng nhận thấy lợi điểm của việc ăn chay, kể cả Bác sĩ Tenzin Tsephal, giám đốc Y khoa Tây Tạng tại khu vực di dân chính của người Tây Tạng ở Dharamsala, ông nói: “Đức Lạt Lai Lạt Ma không cần phải ăn thịt để có sức khỏe. Không bao giờ tôi khuyên người nào đang ăn chay trở lại ăn thịt. Bác sĩ Tây Tạng nào làm như vậy là cổ hủ, không ý thức hoặc không cởi mở trước sự chọn lựa ngoài thịt này. Tôi nghĩ tất cả dân chúng Tây Tạng đều có thể và nên ngưng ăn thịt”!
Một điều đáng ngạc nhiên, năm 2004, công ty chuyên bán thịt gà chiên, Kentucky Fried Chicken (KFC), thông báo là họ sẽ mở một chuỗi tiệm bán thịt gà chiên bên Tây Tạng. Trước sự kiện đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đưa ra lời thỉnh cầu trước dân chúng như sau: “Thay mặt cho những bạn hữu thuộc hội PETA (hội bảo vệ thú vật), tôi xin được viết vài dòng yêu cầu KFC hãy hủy bỏ dự án mở tiệm bên Tây Tạng, vì công ty của quý vị ủng hộ việc đối đãi dã man và giết gia súc tập thể. Như vậy là xúc phạm tiêu chuẩn đạo đức của người dân Tây Tạng”. Sau đó ban quản lý của KFC hủy bỏ dự án của họ.
Trước khi xảy ra sự kiện này, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thực hiện nhiều cuộc vận động ăn chay khác. Ví dụ như năm 1993, ông xin các tiệm ăn ở Dharamsala, Ấn Độ, nơi định cư của cộng đồng người Tây Tạng lưu vong lớn nhất thế giới, hãy bán đồ chay để dân Tây Tạng được thưởng thức những món chay ngon miệng và tập ngưng ăn thịt. Kết quả đã có nhiều cư dân địa phương trở thành trường chay, và nhờ những tiệm chay này mà thực phẩm chay như đậu hũ đã được dân Tây Tạng biết đến.
Gần đây nhất, vào năm 1999, Geshe Thupten người đứng đầu phong trào Bác ái Đại đồng cổ động mạnh mẽ ăn chay và từ bi đối đãi với tất cả chúng sanh, được bầu làm chủ tịch Hội Quốc tế Gelug, là hội tiêu biểu cho đại tăng thống bên Tây Tạng, và ông đã thành công trong việc đưa một nghị quyết là tất cả những thường trú của các tu viện Gelug nam cũng như nữ đều chuyển sang ăn chay. Năm sau, các tăng chúng ở Gelug bầu ông lên làm người đại diện cho họ trong Quốc hội Tây Tạng Lưu vong tại Dharamsala, nơi đây ông đã đưa ra một điều luật vang danh lịch sử, tuyên bố năm 2004 là năm ăn chay của người Tây Tạng, và trong thời gian này toàn dân Tây Tạng được yêu cầu ăn chay. Quốc hội về sau đã thông qua đạo luật này, việc ăn chay không bị ép buộc mà chỉ khuyến khích thôi, do đó ăn chay đã được nâng lên hàng đầu trong lòng dân Tây Tạng. Luật này được coi như vĩ đại nhất trong số những luật tương tự kể từ khi có sắc lệnh Ashokan vào năm 200 B.C., đã thành lập nền tảng ăn chay bên Ấn Độ.