Thư Viện Hoa Sen

Quán Thật Tướng Của Thế Giới | Nguyễn Thế Đăng

24/06/20253:40 SA(Xem: 191)
Quán Thật Tướng Của Thế Giới | Nguyễn Thế Đăng

QUÁN THẬT TƯỚNG CỦA THẾ GIỚI
Nguyễn Thế Đăng

 

lotus flower (3)Con người luôn luôn bị nhốt trong hoạt động tám thức của mình, càng ngày càng bị dính mắc trói buộc vào cuộc đờithế giới do thức biến này.

Với hệ thống Bát nhã, giải thoát là soi thấy (chiếu kiến, quán chiếu) tất cả các hiện tướngtánh Không, không có tự tánh nên như huyễn như mộng. Với Duy thức, tất cả các hiện tướng đều do thức biến, cho nên giải thoát có nghĩa là thoát khỏi các hoạt động làm mê lầm của thức. Giải thoátgiải thoát khỏi sự trói buộc, che ám, làm méo mó của thức. Khi ấy người ta sẽ thấy thế giớiViên thành thật, thế giớiChân Như. Mục tiêu của Đại thừa là “chuyển sanh tử thành Niết bàn”, “chuyển trần gian thành Tịnh độ”; muốn làm như thế, với Duy thức, thì phải “chuyển thức thành trí”.

 

Thực hành Duy thức là biết tất cả hiện tướng đều “do tự tâm hiện”.

Kinh Nhập Lăng Già, phẩm Tập tất cả pháp nói:

Bấy giờ Đại Bồ tát Đại Huệ quán sát tất cả chúng sanh đời vị lai, lại thưa hỏi Phật rằng:

Xin nói cho con pháp tu hành đầy đủ để thành bậc đại tu hành như các Đại Bồ tát.

Phật dạy: Đại Huệ! Đại Bồ tát đầy đủ bốn pháp thì thành bậc đại tu hành. Bốn pháp là gì? Đó là:

Quán sát do tự tâm hiện. Xa lìa cái thấy sanh, trụ, diệt. Khéo biết pháp bên ngoài không có tự tánh. Chuyên cầu thánh trí tự chứng. Nếu các Bồ tát thành tựu bốn pháp ấy thì được gọi là bậc đại tu hành”.

 

Để thoát khỏi thế giới mê lầm và hạn cuộc do chấp thật này, người ta phải thực hành bốn pháp. Tại sao gọi là mê lầm và hạn cuộc? Mê lầm bởi vì thế giới của con người khởi sanh từ sự phân biệt, chia tách giữa một chủ thể và các đối tượng của chủ thể ấy. Khi đã có sự phân biệt, chia tách thì có đủ thứ phiền não tham, sân, si, kiêu căng, đố kỵ… làm mọi sự trở thành méo mó, nhiễm ô.

Trong các kinh thường nói con đường tu hành có ba giai đoạn.

Văn là nghe, đọc, học, nghiên cứu và điều này cũng phát sanh huệ, huệ của nghe (văn huệ).

tư duy, suy nghĩ, phản biện để tin hiểu sâu sắc. Tư duy cũng có huệ, gọi là tư huệ.

Tu là đưa pháp ấy vào thực hành, áp dụng trong đời sống hàng ngày, nghĩa là trong khi ngồi thiền định thiền quán, và trong khi sau thời ngồi thiền, đi đứng nằm ngồi, ăn uống, hoạt động.

 

Đại Huệ! Sao là quán sát do tự tâm hiện? Nghĩa là quán ba cõi duy chỉ là tự tâm, lìa cái tôi và đối tượng của cái tôi, không có động tác, không có đến đi. Do huân tập tập khí lỗi lầm bám nắm từ vô thủy rồi phân biệthiển hiện các thứ sắc, hành, danh từ, lời nói, thân thể, tài sản, chỗ ở, các thứ trói buộc trong ba cõi.

Đại Bồ tát quán sát tự tâm hiện như vậy”.

Tất cả mọi thứ thấy được, nghe được, kinh nghiệm được trong ba cõi “duy chỉ là tự tâm hiện”. Sự không biết điều này càng được làm mạnh thêm bởi danh từ, ngôn ngữ, khiến mê lầm càng nặng nề thêm.

Khi đã tư duy rằng tất cả kinh nghiệm cá nhâncộng đồng (như đường xá, núi, biển… là kinh nghiệm chung, cộng đồng) đều do tự tâm hiện, do thức mà xuất hiện, tin hiểu điều đó, người ta đi vào thực hànhthiền địnhthiền quán để chứng thực được tất cả mọi tướng xuất hiện đều duy tự tâm hiện. Càng chứng thực cuộc sống bên trong và bên ngoài là do tự tâm hiện bao nhiêu, người ta càng giải thoát khỏi trò phóng chiếu của thức bấy nhiêu.

Người ta không cần chấm dứt cuộc đời do thức phóng chiếu, biến hiện này, người ta chỉ cần Biết, thay vì không biết (vô minh), rằng đây là do thức biến hiện, người ta bèn được giải thoát, nghĩa là tỉnh thức, biết như mộng như huyễn.

Thí dụ như một người từ bé sanh ra trong một rạp chiếu phim, càng lớn lên nó càng tự đồng hóa với các nhân vật và quang cảnh của phim, rồi khóc cười, vui buồn, sống chết theo phim. Nhưng khi nó biết đây chỉ là một cuốn phim, máy chiếu là “tự tâm hiện”, nó dần dần tỉnh giấc, nhận ra mình là người xem phim chứ không phải là người trong phim. Người ấy có thể tiếp tục xem phim, không cần phải bỏ chạy ra khỏi rạp, nhưng biết mình là ai, biết con người thật sự của mình, không còn chạy theo những phóng chiếu ảo ảnh của thức. Đó là người giải thoát, tự do.

 

Đại Huệ! Sao là xa lìa cái thấy sanh trụ diệt? Nghĩa là quán thấy tất cả pháp như huyễn mộng sanh; tự sanh, tha sanh, tự tha cùng sanh đều chẳng sanh, chỉ theo tâm lượng mà hiện. Thấy ngoại vật không có, thấy các thức chẳng khởi, các duyên không hợp tụ, thấy rằng do phân biệtduyên khởi ra ba cõi. Khi quán như thế, hoặc trong hoặc ngoài, tất cả các pháp đều chẳng thể đắc, biết không có thực thể, xa lìa cái thấy có sanh, chứng tánh như huyễn, tức thời liền đắc vô sanh pháp nhẫn, trụ địa thứ tám, rõ tâm, ý, ý thức, năm pháp, ba tánh, hai vô ngã, chuyển thức sở y, được ý sanh thân”.

Cái thấy có sanh, có trụ, có diệt là cái thấy có tướng. Tướng, hiện tướng thì có sanh có diệt. Cái thấy các tướng sanh diệt cũng là cái thấy tạo ra sanh tử luân hồi liên miên sanh diệt.

Vậy thì xa lìa cái thấy sanh, trụ, diệt nghĩa là xa lìa cái thấy tướng. Như Kinh Kim Cương nói, “Phàm hễ có tướng đều là hư vọng. Thấy các tướng chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai”. Không tông (hệ Đại Bát nhã) thấy “các tướng chẳng phải tướng” này bằng cách thấy các tướng là vô tự tánh, là tánh Không.

Kinh Kim Cương cũng nói việc xa lìa tướng:

“Lìa hết thảy tướng tức gọi là chư Phật”.

bài kệ cuối cùng của Kinh Kim Cương nói các tướng là như huyễn như mộng:

Tất cả pháp hữu vi

Như mộng, huyễn, bọt, bóng

Như sương, như điện chớp

Phải quán thấy như vậy.

Qua đó, chúng ta thấy Không tôngDuy thức tông cùng đạt đến tánh Không như huyễn như mộng, chỉ khác nhau ở điểm khảo sát, điểm làm việc ban đầu, một bên là thế giới sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, một bên là “ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức”.

 

Về Duy thức, người ta xa lìa cái thấy sanh trụ diệt bằng cách thấy tất cả pháp có sanh diệt đó là sanh diệt của thức, không thật có sanh. Thấy các thức không có thực thể, đều chẳng thể đắc nên như huyễn như mộng, thấy như tuồng có sanh mà thật chẳng sanh: “các thức chẳng khởi”. Thấy chẳng có hiện tướng nào hợp với hiện tướng nào, “các duyên không hợp tụ”, cho nên tất cả hiện tướng đều “chẳng thể đắc”. Ba cõi là do thức phân biệt hư vọngduyên khởi ra, cho nên duyên khởi như huyễn như mộng ấy cũng là vô sanh.

 

Về tư duyquán chiếu thì thấy nhiều ý, nhiều câu như vậy, nhưng thật ra, chỉ cần thấy trực tiếp tất cả sự vật, tất cả người… đều là do tự tâm hiện, đều là biểu hiện của thức, người ta “tức thời liền đắc vô sanh pháp nhẫn”. “Ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức”.

 

Vô sanh pháp nhẫngiải thoát, địa thứ tám, tương đương với vị A la hán.

Ở địa Vô sanh pháp nhẫn người ta biết “rõ tâm (a lại da), ý (mạt na), ý thức”, ba thức chuyển để tạo ra sanh tử. Thấu hiểu được tâm, ý, ý thức là “thấy các thức chẳng khởi”, ba thức vốn vô sanh.

Thấu rõ cơ cấu vô minh của ba thức, đó là “chứng tánh như huyễn, tức thời liền đắc vô sanh pháp nhẫn”.

 

Năm pháp là danh, tướng, vọng tưởng phân biệt, chánh trí, như như. Ba tự tánhBiến kế sở chấp, Y tha khởi và Viên thành thật. Hai vô ngã là người vô ngãpháp vô ngã. Chuyển y là chuyển ba thức bị nhiễm ô bởi vô minh phiền não thành thanh tịnh, thoát khỏi thế giới sanh diệt. Ý sanh thân, thân do ý sanh, là khi ba thức đã thanh tịnh không còn vướng mắc trong thế giới hiện tướng, thì ý (trong nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) thành thanh tịnh không còn bị trói buộctự do, muốn đến nơi nào là đến. Thí dụ như vãng sanh về Tịnh độ là do ý sanh thân.

Kết luận đoạn kinh này, thức phân biệt là cái đã đẩy đưa chúng ta vào sanh tử. Nhưng như một câu nói của Mật thừa, “Chúng ta đã ngã té trên đất, cũng chính nhờ đất mà chúng ta chống tay đứng dậy”, chúng ta ngã té vào thức thì cũng chính nhờ thức mà chúng ta giải thoát. Giải thoát bằng cách nào? Thức không phân biệt chính là giải thoát. Đó là chuyển thức thành trí; chuyển cái nghiệp (thói quen) của thức là phân biệt để thành trí vô phân biệt.

 

Đoạn kinh tiếp theo nói thêm về ý sanh thân:

Đại Huệ nói: Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà gọi là ý sanh thân?

Phật dạy: Đại Huệ! Thân do ý sanh là thí như ý di chuyển nhanh chóng vô ngại, gọi là ý sanh thân. Đại Huệ! Thí như tâm ý cách xa vô lượng trăm ngàn do tuần, nhớ đến đủ thứ vật thấy trước kia, niệm niệm liên tục liền đi đến đó, chẳng bị thân và núi sông, đá vách làm ngăn ngại. Thân do ý sanh cũng lại như thế, lực như huyễn, thần thông tự tại, các tướng trang nghiêm, nhớ bổn nguyện thành tựu chúng sanh, giống như ý di chuyển, sanh vào tất cả thánh chúng. Đó gọi là Bồ tát đắc xa lìa cái thấy sanh, trú, diệt”.

Xa lìa cái thấy tướng sanh, trú, diệt thì đi vào như huyễn tam muội, và lực như huyễn này cùng với nguyện lực Bồ tát thành tựu cho chúng sanh và các công đức (“các tướng trang nghiêm”) khiến Bồ tát có thân do ý sanh đi đâu tùy ý.

Đây là sức mạnh của việc tu chứng như huyễn như mộng để thoát khỏi sự ràng buộc, vướng mắc của các thế giới hiện tướng.

 

Đại Huệ! Sao là quán sát ngoại pháp không có tự tánh? Nghĩa là quán sát tất cả pháp như sóng nắng, như cảnh mộng, như tóc rủ trước mắt, chỉ toàn là thảy thảy bám dính, hý luận, tập khí xấu ác hư vọng từ vô thủy làm nhân”.

Hý luận là ‘biện luận trên cái không thật có, như lý luận về nước do sóng nắng mà tưởng lầm, về một cảnh trong mộng, về tóc rủ do mắt nhòa nhìn thấy. Tất cả những vật, những điều thấy trong cuộc đời chỉ là do thói quen, trí nhớ, tập khí phóng hiện ra mà thành. Như một người từng làm thương tổn chúng ta thì bây giờ thấy người ấy tức thì tập khí khó chịu, ác cảm lại phủ lên kinh nghiệm về người ấy. Thích núi hay thích sông, thích tuyết trắng hay sa mạc, đó là do tập khí tích tập từ các đời trước còn nằm trong tạng thức ở dạng hạt giống, giờ gặp duyên mới hiện hành.

 

Quán sát tất cả các pháp bên ngoài đều như huyễn, như mộng, thấy xuất hiện nhưng không thật hiện hữu vì không có tự tánh, chỉ là sự chuyển động tương tác của các thức, người ta dần dần thoát khỏi sức mạnh của “tâm hiện, thức biến” này. Đây là thực hành “ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức”.

Thực hành cho đến khi thuần thục, trực tiếp thể nghiệm “tánh duy thức”, đạt đến như huyễn tam muội thì giải thoát, vì đâu còn có cái gì trói buộc, làm vướng mắc được nữa.

 

Khi quán sát tất cả pháp như vậy, bèn chuyên cầu tự chứng thánh trí.

Đại Huệ! Đó gọi là Bồ tát đủ bốn pháp thành bậc đại tu hành. Ông nên như vậy mà chuyên cần nỗ lực tu học”.

Thứ tư là “chuyên cầu tự chứng thánh trí”. Thực hànhchuyên cần nỗ lực tu quán tất cả các pháp đều do tự tâm hiện nên như huyễn như mộng để chứng đắc Như huyễn tam muội, Vô sanh pháp nhẫn.

 

“Chuyên cầu thánh trí tự chứng”, không phải riêng cho mình, Bồ tát còn “chuyên cầu” vì chúng sanh đang lạc vào cảnh mộng huyễn mà không biết, lạc lỏng khổ đau mà không tìm được lối ra. Thế nên, “chuyên cầu” còn là sự thực hành với lòng bi dành cho chúng sanh.

 

Cảnh là do tự tâm hiện nên như huyễn, như mộng, vô tự tánh nên là tánh Không. Và cái tự tâm hiện này cũng vô tự tánh, là tánh Không, là vô sanh.

Tất cả pháp không sanh

Tịch tĩnh không sở tác

Tánh mọi sự đều lìa

Ta nói nghĩa sát na

….

Pháp tương tục không dứt

Các nẻo phân biệt khởi,

Vô minh là nhân ấy

Tâm liền theo đó sanh

Khi sắc còn chưa đến

Trung gian, tâm ở đâu?

Tương tục không dứt, diệt

Mà riêng có sắc khởi

Khi sắc, tâm chẳng trụ

Duyên vào đâu mà sanh?

(Nhập Lăng Già, phẩm Sát na, thứ 6)

Tâm cũng không sanh, trụ, diệt, nghĩa là vô tự tánh, tâm là tánh Không, tâm là Vô sanh.

Cả cảnh lẫn tâm đều vô sanh, đều là tánh Không, đây là giải thoát rốt ráo.

 

Trong Bài Nguyện Đại Ấn của đức Karmapa đời thứ 3, Rangjung Dorje (1284 - 1339), câu 17 và 18:

17.    Khi liên tục quán cái tâm không thể thấy,

Thấy rõ ràng nghĩa chân thật như nó là.

Cắt đứt mọi nghi ngờ về có và không,

Nguyện bản tánh không lỗi lầm tự phát lộ.

 

18.    Khi quán sát cảnh, thấy tâm không thấy cảnh

Khi quán tâm, tâm vô tự tánh, là Không.

Quán cả hai, chấp nhị nguyên tự giải thoát

Nguyện chứng quang minh thường trụ của tâm. 

 

Tạo bài viết
11/11/2010(Xem: 193596)
01/04/2012(Xem: 39597)
08/11/2018(Xem: 17959)
08/02/2015(Xem: 57832)
free website cloud based tv menu online azimenu
Tòa án Tối cao phán quyết rằng một nữ tu Phật giáo đã thọ giới đầy đủ phải được chính thức công nhận là một tỳ kheo ni—lần đầu tiên tòa án tối cao của Sri Lanka phán quyết rằng nhà nước có nghĩa vụ theo hiến pháp phải đối xử với một tỳ kheo ni ngang bằng như với một tỳ kheo.
Thầy Chân Pháp Từ, người xuất thân từ Làng Mai của thiền sư Nhất Hạnh, đang trụ trì đạo tràng Tâm Kim Cương, Hawaii, trao đổi với Nguyễn Hòa, tại chùa Phổ Giác, Novato, California. Ngày 25/5/2025.