THIỆN PHÚC
NGŨ GIA THẤT TÔNG
YẾU LƯỢC
ESSENTIAL SUMMARIES OF
THE FIVE HOUSES & SEVEN SCHOOLS
QUYỂN III
Copyright © 2024 by Ngoc Tran. All rights reserved.
No part of this work may be reproduced or transmitted in any form or by any means, electronic or mechanical, including photocopying and recording, or by any information storage or retrieval system without the prior written permission of the author, except for the inclusion of brief quotations. However, staff members of Vietnamese temples who want to reprint this work for the benefit of teaching of the Buddhadharma, please contact Ngoc Tran at (714) 778-2832.
Mục Lục Tập III
Table of Content Volume III
Mục Lục—Table of Content
Lời Đầu Sách—Preface
Phần Bảy—Part Seven: Sơ Lược Về Pháp Nhãn Tông—Summaries of the Fa Yen Tsung
Chương Bảy Mươi Hai—Chapter Seventy-Two: Những Vị Tổ Tiên Phong Của Thiền Phái Pháp Nhãn—The Pioneer Patriarchs of the Fa Yen Zen Schools
Chương Bảy Mươi Ba—Chapter Seventy-Three: Sơ Lược Về Thiền Sư Pháp Nhãn Văn Ích & Pháp Nhãn Tông—A Summary of Zen Master Fa Yen Wen I & the Fa-Yan Zen School
Chương Bảy Mươi Bốn—Chapter Seventy-Four: Pháp Nhãn Tông Đời Thứ Hai-Nối Pháp Thiền sư Pháp Nhãn—The Second Generation of the Fa-Yen Tsung-Zen Master Fa-yen's Dharma Heirs
Chương Bảy Mươi Lăm—Chapter Seventy-Five: Pháp Nhãn Tông Đời Thứ Ba-Nối Pháp Thiền Sư Đức Thiều—The Third Generation of the Fa-Yen Tsung-Zen Master Te-Shao's Dharma Heirs
Phần Tám—Part Eight: Thiền Sư Dương Kỳ Phương Hội & Thiền Phái Dương Kỳ—Zen Master Yang-Chi Fang Hui & Yang Chi Zen Sect
Chương Bảy Mươi Sáu—Chapter Seventy-Six: Những Vị Tổ Tiên Phong Của Thiền Phái Dương Kỳ—The Pioneer Patriarchs of The Yang Chi Zen Branch
Chương Bảy Mươi Bảy—Chapter Seventy-Seven: Thiền Sư Dương Kỳ Phương Hội: Khai Tổ Thiền Phái Dương Kỳ—Zen Master Yang Chi Fang Hui: The Founding Patriarch of the Yang Chi Zen Sect
Chương Bảy Mươi Tám—Chapter Seventy-Eight: Sơ Lược Về Thiền Phái Dương Kỳ & Tổ Sư Của Những Dòng Truyền Thừa—Summaries of the Yang Chi Zen Sect & Patriarchs of Lineages of Transmission
Chương Bảy Mươi Chín—Chapter Seventy-Nine: Thiền Phái Dương Kỳ Đời Thứ Hai-Nối Pháp Thiền Sư Dương Kỳ Phương Hội—The Second Generation of the Yang Chi Zen Sect-Zen Master Yang Chi Fang Hui's Dharma Heirs
Chương Tám Mươi—Chapter Eighty: Thiền Phái Dương Kỳ Đời Thứ Ba Tính Từ Thiền Sư Dương Kỳ Phương Hội—The Third Generation of the Yang Chi Zen Sect Counted from Zen Master Yang Chi Fang Hui
Chương Tám Mươi Mốt—Chapter Eighty-One: Thiền Phái Dương Kỳ Đời Thứ Tư Tính Từ Thiền Sư Dương Kỳ Phương Hội—The Fourth Generation of the Yang Chi Zen Sect Counted from Zen Master Yang Chi Fang Hui
Chương Tám Mươi Hai—Chapter Eighty-Two: Thiền Phái Dương Kỳ Đời Thứ Năm Tính Từ Thiền Sư Dương Kỳ Phương Hội—The Fifth Generation of the Yang Chi Zen Sect Counted from Zen Master Yang Chi Fang Hui
Chương Tám Mươi Ba—Chapter Eighty-Three: Thiền Phái Dương Kỳ Đời Thứ Sáu Tính Từ Thiền Sư Dương Kỳ Phương Hội—The Sixth Generation of the Yang Chi Zen Sect Counted from Zen Master Yang Chi Fang Hui
Chương Tám Mươi Bốn—Chapter Eighty-Four: Thiền Phái Dương Kỳ Đời Thứ Bảy Tính Từ Thiền Sư Dương Kỳ Phương Hội—The Seventh Generation of the Yang Chi Zen Sect Counted from Zen Master Yang Chi Fang Hui
Chương Tám Mươi Lăm—Chapter Eighty-Five: Chư Thiền Đức Khác Trong Thiền Phái Dương Kỳ—Other Zen Virtues of the Yang-chi Zen Sect
Phần Chín—Part Nine: Thiền Sư Hoàng Long Huệ Nam & Thiền Phái Hoàng Long—Zen Master Huang Lung Hui Nan & Huang Lung Zen Sect
Chương Tám Mươi Sáu—Chapter Eighty-Six: Những Vị Tổ Tiên Phong Của Thiền Phái Hoàng Long—The Pioneer Patriarchs of The Huang Lung Zen Branch
Chương Tám Mươi Bảy—Chapter Eighty-Seven: Thiền Sư Hoàng Long Huệ Nam: Khai Tổ Thiền Phái Hoàng Long—Zen Master Huang Lung Hui Nan: The Founding Patriarch of the Huang Lung Zen Sect
Chương Tám Mươi Tám—Chapter Eighty-Eight: Thiền Phái Hoàng Long Trung Hoa—The Chinese Huang Lung Zen Sect
Chương Tám Mươi Chín—Chapter Eighty-Nine: Thiền Phái Hoàng Long Đời Thứ Hai Nối Pháp Thiền Sư Huệ Nam Hoàng Long—The Second Generation of the Huang Lung Zen Sect Zen Master Hui-Nan Huang-Lung's Dharma Heirs
Chương Chín Mươi—Chapter Ninety: Thiền Phái Hoàng Long Đời Thứ Ba Tính Từ Thiền Sư Hoàng Long Huệ Nam—The Third Generation of the Huang Lung Zen Sect Counted from Zen Master Huang Lung Hui Nan
Chương Chín Mươi Mốt—Chapter Ninety-One: Thiền Phái Hoàng Long Đời Thứ Tư Tính Từ Thiền Sư Hoàng Long Huệ Nam—The Fourth Generation of the Huang Lung Zen Sect Counted from Zen Master Huang Lung Hui Nan
Phần Mười—Part Ten: Phụ Lục—Appendices:
Phụ Lục A—Appendix A: Bốn Nét Đặc Ttrưng Của Thiền Tông Phật Giáo—Four Special Characteristics of Zen Buddhism
Phụ Lục B—Appendix B: Tam Thân Phật Theo Thiền Tông—Trikaya According to the Zen School
Phụ Lục C—Appendix C: Bốn Giai Đoạn Trong Sự Phát Triển Của Thiền Tông—Four Stages of Development of Zen in Zen Sect
Phụ Lục D—Appendix D: Bát Câu Nghĩa Đóng Vai Trò Then Chốt Trong Thiền Tông—Eight Fundamental Principles Play the Key Role in the Zen School
Phụ Lục E—Appendix E: Phần Dương Thập Bát Vấn—Fen-Yang's Eighteen Kinds of Questions
Phụ Lục F—Appendix F: Kinh Sách Về Thiền—Books on Meditation
Phụ Lục G—Appendix G: Năm Cấp Chứng Ngộ Của Thiền sư Động Sơn Lương Giới—Five Degrees of Enlightenment of Zen Master Tung Shan Liang Chieh
Phụ Lục H—Appendix H: Quách Am Sư Viễn:Thập Mục Ngưu Đồ—Kuo-An Shih Yuan: Ten Ox-herding pictures
Phụ Lục I—Appendix I: Sinh Hoạt Trong Thiền Viện—Activities in A Zen Monastery
Phụ Lục J—Appendix J: Thiền Trong Phật Giáo Việt Nam—Zen in Vietnamese Buddhism
Phụ Lục K—Appendix K: Các Thiền Phái Trong Thiền Tông Nhật Bản—Zen Sects in the Japanese Zen School
Phụ Lục L—Appendix L: Ngoại Đạo Thiền—Non-Buddhist Meditation
Phụ Lục M—Appendix M: Phàm Phu Thiền—Zen of Ordinary People
Phụ Lục N—Appendix N: Nhị Thừa Thiền— The Hinayana Zen
Phụ Lục O—Appendix O: Đại Thừa Thiền—The Mahayana Zen
Phụ Lục P—Appendix P: Tối Thượng Thừa Thiền—The Zen of the Highest Vehicle
Phụ Lục Q—Appendix Q: Thiền Theo Phật Giáo Mật Tông—Zen in the Tantric Buddhism
Phụ Lục R—Appendix R: Thiền Theo Các Truyền Thống Phật Giáo Nguyên Thủy—Zen in the Traditions of Theravada Buddhism
Lời Đầu Sách
_________________________________
Theo Phật giáo, Đức Phật là người đã đạt được Giác Ngộ và Niết Bàn qua thiền tập và tu tập những phẩm chất như trí tuệ, nhẫn nhục, bố thí. Con người ấy sẽ không bao giờ tái sanh trong vòng luân hồi sanh tử nữa, vì sự nối kết ràng buộc phàm phu tái sanh đã bị chặt đứt. Thật vậy, qua tu tập thiền định, chư Phật đã loại trừ tất cả những tham dục và nhiễm ô. Vị Phật của hiền kiếp là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài sanh ra với tên là Tất Đạt Đa trong dòng tộc Thích Ca. Phật là Đấng Toàn Giác hay một người đã giác ngộ viên mãn về chân tánh của cuộc sinh tồn. Chữ Phật có nghĩa là tự mình giác ngộ, đi giác ngộ cho người, sự giác ngộ nầy là viên mãn tối thượng. Từ Buddha” được rút ra từ ngữ căn tiếng Phạn “Budh” nghĩa là hiểu rõ, thấy biết hay tỉnh thức. Phật là người đã giác ngộ, không còn bị sanh tử luân hồi và hoàn toàn giải thoát. Trong Kinh Châu Báu, Tiểu Bộ, Tập 6, Đức Phật dạy: “Phật, Thế Tôn thù thắng, nói lên lời tán thán, pháp Thiền định trong sạch, liên tục không gián đoạn. Không gì sánh bằng được pháp thiền vi diệu ấy. Như vậy nơi chánh pháp là châu báu thù diệu. Mong với sự thật nầy, được sống chơn hạnh phúc.”
Như vậy, Phật tử chân thuần chúng ta nên biết rằng trong Phật giáo, thiền làm công việc của một ngọn đuốc đem lại ánh sáng cho một cái tâm u tối. Nói chung, mỗi tông phái thiền cung cấp cho hành giả với loại ánh sáng của nó, nhưng đều giúp cho hành giả có ánh sáng để thấy được mọi thứ. Giả như chúng ta đang ở trong một căn phòng tối tăm với một ngọn đuốc trong tay. Nếu ngọn đuốc quá mờ, hay nếu ngọn đuốc bị gió lay, hay nếu tay chúng ta không nắm vững ngọn đuốc, chúng ta sẽ không thấy được cái gì rõ ràng cả. Tương tự như vậy, nếu chúng ta không thiền đúng cách, chúng ta sẽ không bao giờ có thể đạt được trí tuệ có thể xuyên thủng được sự tăm tối của vô minh để nhìn thấy bản chất thật sự của cuộc sống và cuối cùng đi đến chỗ đoạn tận được khổ đau và phiền não. Vì vậy, Phật tử chơn thuần nên luôn nhớ rằng thiền chỉ là một phương tiện, một trong những phương tiện hay nhất để đạt được trí huệ trong đạo Phật.
Sau Tổ Bồ Đề Đạt Ma, nói chính xác hơn là sau thời Lục Tổ Huệ Năng, ban đầu Thiền Tông Trung Hoa được chia làm ít nhất 4 phái thiền: Phái Thiền Hành Tư, Phái Thiền Hoài Nhượng, Phái Thiền Huệ Trung, và Phái Thiền Thần Hội. Rồi sau đó, Thiền tông Trung Hoa lần nữa lại được chia làm 5 trường phái chính hay Ngũ Gia Thiền, chỉ cho giáo pháp riêng biệt được giảng dạy từ những truyền thống có liên hệ tới những vị Thiền sư đặc biệt. Ba trong số năm truyền thống này: Tào Động, Vân Môn, và Pháp Nhãn, đi xuống từ dòng truyền thừa được truy nguyên ngược về Thanh Nguyên Hành Tư và Thạch Đầu Hy Thiên. Hai truyền thống kia: Lâm Tế và Quy Ngưỡng, được tiếp nối từ Mã Tổ Đạo Nhất và Bách Trượng Hoài Hải. Tông Lâm Tế về sau này lại sản sanh ra hai nhánh Dương Kỳ và Hoàng Long. Khi mà hai phái sau này được thêm vào Ngũ Gia thì người ta gọi đó là Thất Tông.
Thuật ngữ “Ngũ Gia Thất Tông” được dùng trong Thiền tông Phật giáo để chỉ những tông phái chính của truyền thống Thiền dưới thời nhà Đường. Biểu đồ Ngũ Gia được tóm lược bởi Thiền sư Văn Ích. Ngũ tông là năm tông phái Thiền của Phật giáo ở Trung Hoa bắt nguồn từ Nguồn Thiền “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” của Lục Tổ Huệ Năng. Về sau nầy có thêm hai phái sau này là Dương Kỳ và Hoàng Long. Thứ nhất là Quy Ngưỡng Tông: Quy Ngưỡng Tông là một dòng Thiền được sáng lập bởi hai đệ tử của ngài Bách Trượng Hoài Hải. Đời thứ 37 sau Tổ Ma Ha Ca Diếp, Thiền Sư Linh Hựu trở thành Sơ Tổ Khai Sáng Tông Quy Ngưỡng. Quy là chữ đầu của Quy Sơn Linh Hựu (đệ tử của ngài Bách Trượng). Ngưỡng là chữ đầu của Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (đệ tử của ngài Quy Sơn). Vào giữa thế kỷ thứ mười, tông phái nầy sáp nhập vào tông Lâm Tế nên từ đó nó không còn tồn tại như một tông phái độc lập nữa. Thứ nhì là Tào Động Tông: Đời thứ 38 sau Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp, Thiền Sư Động Sơn Lương Giới trở thành Khai Tổ Tào Động Tông. Truyền thống Tào Động tông Trung Hoa được ngài Động Sơn Lương Giới cùng đệ tử của ngài là Tào Sơn Bổn Tịch sáng lập. Tên của tông phái lấy từ hai chữ đầu của hai vị Thiền sư này. Có nhiều thuyết nói về nguồn gốc của phái Tào Động. Một thuyết cho rằng nó xuất phát từ chữ đầu trong tên của hai Thiền sư Trung Quốc là Tào Sơn Bổn Tịch và Động Sơn Lương Giới. Một thuyết khác cho rằng đây là trường phái Thiền được Lục Tổ Huệ Năng khai sáng tại Tào Khê. Thứ ba là Lâm Tế Tông: Đời thứ 38 sau Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp, Thiền Sư Lâm Tế Nghĩa Huyền trở thành Khai Tổ Lâm Tế Tông. Lâm tế Tông là một trong những trường phái Thiền nổi tiếng của trung Quốc được Thiền sư Lâm Tế sáng lập. Lâm Tế là đại đệ tử của Hoàng Bá. Vào thời kỳ mà Phật giáo bị ngược đãi ở Trung Quốc khoảng từ năm 842 đến năm 845 thì thiền sư Lâm Tế sáng lập ra phái thiền Lâm Tế, mang tên ông. Trong những thế kỷ kế tiếp, tông Lâm Tế chẳng những nổi bật về Thiền, mà còn là một tông phái thiết yếu cho Phật giáo Trung Hoa thời bấy giờ. Tông Lâm Tế mang đến cho Thiền tông một yếu tố mới: công án. Phái Thiền Lâm Tế nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự “Đốn Ngộ” và dùng những phương tiện bất bình thường như một tiếng hét, một cái tát, hay đánh mạnh vào thiền sinh cốt làm cho họ giựt mình tỉnh thức mà nhận ra chân tánh của mình. Lâm Tế tông được sáng lập và xiển dương bởi ngài Lâm Tế, pháp tử của Thiền sư Hoàng Bá Hy Vận. Tại Trung Hoa, tông này có 21 đời đệ tử truyền thừa, suy thoái dần từ thế kỷ thứ XII, nhưng trước đó đã được mang sang Nhật Bản và tiếp tục phát triển cho đến ngày nay dưới tên gọi là Rinzai. Thứ tư là Vân Môn Tông: Đời thứ 40 sau Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp, Thiền Sư Văn Yển khai sáng Vân Môn Tông. Về sau nầy thiền sư Tuyết Đậu Trùng Hiển tập hợp những bài ca ngợi nổi tiếng kèm theo các công án mà sau nầy Viên Ngộ Khắc Cần công bố dưới nhan đề Bích Nham Lục. Tuyết Đậu là vị đại sư cuối cùng của phái Vân Môn, phái nầy bắt đầu suy thoái từ giữa thế kỷ thứ XI và cuối cùng tàn lụn hoàn toàn vào thế kỷ thứ XII. Thứ năm là Pháp Nhãn Tông: Đời thứ 42 sau Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp, Thiền Sư Pháp Nhãn Văn Ích khai sáng Pháp Nhãn Tông. Đây là một trong 'Ngũ Gia Thất Tông', tức là những trường phái lớn thuộc truyền thống Thiền thật sự. Nó được Huyền Sa Sư Bị, môn đồ và người kế vị pháp của Tuyết Phong Nghĩa Tồn thành lập. Lúc đầu phái nầy gọi là Huyền Sa, theo tên gọi của người sáng lập. Nhưng sự vinh quang của Huyền Sa chẳng bao lâu bị cháu mình là Pháp Nhãn lấn lướt. Do đó nó có tên là Pháp Nhãn. Pháp Nhãn là một trong những thiền sư quan trọng, có 63 người nối pháp đã giúp truyền bá pháp của ông đi khắp Trung Hoa và đến tận Triều Tiên. Trong ba thế hệ đầu, trường phái nầy đã trải qua thời kỳ phồn thịnh, nhưng đến thế hệ thứ năm thì tàn lụn. Thứ sáu là Phái Thiền Dương Kỳ: Đời thứ 45 sau Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp, Lâm Tế Tông Đời Thứ Tám, khởi điểm của Thiền Phái Dương Kỳ. Đây là nhánh quan trọng nhất trong hai nhánh thiền thoát thai từ thiền Lâm Tế sau khi Thiền sư Thạch Sương Sở Viện thị tịch. Trong truyền thống thiền Lâm Tế người ta gọi nó là Lâm Tế Dương Kỳ. Phái Dương Kỳ có nhiều thiền sư quan trọng, trong đó có Vô Môn Tuệ Khai, người sưu tập bộ Vô Môn Quan. Sau nầy các môn đệ của Vô Môn, nhất là Kakushin, đã du nhập vào Nhật Bản dòng thiền Lâm Tế Dương Kỳ, hiện vẫn còn tồn tại. Vào cuối thời nhà Tống, khi Thiền tông bắt đầu suy thoái, dòng Lâm Tế Dương Kỳ trở thành nơi dung hợp cho tất cả các phái Thiền khác cũng đang suy yếu và biến mất. Dưới thời nhà Minh, Thiền hòa lẫn với Tịnh Độ nên mất đi tính chất riêng của nó, không còn tinh thần “tâm truyền tâm” nữa. Thứ bảy là Hoàng Long Phái: Đời thứ 45 sau Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp, Lâm Tế Tông Đời Thứ Tám, khởi điểm của Thiền Phái Hoàng Long. Nó là một trong bảy phái thiền đầu tiên được thiền sư Vinh Tây Minh (1141-1215) đưa vào Nhật Bản. Tuy nhiên, nó tàn lụi ở cả Trung Hoa lẫn Nhật Bản sau vài thế hệ. Do bắt nguồn từ phái Lâm Tế nên người ta cũng gọi nó là Lâm Tế-Hoàng Long phái.
Trong số bảy tông phái Thiền nầy, hai trường phái Tào Động và Lâm Tế là nổi trội nhất và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Trong khi pháp môn của tông Lâm Tế là bắt tâm của các môn đồ phải tìm cách giải quyết một vấn đề không thể giải quyết được mà chúng ta gọi là tham công án hay thoại đầu. Chúng ta có thể xem pháp môn bí truyền của tông Lâm Tế rất là rắc rối, vì lối tham thoại đầu hay công án hoàn toàn vượt ra ngoài tầm của kẻ sơ học. Người ấy bị xô đẩy một cách cốt ý vào bóng tối tuyệt đối cho đến khi ánh sáng bất ngờ đến được với y. Trái lại, pháp môn tu tập của tông Tào Động là dạy cho môn đồ cách quán tâm mình trong tĩnh lặng. Chúng ta có thể xem pháp môn của tông Tào Động là hiển nhiên hay công truyền. Nếu ngay từ đầu, môn đồ được chỉ dẫn thích đáng bởi một vị thầy giỏi, pháp môn của tông Tào Động không đến nỗi khó tu tập cho lắm. Nếu chúng ta có thể có được những lời dạy khẩu truyền từ một thiền sư có kinh nghiệm thì không sớm thì muộn chúng ta sẽ học được cách 'quán tâm trong tĩnh lặng' hoặc, nói theo thuật ngữ Thiền, cách tu tập loại 'mặc chiếu Thiền'.
Bộ sách 3 quyển có tựa đề “Ngũ Gia Thất Tông Yếu Lược” này không phải là một nghiên cứu thâm sâu về triết thuyết của Thiền Tông, mà nó chỉ tóm lược về Ngũ Gia Thất Tông Trung Hoa và Những Dòng Truyền Thừa cũng như pháp tu đặc biệt của từng tông phái sau sự khai sinh của Thiền tại xứ sở nầy. Phật tử thuần thành nên luôn nhớ rằng mục đích cuối cùng của người tu Phật là giác ngộ và giải thoát, nghĩa thấy được cách nào để thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử ngay trong kiếp này. Chính vì thế mà mặc dù hiện tại đã có quá nhiều sách viết về Phật giáo, tôi cũng mạo muội biên soạn bộ “Ngũ Gia Thất Tông Yếu Lược” song ngữ Việt Anh nhằm giới thiệu một cách khái quát về buổi sơ thời của Thiền Tông, một trong những tông phái quan trọng nhất trong Phật Giáo. Những mong sự đóng góp nhoi nầy sẽ mang lại lợi lạc cho những ai mong cầu có được cuộc sống an bình, tỉnh thức và hạnh phúc.
Cẩn đề,
Thiện Phúc
Preface
____________________________________
According to Buddhism, a Buddha is one who attains Enlightenment and Nirvana through meditative practice and the cultivation of such qualities as wisdom, patience, and generosity. Such a person will never again be reborn within cyclic existence, as all the cognitive ties that bind ordinary beings to continued rebirth have been severed. As a matter of fact, through their meditative practice, buddhas have eliminated all craving, and defilements. The Buddha of the present era is referred to as “Sakyamuni” (Sage of the Sakya). He was born Siddhartha Gautama, a member of the Sakya clan. The Buddha is One awakened or enlightened to the true nature of existence. The word Buddha is the name for one who has been enlightened, who brings enlightenment to others, whose enlightened practice is complete and ultimate. The term Buddha derived from the Sanskrit verb root “Budh” meaning to understand, to be aware of, or to awake. It describes a person who has achieved the enlightenment that leads to release from the cycle of birth and death and has thereby attained complete liberation. In the Ratana Sutta, Khuddakapatha, volume 6, the Buddha taught: “What the excellent Awakened One extolled as pure and called the concentration of unmediated knowing. No equal to that concentration can be found. This, too, is an exquisite treasure in the Dhamma. By this truth may there be well-being.”
Therefore, we, devout Buddhists, should know that in Buddhism, meditation functions the job of a torch which gives light to a dark mind. Generally speaking, each Zen school supplies practitioners with its own light, but it can help practitioners to see everything. Suppose we are in a dark room with a torch in hand. If the light of the torch is too dim, or if the flame of the torch is disturbed by drafts of air, or if the hand holding the torch is unsteady, it’s impossible to see anything clearly. Similarly, if we don’t meditate correctly, we can’t never obtain the wisdom that can penetrate the darkness of ignorance and see into the real nature of existence, and eventually cut off all sufferings and afflictions. Therefore, sincere Buddhists should always remember that meditation is only a means, one of the best means to obtain wisdom in Buddhism.
After Bodhidharma Patriarch, speaking more exactly, after the time of the Sixth Patriarch Hui Neng, the Chinese Zen School was divided into at least four schools: the Hsing Ssu Zen School, the Huai-Jang Zen School, the Hui Chung Zen School, and the Sheân-Hui Ho Tse Zen School. Then, later, the Chinese Zen School was again divided into five main sects or the Five Houses of Zen which refer to separate teaching lines that evolved from the traditions associated with specific masters. Three of these traditions, Ts'ao-tung, Yun-men, and Fa-yan, descended from the transmission line traced back to Ch'ing-yuan Hsing-ssu and Shih-t'ou Hsi ch'ien. The other two, the Lin-chi and Kuei-yang, proceeded from Ma-tsu Tao-i and Pai-chang Huai-hai. The Lin-chi House later produced two offshoots, the Yang-chi and Huang-lung. When these last two were added to the Five House, together they are referred to as the Seven Schools of Zen.
The term “Five Houses and Seven Schools” is used in Zen Buddhism to designate the main divisions of the Ch’an tradition in T’ang dynasty China. The scheme of the Five Houses or schools of Chinese Zen Buddhism was first articulated by Fa-Yen Wen-I (885-958). The five houses are traditions which arise from one origin which is “Directly Point to Mind to see one’s True Nature and to realize the Buddhahood” taught by the Sixth Zen Patriarch Hui-Neng. Later, there were two more branches of Yang-Ch’i and Huang Lung. First, the Kuei Yang Tsung: Kuei Yang Zen sect established by two disciples of Pai-Ch’ang-Huai-Hai. The thirty-seventh generation after the first Patriarch Mahakasyapa, Zen master Ling Yu became the first patriarch of the Kuei Yang Tsung. 'Kuei' is the first word of 'Kuei-Shan Ling-Yu' (a disciple of Pai-Ch’ang). 'Yang' is the first word of 'Yang-Shan-Hui-Ji' (a disciple of'Kuei-Shan). In the middle of the tenth century, this school merged with Lin-Chi school and since then no longer subsisted as an independent school. Second, the Ts'ao Tung Ch’an: The thirty-eighth generation after the first Patriarch Mahakasyapa, Zen Master Tung-shan Liang-Chieh became the First Patriarch of the Ts'ao-tung Tsung. Ts'ao Tung tradition was founded by Tung-Shan Liang-Chieh (807-869) and his student Ts’ao-Shan Pen-Chi (840-901). The name of the school derives from the first Chinese characters of their names. It was one of the “five houses” of Ch’an. There are several theories as to the origin of the name Ts’ao-Tung. One is that it stems from the first character in the names of two masters in China, Ts’ao-Shan Peân-Chi, and Tung-Shan Liang-Chieh. Another theory is that Ts’ao refers to the Sixth Patriarch and the Ch’an school was founded by Hui-Neng, the sixth patriarch. Third, the Lin-Chi Zen School: The thirty-eighth generation after the first Patriarch Mahakasyapa, Zen Master Lin Chi became the founding Patriarch of the Lin Chi School. The Lin Chi School was one of the most famous Chinese Ch’an founded by Ch’an Master Lin-Chi I-Hsuan, a disciple of Huang-Po. At the time of the great persecution of Buddhists in China from 842 to 845, Lin-Chi founded the school named after him, the Lin-Chi school of Ch’an. During the next centuries, this was to be not only the most influential school of Ch’an, but also the most vital school of Buddhism in China. Lin-Chi brought the new element to Zen: the koan. The Lin-Chi School stresses the importance of “Sudden Enlightenment” and advocates unusual means or abrupt methods of achieving it, such as shouts, slaps, or hitting them in order to shock them into awareness of their true nature. The Lin-chi Zen School was founded and propagated by Lin-Chi, a Dharma heir of Zen Master Huang-Bo. In China, the school has 21 dharma successors, gradually declined after the twelfth century, but had been brought to Japan where it continues up to the present day and known as Rinzai. Fourth, the Yun Men Tsung: The Fortiefth generation after the first Patriarch Mahakasyapa, Zen Master Wen-Yen founded the Wen-Men Tsung. Later, Hsueh-Tou Ch'ung-Hsien collected the koans which published by Yuan Wu K'o Ch'in in the Pi-Yen-Lu (the Blue Cliff Record). Hsueh-Tou was the last important master of the Yun Men School, which began to decline in the middle of the 11th century and died out altogether in the 12th. Fifth, the Fa-Yen Zen School: The Forty-second generation after the first Patriarch Mahakasyapa, Zen Master Fa-yen Wen-Yi founded the Fa-yen Tsung. The Fa-Yen school of Zen that belongs to the 'Five houses-Seven schools', i.e., belongs to the great schools of the authentic Ch'an tradition. It was founded by Hsuan-sha Shih-pei, a student and dharma successor of Hsueh-feng I-ts'un, after whom it was originally called the Hsuan-sha school. Master Hsuan-sha's renown was later overshadowed by that of his grandson in dharma Fa-yen Wen-i and since then the lineage has been known as the Fa-yen school. Fa-yen, one of the most important Zen masters of his time, attracted students from all parts of China. His sixty-three dharma successors spread his teaching over the whole of the country and even as far as Korea. For three generations the Fa-yen school flourished but died out after the fifth generation. Sixth, the Yang-Ch'i Pai: The Forty-fifth generation after the first Patriarch Mahakasyapa, the Eighth Generation of the Lin Chi Tsung, starting point of the Yang-Chi Zen Branch. It is one of the two most important lineages into which the Lin-Chih split after Shih-Shuang Ch’u-Yuan. As a traditional lineage of Lin-Chih Zen, it is also called the Lin-Chih-Yang-Qi lineage. The Yang-Qi school produced important Zen masters like Wu-Men-Hui-K’ai, the compiler of the Wu-Men-Kuan, and his Dharma successor, Kakushin, who brought the Ch’an of Lin-Chih-Yang-Qi lineage to Japan, where as Zen it still flourishes today. As Ch’an gradually declined in China after the end of Sung period, the Lin-Chih-Yang-Qi school became the catchment basin for all the other Ch'an schools, which increasingly lost importance and finally vanished. After becoming mixed with the Pure Land school of Buddhism, in the Ming period Ch’an lost its distinctive character and ceased to exist as an authentic lineage of transmission of the Buddha-dharma “from heart-minf to heart-mind.” Seventh, Huang Lung Pai: The Forty-fifth generation after the first Patriarch Mahakasyapa, the Eighth Generation of the Lin Chi Tsung, starting point of the Huang-lung Zen Branch. It belongs to the 'seven schools' of Ch'an and was the first school of Zen in Japan, brought there by Eisai Zenji. However, it died out both in China and Japan after a few generations. Since Oryo lineage developed out of the Rinzai school, it is also called the Rinzai-Oryo School.
Among these seven Zen Schools, two schools of Ts'ao Tung and Lin Chih are the most outstanding schools and still survive nowadays. While the Lin-chi approach is to put the student's mind to work on the solution of an unsolvable problem known as koan or head phrase exercise. The approach of the Lin-chi school may be regarded as covert or esoteric is very complicated, for the Lin-chi approach of head phrase exercise is completely out of the beginner's reach. He is put purposely into absolute darkness until the light unexpectedly dawns upon him. On the contrary, the Tsao-tung approach to Zen practice is to teach the student how to observe his mind in tranquility. We may regard the approach of the Tsao-tun school as overt or exoteric. If, in the beginning, the student can be properly guided by a good teacher, the approach of Tsao-tung sect is not too difficult to practice. If one can get the 'verbal instructions' from an experienced Zen Master one will soon learn how to 'observe the mind in tranquility' or, in Zen term, how to practice the 'serene-reflection' type of meditation.
This set of three books titled “Essential Summaries of the Five Houses and Seven Schools” is not a profound philosiphical study of the the Zen School, but a book that summarizes Chinese Seven Zen Schools & Their Lineages of Transmissionas well as methods of cultivation of each school after the birth of Zen in China. Devout Buddhists should always remember the ultimate goal of any Buddhist cultivator is to attain enlightenment and emancipation, that is to say to see what method or methods to escape or to go beyond the cycle of births and deaths right in this very life. For these reasons, though presently even with so many books available on Buddhism, I venture to compose this booklet titled “Essential Summaries of the Five Houses and Seven Schools” in Vietnamese and English to briefly introduce on the Zen School in its early time, one of the most important Zen schools in Buddhism. Hoping this little contribution will help Buddhists in different levels to understand on how to achieve and lead a life of peace, mindfulness and happiness.
Respectfully,
Thien Phuc
Xem thêm:
Biểu đồ truyền thừa các tông phái Phật giáo từ Ấn Độ đến Việt Nam