Hỏi số 1: Sau
khi hộ niệm được 8 giờ. Người được hộ niệm có hai trường hợp.
1-Nóng ở bụng nhiều và ở đầu không nóng nhưng không lạnh như những chỗ khác
2-Nóng ở ngực nhiều và ở đầu không nóng nhưng không lạnh như những chỗ khác.
Như thế thần thức của 2 người này đã ra khỏi thân chưa ? trường hợp này xử lý
như thế nào? Nếu gia đình không bằng lòng cho niệm tiếp.
Trả lời:
Sau 8 giờ chỉ có thể còn hơi ấm tại một điểm. Nếu còn ấm tại 2,3 điểm thì nên cẩn thận niệm thêm một số giờ nữa cho thực sự xác định một điểm ấm hoặc khi nào toàn thân lạnh hết mới được. Khi thân xác còn ấm nhiều chỗ thì coi chừng thần thức chưa thật sự ra khỏi thân thể, không được tẩm liệm xác.
- Nóng ở vùng bụng, đây là điềm xấu, bị đoạ ngạ quỷ, không tốt. Nên thành tâm cầu Phật gia trì, gia đình nên lấy Phật cầu gia hộ, Ban hộ niệm nên phát tâm niệm thêm 4, 8 giờ nữa. Khai thị rất cần trong trường hợp này, cầu giải oan gia trái chủ. Hãy làm hết sức, còn kết quả ra sao thi tùy theo phước phần của người ra đi.
- Nóng ở ngực nhiều có thể được sanh lại làm người. Trường hợp này thân xác cũng có thể được mềm mại, nhưng không viên mãn. Nhưng nếu thành tâm, Ban hộ niệm có thể tiếp tục khai thị, hướng dẫn cho thần thức buông xả việc luyến lưu con cháu, mau mau thức tỉnh niệm Phật, cầu xin A Di Đà Phật phóng quang tiếp dẫn. Nên niệm thêm 4, 8 giờ nữa, có thể giúp thần thức tỉnh ngộ mà vãng sinh cực lạc. Lúc đó điểm nóng sẽ chuyển lên đỉnh đầu.
Trong những trường hợp này, bắt buộc gia đình phải thành tâm cầu nguyện, thành tâm hợp tác tối đa với Ban hộ niệm để cứu người thân của họ. Nếu người thân không bằng lòng thi ban hộ niệm đành phải đình chỉ và ra về. Tất cả đều tuỳ duyên phận, chứ không biết cách nào khác hơn.
Hỏi số 2: Khi gặp những trường hợp khó .Cần KHAI THỊ và CẦU XIN OAN GIA .Nhưng khi CẦU XIN OAN GIA người KHAI THỊ có thể nói MẠNH (có tính chất hù dọa) hay chỉ một mực NĂN NỈ như Anh đã hướng dẫn trong buổi nói chuyện ở Niệm Phật Đường TINH NGHIEM. Trả lời: Nói mạnh, có nghĩa là, nói giúp
cho thần thức giựt mình tỉnh ngộ, không nên nói quá nhỏ nhẹ như ru ngủ làm
cho thần thức cứ mê mê tỉnh tỉnh trong trạng thái chơi vơi. Vì lúc đó có thể
thần thức chưa biết mình đã chết, đang phân vân trong cảnh giới nửa thức nửa
giả, đang mơ mơ màng màng không biết làm sao. Lúc đó ta nói lớn tiếng một
chút làm họ giựt mình tỉnh ngộ ra mau mau niệm Phật cầu vãng sinh. (Nếu VT có
cuốn video Hồ thị Lan, nên xem lai cuốn đó, khi D/A thấy khuôn mặt Cụ vẫn
chưa tốt sau mấy tiếng đồng hồ, nên anh nói rất mạnh để mong Cụ giựt mình mà
quyết tâm niệm Phật. Nên xem lại cuộc Vãng sinh này để rõ thêm). |
|
|
|
|
|
Hỏi số 3:
Chồng tôi hằng ngày thường đi chùa gần nhà và có một vị... ở trong chùa lại bảo với chồng tôi rằng vợ con làm như vậy coi chừng "Dục Tốc Bất Đạt", câu nói này làm cho tôi hơi thối chí. Vậy kính mong chư vị là người đã tu theo pháp môn Tịnh Độ này thời gian dài và có nhiều kinh nghiệm, xin hảy cho tôi một lời khuyên là tôi làm như vậy là đúng hay là sai, có phải dục tốc bất đạt không?
Trả lời:
Ngài Ấn Quang Đại Sư dạy, người tu
hành mà không nguyện vãng sanh, thì dù cho tu hành có giỏi cho mấy thì thời nay
cũng không thể thoát ly sanh tử luân hồi. Người không nghe lời Tổ Sư thì tự
mình tu theo đường nào mà đạo vậy.
Ngài dạy, người niệm Phật mà chỉ lo cầu phước báu nhân thiên thì chẳng khác gì
kẻ đem viên ngọc như ý, đáng giá liên thanh, đổi lấy tán kẹo của con nít. Thật
quá oan uổng. Ngài dạy, chân tâm chúng ta là Phật mà không chịu nguyện về Tây
Phương, mà chỉ lo mấy thứ phước báu hữu lậu, thì thật quả là kẻ vô minh.
Ngài Tịnh Âm Đại Sư dạy, người lo tu hành làm phước, dù cho phước báu lớn tới
đâu thì việc thoát ly sanh tử cũng không thể thực hiện. Ngài nói: Việc thiện
càng lớn, sanh tử càng nặng, khi chết một niềm luyến ái nổi lên nhất định bị
vạn kiếp trầm luân. Tổ Sư dạy người niệm Phật cầu vãng sanh, người mà chỉ lo tu
thiên phước mà không cầu vãng sanh thì đáng thương hại lắm vậy.
Ngài Thiên Đạo Đại Sư dạy, niệm Phật cầu sanh tịnh độ thì vạn người tu vạn
người vãng sanh, gọi là muôn người tu, muôn người chứng. Ngài nói, dù niệm Phật
chưa được nhất Tâm bất loạn, nhưng nếu tổ chức hộ niệm cẩn thận thì người nào
cũng được vãng sanh. Là Tổ sư đâu thể nói giỡn chơi.
Ngài Liên Trì Đại sư dạy, ba tạng kinh, 12 phần giáo ai muốn nghiên cứu cho ngộ
đạo thì cứ việc nghiên cứu, 84 ngàn pháp môn ai muốn tu trì thì cứ việc tu trì,
riêng Ngài chỉ niệm câu Phật hiệu A-di-đà Phật cầu sanh Tịnh độ. Ngài còn nói,
người niệm Phật cầu sanh Tịnh độ chính là người thượng căn, còn những người tu
theo các cách khác thì nếu không là hạ căn thì cũng chỉ trung căn là cùng. Tại
sao vậy? Vì chỉ có người niệm Phật cầu vãng sanh mới một đời thoát ly sanh tử
luân hồi, vãng sanh thành Phật. Tổ sư dạy vậy tại sao chúng ta còn ngồi đấy lý
luận làm gì, không có đường tu nhất định, rõ ràng, khi lương qua đời này (nghĩa
là chết, mất phần vãng sanh) thì biết kiếp nào gặp lại Phật pháp nữa để lo
chuyện giải thoát nữa đây.
Ngài Quán Danh đại sư dạy: Thời mạt pháp này tất cả kinh sám không còn có khả
năng cứu độ nổi chúng sanh, chỉ còn câu Phật hiệu A-di-đà Phật mới làm nổi. Tại
sao vậy? Vì nghiệp chướng chúng sanh trong thời mạt pháp này quá nặng, nhất
định không thể tự chứng đắc, nếu không niệm Phật thì quyết chắc sẽ bị lọt lại
trong sáu đường đau khổ. Bây giờ nói giỏi nói hay, đến khi chung cuộc (tức là
lúc sắp chết) đành phải khóc ròng. Lúc đó dẫu cho ân hận cũng đâu còn kịp nữa.
Ngài Lý Bình Nam dạy, người mà không chịu niệm Phật cầu sanh tinh độ thì không
phải ngu si cũng là thứ cuồng vong. Ngài quyết lòng dạy người niệm Phật cầu
sanh Tịnh độ. Trong đời Ngài đã cứu hơn 500 người vãng sanh Tây phương cực lạc.
Hòa thượng Tịnh Không nói, người nào không chịu niệm Phật cầu sanh Tịnh độ thì
nếu không phải là kẻ ngu si cũng là người cuồng vọng. Nhưng cuồng vọng cũng là
ngu si. Cho nên, người không niệm Phật cầu vãng sanh chính là người ngu si. Tại
sao vậy? Vì thiếu trí hụê mới nghi ngờ lời Phật. Vì cống cao ngã mạn mới chống
lại lời Phật. Người không theo pháp Phật làm sao gọi là đệ tử Phật. Không đệ tử
Phật thì muốn nói sao nói, muốn làm sao làm, muốn đọa lạc ở đâu chẳng được.
Trong những đạo tràng của Ngài, ngoài việc niệm Phật cầu vãng sanh, tuyệt đối
Ngài không cho phép bất cứ một hình thức tạp tu nào. Trong những năm qua, hàng
trăm người vãng, hầu hết là Phật tử tại gia v.v...
Tất cả chư Tổ Sư đều dạy chúng sanh trong thời mạt pháp này hãy niệm Phật cầu
sanh Tây Phương Cực lạc để vãnh sanh một đời thành đạo. Chúng ta nên thành tâm
nghe theo lời chư Tổ Sư dạy để tu hành là an ổn nhất vậy.
Không phải chư Tổ Sư dạy, mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật cũng dạy rất nhiều trong
kinh điển.
Kinh A-di-đà, 4 lần Phật dạy rằng, phải phát tâm nguyện sanh Tây Phương cực
lạc. Người nào nghe ngài thuyết về cõi Tây Phương mà tin tưởng, phát nguyện
vãng sanh, rồi chấp trì danh hiệu A-di-đà Phật niệm từ 1 ngày đến 7 ngày chuyên
lòng nhất tâm thì khi lâm chung A-di-đà Phật và chư Thánh chung sẽ hiện ra tiếp
dẫn về Tây phương cực lạc. (Phật đâu có nói láo được).
Kinh Vô Lượng Thọ, Phật nói không biết bao nhiêu lần, dạy chúng sanh phải một
lòng niệm câu Phật hiệu cầu vãng sanh. Nếu người nào tin tưởng, phát nguyện
vãng sanh, và chuyên nhất niệm câu Phật hiệu thì dẫu 10 niệm (trước phút lâm
chung) mà không được vãng sanh thì A-di-đà Phật thề không thành Phật. Tại sao
ta không y giáo phụng hành để vãnh sanh thành Phật, mà lại chạy theo người thế
tục nói.
Kinh Đại Tập Phật dạy, thời mạt pháp này (dù cho) vạn ức người tu hành, khó tìm
thấy một người chứng đắc (nghĩa là vượt sanh tử luân hồi), nhưng Phật lại nói,
chỉ có người nào trì giữ pháp niệm Phật cầu sanh Tịnh độ thì được thoát luân
hồi.
Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tai Đồng Tứ đã chứng đắc pháp thân, người thầy căn bản
là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dạy niệm Phật. Thiện Hữu Tri Thức mà Ngài thám phong
thì vị đầu tiên là Ngài Đức Văn dạy niệm Phật, vì cuối cùng là Phổ Hiền Bồ Tát
dạy 10 đại nguyện vương cầu sanh Tây phương Cực lạc (Nghĩa là cũng niệm Phật
cầu vãng sanh). Bồ tác minh Tâm kiên tánh mà còn niệm Phật, tại sao chúng ta
không chịu niệm Phật?
Nhiều lắm, nhiều lắm. Tất cả kinh điển đều dạy chúng sanh niệm Phật cầu sanh
Tịnh độ. Nhất là thời mạt pháp này, Phật dạy không chịu niệm Phật thì nhất định
không thể thoát ly sanh tử luân hồi. Không thoát ly sanh tử luân hồi, thì tu có
giỏi cho mấy vẫn phải chết trong sanh tử luân hồi. Quyết định không thể thành
đạo giải thoát. Tu mà không thành đạo thì tu làm chi cho uổng sức vậy?
Phật dạy đường thành đạo chúng sanh, ta tu hành mà không theo pháp Phật, không
theo lời Phật, lại dạy chúng sanh đi ngược lời Phật dạy, làm cho chúng sanh mất
phần giải thoát, mất phần thành tựu, thì tội lỗi này ai sẽ chịu đây?
Cho nên tu không đúng kinh Phật rất có tội. Kinh khủng lắm.
Phật dạy thời mạt pháp tu hành phải “y pháp bất y nhân”. Nghĩa là, phải
y đúng theo pháp Phật tu hành, không được theo bất cứ người nào cả. Nói rõ hơn,
người nào nói đúng kinh pháp thì nghe, người nào nói ngược kinh pháp thì tuyệt
đối không được nghe. Nếu như đã nghe theo thì i đọa lạc ráng chịu.
Lúc ta bị đọa lạc, nhất định không ai cứu nổi ta đâu.
Như vậy ta phải theo lời Phật để một đời này vãng sanh thành đạo, chứ tại sao
lại nói ngược lời Phật, không chịu về Tây Phương lại muốn ở lại đây chịu khổ.
Đạo Phật là đạo cứu chúng sanh thoát vòng sanh tử, vãng sanh thành Phật, chứ
Đạo Phật đâu phải bắt chúng ta phải ở lại cõi Ta-bà này chịu cảnh ngũ trược ác
thế để bị đọa lạc. Vậy thì người tu học Phật sao không lo chuyện thành đạo, lại
cứ nấn ná ở lại chốn vô thường này để tiếp tục chịu vô thường.
Tu theo đúng pháp Phật tại sao lại nói là “dục tốc bất đạt”. Chư Tổ Sư đều dạy:
Sanh tử dù dài, quyết lòng thoát ly sanh tử. Rõ ràng việc sanh tử là điều tối
hệ trọng, cần phải giải quyết. Muốn giải quyết sanh tử trong một đời này chỉ có
niệm Phật cầu vãng sanh, thì 10 niệm tất sanh. Phật đã cho chúng sanh một con
đường dễ dàng thẳng tắp, tại sao lại không đi?
Không đi mà còn can ngăn người khác con đường thành đạo thì thật là tội lỗi!
Trong kinh Phật dạy, “Vọng thất Bồ đề tâm, tu chư thiên pháp, thì danh mà
nghiệp” (Quên đường thành đạo, cho lo chuyện tu tạp nhạp các thứ thiên pháp
thế gian, thì dù có làm thiện lành cho mấy cũng là ma nghiệp). Tại sao vậy? Vì
đành lạc mất hướng vãng sanh thành đạo của chúng sanh, dẫn dắt chúng sanh trong
các ngả đường sanh tử luân hồi, xui khiến họ không theo đường Phật dạy lại đi
theo con đường luẩn quẩn để sau cùng chịu nạn. Đây chính là ma nghiệp, ma đạo
chứ còn gì nữa?
Thôi, xin đạo hữu hãy sáng suốt tự quyết định lấy. Đạo hữu hãy tự quyết định
đường tu. Chỉ có chính đạo hữu quyết định tương lai của chính mình. Không ai
giúp được đạo hữu đâu.
A-di-đà Phật
Hỏi số 4:
Hôm nay Van Tập có nói chuyện với một cô bạn là thành viên
trong BHN ở HẢI PHÒNG .Cô ấy kể cho VT nghe một trường hợp về người thân của
mình ... VT thấy chưa được thông suốt nên nhờ giải đáp.
Cô bạn này có một người Dì bi bệnh nằm nửa mê nửa tỉnh đã một năm nay.Gia đình
lại chưa hiểu biết về PHẬT PHÁP .Vì muốn cứu người Dì nên Cô đã cùng BHN đến
đọc KINH ĐỊA TẠNG trong 3 ngày (DỂ CHUYỂN NGHIỆP CHO NGƯỜI BỆNH SAU ĐÓ NẾU CÓ
CHUYỂN BIẾN MỚI CHÍNH THỨC HỘ NIỆM ). Sau mỗi thời đọc Kinh có phóng sanh và
cúng thí thực. Đối với Gia Đình thì cho xem những băng đĩa của Chùa Hoằng Pháp.
Qua sự hướng dẫn của Anh và trong những buổi nói chuyện ở NPĐ TỊNH NGHIÊM . VT
có nghe Anh giảng, HN cho một người các nghi thức càng đơn giản chừng nào thì
người đó càng dễ vãng sanh. Chỉ đọc Kinh khi nào người bệnh yêu cầu rồi sau đó
phải niệp Phật tiếp.
Trong trường hợp này Cô bạn của VT làm có đúng PHÁP không? Theo Anh phải làm
như thế nào? VT kính mong Anh trả lời. Cám ơn Anh rất nhiều.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Trả lời:
Bệnh về nghiệp chướng đọc kinh Địa
tạng bồ tát bổn nguyện tốt, phóng sanh hồi hướng công đức cũng tốt. Nhiều oan gia
trái chủ họ cảm ứng với kinh Địa Tạng.
Đọc Từ bi thủy sám cũng tốt. Nói chung đọc kinh Phật đều có ảnh hưởng tốt cho
người sắp chết.
Người nhà quyết định đọc kinh Địa tạng ba ngày rồi bắt đầu hộ niệm, đây cũng là
điều hay, không có gì trở ngại.
Có nhiều oan gia trái chủ có cảm ứng với kinh Địa tạng Bồ tát. Đọc kinh này có
thể hoá giải phần nào chướng nạn về oan gia trái chủ, và chư đẳng vong linh
chung quanh.
Còn việc quyết lòng cứu người vãng sanh thì phải chú trọng vào việc niệm Phật.
Cần khai thị giảng giải để cho người bệnh hiểu mà phát tâm niệm Phật cầu vãng
sanh mới được vãng sanh.
Khi hộ niệm, thì chúng ta niệm Phật, dùng công đức niệm Phật mà hồi hướng cho
oan gia trái chủ thì cũng có tác dụng tương tự như đọc kinh Địa tạng. Nhưng
niệm Phật có lợi hơn vì được phần vãng sanh. Nghĩa là, vừa tiêu bớt nghiệp, nếu
nghiệp không hết thì cũng được đới nghiệp vãng sanh. (Đới nghiệp vãng sanh
nghĩa là còn nghiệp nhưng mang nghiệp đi vãng sanh). Còn tụng kinh Địa tạng thì
tiêu bớt nghiệp cho nhẹ bớt tội, nhẹ nhưng dễ gì hết, thành ra đành phải tùng
theo nghiệp mà chịu sanh tử luân hồi. Có thể thoát điạ ngục, chứ không được đới
nghiệp vãng sanh Tây phương, một đời thành tựu đạo quả.
Cúng thí thực để hoà giải chư đẳng vong linh cũng không sao. Cúng thí thực cũng
là lòng từ bi thương xót chúng sanh, cũng vừa có hình thức lo lót, gỡ bớt những
rắc rối từ chúng đẳng vong linh, chúng loại cô hồn, v.v... trong pháp giới.
Nhưng cúng thí thực thường bị vướng vào cái lệ là phải cúng thường xuyên, vì
chúng vong linh các nơi khác có thể tới, nếu kẻ có người không đôi lúc cũng
phiền hà! Sợ rằng chúng ta không có giờ, hoặc bận bịu đi làm, có ngày cúng, có
ngày không cũng tạo trở ngại về sau. Cho nên, cúng thí thực nên dành cho các
chùa, miễu... họ làm thì hay hơn, vì ở đó có người thường trực cúng thí hằng
ngày, chúng ta đem tiền tới cúng dường cho chùa, nhờ chùa họ làm.
Tụng kinh Địa tạng thì giống như niệm Phật.. Hình thức có khác nhưng mục đích
đều để hoá giải oan gia trái chủ, giải bớt nghiệp cho người bệnh. Có thể liệt
kê ra vài điều cụ thể hơi khác sau đây:
1/Tụng kinh thì cần phải có lòng chân thành trì tụng, lúc tụng phải thành khẩn
nhiếp tâm vào lời kinh mới có hiệu dụng, nếu tụng không chân thành thì không có
hiệu dụng lắm. Còn niệm Phật thì chỉ có 6 chữ nên rất dễ nhiếp tâm.
2/ Tụng kinh dài quá thường bị lộn, bị quên làm tâm dễ xao lãng, lo ra... còn
niệm Phật thì không thể quên được, tâm không lo gì lời kinh cho nên dễ nhiếp
tâm niệm Phật, cầu Phật gia trì, tiếp độ dễ dàng.
3/Tụng kinh thì nguời bệnh không thể tụng theo được, khó hiểu được ý kinh và
lời kinh. Còn niệm Phật thì người bệnh có thể niệm theo dễ dàng, hiểu dễ dàng.
4/Tụng kinh rất khó khai thị, hướng dẫn, còn niệm Phật thì khai thị hướng dẫn
thường xuyên, nhắc nhở kịp thời, thấy chướng nạn xảy ra kịp thời khai thị,
hướng dẫn, điều giải, vỗ tay, hoan hô, khích lệ... làm cho người bệnh lên tinh
thần, thấy hết khổ, hết sợ chết, vui vẻ cầu vãng sanh.
5/Tụng kinh gieo duyên Phật pháp thì được, chứ trực tiếp cứu độ vãng sanh thì
rất phiêu phỏng. Còn niệm Phật thì trực tiếp cứu độ vãng sanh. Nếu niệm có yếu
đi nữa thì cũng kết duyên Phật pháp. Rõ ràng, niệm Phật thì có lợi hoặc ít ra
cũng được huề vốn, còn tụng kinh nếu tốt thì được huề vốn còn không thì bị lỗ.
Như vậy niệm Phật vẫn hay hơn.
Nên nhớ, 10 niệm tất vãng sanh là niệm 10 câu Phật hiệu trước phút xả bỏ báo
thân, chứ không phải tụng 10 bộ kinh.
Cho nên, lúc còn tỉnh táo thì có thể tụng kinh để vừa lòng người(!), tụng vài
biến rồi niệm Phật cũng tốt chứ không có gì trở ngại, chứ còn cứ tiếp tục tụng
kinh cho đến chết luôn thì coi chừng người chết bị lỗ vốn, vì họ không biết
đường nào để vãng sanh! Không biết thì phải đành theo nghiệp thọ báo trong lục
đạo thôi! Xấu tốt khó đoán lắm! Vì nên nhớ, oan gia trái chủ luôn luôn là mối
nguy hại đáng sợ cho người chết. Không biết điều giải, không dễ gì họ buông
tha. Nghiệp chướng nặng nề, gỡ một đôi phần không thấm thía gì đâu!
Nói tóm laị, niệm Phật có lợi lạc rất nhiều, tụng kinh cũng có lợi, nhưng không
nhiều bằng niệm Phật.
Cố gắng giúp cho nguời bệnh niệm được 10 câu Phật hiệu Adiđà Phật lúc lâm chung
cầu sanh cực lạc thì giúp họ vãng sanh thoát vòng sanh tử thật quí hoá vô cùng,
thật là một đại ơn huệ cho họ. Chúng ta hãy cố gắng lên nhé.
Hỏi số 5:
Có
1 cư sĩ ở VN, tương đối thân quen với em, khuyên em theo phương pháp tu thiền.
Người này trước đây đã tu Tịnh độ rất lâu năm rồi, bây giờ chuyển sang tu
Thiền. Theo người này thì tu Thiền là bước đi thẳng, còn tu Tịnh độ mới chỉ về
Tây Phương, đến đó chưa phải thoát luân hồi mà chỉ được sống lâu, ở đó phải tu
tiếp thì mới được giải thoát thật sự. Có phải vậy không?
Theo người đó thì tất cả các Phật đều có thể bị giả? Kể cả Phật A Di Đà cũng có
thể bị giả? Và nếu 1 ví dụ có 1 nha sư đã nhìn thấy Phật A Di Đà hiện ra, nhưng
sau đó thì phát hiện là giả. Theo anh nói thì Phật A Di Đà không thể nào bị giả
được. Thế nào là đúng?
Trả lời:
Tu Thiền, tu Tịnh, tu Mật, tu Hiển,
tu Giáo... tu nào cũng có thể đắc đạo. Nhưng phải hợp với căn cơ mới được thành
tựu. Còn tu mà không hợp căn cơ thì không thể nào thành tựu được. Tu không
thành tựu thì tu làm chi cho uổng phí công sức để hưởng lấy kết quả trống
không. Tệ hơn nữa, coi chừng bị trở ngại, bị chướng nạn, bị sập bẫy... tự mình
chịu mất phần thiện lợi, đôi khi còn bị thiệt hại cuộc đời của mình nữa là khác!
Trong câu nói của vị nào đó, Diệu Âm chú ý mấy điểm:
- Tu Tịnh độ lâu năm rồi.
- Tu thiền là bước đi thẳng.
- Về Tây-phương chưa thoát luân hồi.
- Phật A-di-đà bị giả, một vị .....
Những điểm này thật đáng nên phân
tích kỹ lưỡng. (Vì vấn đề này lớn quá, sợ rằng một thư này mổ xẻ không đủ.
Kiều Thanh cần kiên nhẫn nhé).
1) Tu Tịnh lâu năm:
Một người tự xưng là tu Tịnh độ lâu rồi. Nhưng xin hỏi, tu Tịnh thì đã tu theo
kinh nào vậy? Hành trì như thế nào? Ai hướng dẫn vậy? Mà sao, khi nói ra thấy
hình như chưa bao giờ tu qua Tịnh độ vậy? Đã gọi là tu Tịnh thì lý Tịnh độ phải
thông suốt, nếu không thông suốt thì ít ra cũng hiểu phần căn bản chứ. Còn ở
đây, qua lời thuật lại của Kiều Thanh, thì hoàn toàn không có một nét gì về
Tịnh độ cả ?
Trong Pháp mônTịnh độ, có ba bộ kinh căn bản là: kinh Phật thuyết A-Di-Đà,
kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, kinh Quán
Vô Lượng Thọ và cộng thêm một bộ luận nữa là Luận Vãng Sanh của Bồ
tát Thiên Thân, gọi chung là Tam Kinh Nhất Luận.
Người tu Tịnh độ lâu năm, thì ba bộ kinh và 1 bộ luận này chắc phải tụng qua,
không thuộc lòng thì ít ra cũng nắm được phần chính yếu. Xin hỏi, thực sự người
đó đã đọc qua chưa? Nếu đã đọc qua, xin hỏi có hiểu lời Phật dạy trong đó
không? Nếu nói hiểu, xin hỏi có hiểu rõ ràng không? Nếu nói đã hiểu rõ, xin hỏi
tại sao lại nói những lời hoàn toàn trái ngược với lời Phật dạy trong kinh
vậy!?
Vì để cho chúng sanh thời mạt pháp này tin tưởng vững mạnh hơn vào pháp môn
Tịnh độ hầu được viên mãn thành đạo, Tổ Ấn Quang cùng chư đại đức đã đưa Phẩm
Phổ Hiền Hạnh Nguyện trong kinh Hoa Nghiêm và chương Đại Thế Chí
Viên Thông vào hệ thống Kinh luận Tịnh độ, thành ra có 5 kinh và 1 luận.
Tất cả tông chỉ của pháp môn Tịnh độ đã gói trọn trong 5 kinh và 1
luận này.
Một người tu Tịnh lâu năm, nghĩa là lâu năm phải đọc tụng kinh điển Tịnh độ,
phải nghiên cứu kinh điển Tịnh độ, phải lý giải được lời Phật dạy trong pháp tu
Niệm Phật. Như vậy, LÝ-SỰ Tịnh độ đã nhập vào tâm, một lời nói ra phải có âm
hưởng Tịnh độ, phải hợp theo lời Phật dạy trong kinh điển Tịnh độ chứ. Ở đây,
những lời nói, ý tưởng hoàn toàn trái ngược với kinh Phật, hoàn toàn sai lý
Tịnh độ, thì xin hỏi rằng, suốt thời gian gọi là tu Tịnh đó, người đó đã tu như
thế nào? Hành như thế nào? Y cứ vào kinh nào? Chứ còn tất cả năm bộ kinh và một
bộ luận chính yếu chuyên công của pháp môn Tịnh độ hoàn toàn không có chỗ nào
nói những lời như người cư sĩ đó nói, cũng không có một ngụ ý nào hàm chỉ đến
những điều như người đó nói. Như vậy, thì làm sao dám tự xưng là tu Tịnh lâu
năm được!?
Trong kinh Phật nói rõ ràng rằng, "Thời mạt pháp kinh đạo diệt
tận", nghĩa là, kinh của Phật dần dần bị diệt, pháp của Phật dần dần
bị tận. Chánh pháp càng ngày càng yếu, tà pháp càng ngày càng mạnh, cho đến hết
pháp vận của Phật (tất cả 12 ngàn năm) thì đến thời diệt pháp, (có nghĩa là
không còn pháp Phật nữa).
Tại sao bị diệt vậy? Chính vì chúng sanh mê muội chạy theo kiến chấp sai lầm,
tạo nên nghiệp chướng sâu nặng, thế thì tự chúng sanh phải thọ báo nạn. Báo nạn
này bắt nguồn từ chỗ chúng sanh không tu theo kinh Phật, không làm theo kinh
Phật. Ngược lại con nghi ngờ lời Phật, nói sai lời Phật dạy trong kinh điển,
không chịu y giáo phụng hành, mà còn tự vạch lấy đường riêng để đi. Nói cách
khác dễ hiểu hơn, tu theo người khác, hành theo hướng khác, chứ không tu hành
theo pháp Phật.
Xin chư vị đồng tu cần nên sáng suốt nhận định trong vấn đề tu hành, cần chú ý
hiểu rõ những phương cách hành trì. Sự đạo, Lý đạo cần phải phân minh hầu tránh
sự nhầm lẫn đáng tiếc! Hiện nay, trong xã hội, có rất nhiều người tụ xưng là tu
theo Thiền, theo Tịnh, theo Mật... nhưng thực ra, họ tu hành theo kiểu tự sáng
chế ra, không theo một quy củ nào hết, cứ nghĩ sao làm vậy. Rất nhiều giáo phái
hoàn toàn tự chế, tự hành, thật mới lạ, hoàn toàn theo tôn chỉ riêng của họ. Nếu
quí vị chú ý một chút thì thấy ngay hiện tượng này, rõ ràng lắm chứ không phải
úp mở gì đâu.
Ví dụ, chúng ta thường nghe có người tự xưng là tu Tịnh, nhưng thật ra họ không
tu Tịnh. Trong cách hành trì, kinh Tịnh độ thỉnh thoảng một tháng có tụng qua đưọc
một vài lần, còn suốt thời gian khác thì họ tụng đủ thứ, họ hành đủ thứ, ngay
cả dùng bùa, dùng Ngải, pháp thuật, lên đồng, nhập xác... đều được cố tâm thực
hành cả. Ấy thế mà tự xưng là Tịnh độ. Trong kinh Tịnh độ, có chỗ nào Phật dạy
như vậy đâu?
Tu như vậy gọi là tu "Tạp" chứ không phải tu "Tịnh". Tu
Tịnh là tu "Nhất", tu Tạp là tu "Loạn"! Nhất là "
Nhất
tâm bất loạn", Loạn là: "Loạn tâm bất tịnh". Nói
chung, họ không tu theo Tịnh, không hành theo Tịnh. Ngược lại, họ hoàn toàn tu
theo Tạp, hoàn toàn hành Loạn, mà vẫn hiểu lầm là tu theo Tịnh độ. Dù cho, đôi
khi họ cũng đọc qua kinh Tịnh độ, nhưng xét cho kỹ, sự đọc tụng này cũng nằm
trong cái tạp loạn mà thôi. Vì sao vậy? Vì họ hoàn toàn không nguyện vãng sanh,
không tin vãng sanh, không tin A-Di-Đà Phật. Họ tụng kinh Tịnh độ chỉ để cầu
phước, cầu pháp thuật, cầu thần thông, cầu công năng đặc dị nào đó... Những thứ
này Phật cấm tuyệt mà họ lại thích. (Xin mở ngoặc, đây là nói chung chứ
không nói riêng ai).
Cho nên, khi gặp một người tự xưng là tu hành chân chính, chúng ta cần nên âm
thầm xem xét cho kỹ về cách hành trì và hướng đi của họ mới dám xác quyết, chứ
không thể bừa bãi vội vã tin theo. Ví dụ, Phật dạy vãng sanh về Tây-phương để
thành đạo Vô-thượng, vậy mà chúng sanh lại nói, về Tây-phương còn luân hồi sanh
tử. Kinh A-Di-Đà, kinh Vô-lượng-thọ, kinh Hoa Nghiêm, kinh Lăng-nghiêm, kinh
Đại-tập, v.v... nhiều lắm, rất nhiều kinh điển của Phật đều nói điều này, bằng
cách này hay cách khác đều khuyên chúng sanh phải nguyện sanh về đó để viên
thành Phật đạo. Có người không tin có cõi Cực-Lạc, có người nói sanh về
Tây-phương là sanh qua nước Ấn-độ, (về Ấn độ nóng bức, nghèo khổ đói khát có gì
vui đâu?), về Tây-phương là ích kỷ, là trốn đời v.v... Những lời này ngược với
lời Phật dạy, ngược với lý đạo, sai Phật pháp. Ngũ kinh Tịnh độ hoàn toàn không
có nói. Tam tạng kinh điển của Phật để lại, chắc chắn không có kinh nào Phật
nói điều này. Chúng ta phải cẩn thận, chớ để những lời tà vạy trong tâm.
Tu Tịnh là chuyên lòng niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, người nào quyết lòng tu như
vậy, trong kinh Vô lượng thọ Phật gọi là "Chánh định tụ"; tu Tạp
nhạp, đụng đâu tu đó, không có hướng nhất định, hiếu kỳ, thấy điều gì lạ lạ đều
muốn làm thử, Phật gọi những người này là "Bất định tụ"; Những người không
tin pháp môn niệm Phật, bài bác pháp niệm Phật, phật gọi là "Tà định
tụ". Phật dạy, chỉ có "Chánh định tụ", nghĩa là người chân chánh
niệm Phật cầu sanh Tịnh độ mới đắc được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, (Nghĩa
là thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác). Còn người "Bất định
tụ" và "Tà định tụ" thì thời này nhất địng không thể nào thành
tựu đạo quả. Đây là Phật dạy. Trong kinh A-Di-Đà Phật, hai lần đức Bổn Sư
Thích-Ca Mâu-Ni Phật thọ ký rằng, "người niệm Phật cầu sanh Tịnh độ sẽ
không còn thối chuyển cho đến khi chứng Vô thượng Bồ đề". Trong Kinh
niệm Phật Ba la mật, Phật xác quyết rằng vãng sanh Tây phương thì sẽ thành
Phật, cho nên Phật tuyên bố thẳng rằng, "Vãng sanh Tây phương tức là thành
Phật". Vậy thì tại sao có người dám nói rằng về Tây-phương là còn chết,
còn luân hồi sanh tử.
Ly kinh nhất tự, tức đồng ma
thuyết! Nói sai kinh Phật tội lỗi vô
cùng lớn, xin chớ vọng ngôn! Một người tu Tịnh, nếu đúng là Tịnh, thì chắc chắn
Lý vãng sanh vững vàng, Sự vãng sanh vững vàng. Đã vững vàng lý sự, thì đâu có
thể nói điều trái, ngược ngạo với kinh Phật được! Cần phải kiệt thành sám
hối!!!
Còn người tu tạp, không thể tự xưng là tu Tịnh được.Tạp là loạn, đã loạn thì
không tịnh. LOẠN và TỊNH là hai nghĩa hoàn toàn trái ngược nhau, xin chư vị
đừng lầm lẫn!
Trong pháp tu Tịnh độ có ba điều cấm kỵ là: Hồ Nghi, Xen Tạp, Gián Đoạn.
Hồ Nghi lời Phật thì không thể chấp nhận là người học Phật chân chính được,
nhất là pháp môn Tịnh độ. Giáo pháp của Phật là khuyên nhắc chúng sanh
"Đoạn nghi sanh tín", chứ có thể nào bảo chúng sanh đoạn tín sanh
nghi đâu? Nhiều người vì thiện căn quá kém nên mới không tin lời Phật, vì cống
cao ngã mạn cho nên cứ đề khởi mối nghi. Phật đại từ đại bi thấy vậy cũng phải
tùy duyên mà giáo hóa, giảng giải cho chúng sanh mau mau phá mê khai ngộ, bỏ
nghi sanh được tín tâm vững vàng để sớm được vãng sanh thành đạo Vô thượng...
Đáng tiếc! Thương cho chúng sanh cứ mãi mê mờ nghi ngờ lời Phật dạy!
Đã nghi ngờ lời Phật, là phạm điều kỵ thứ nhất. Phạm điều thứ nhất thì dẫn đến
phạm tất cả các điều. Chính vì thế, dù cho nhiều năm sinh hoạt dưới hình thức
Tịnh độ, hoặc xưng danh là Tịnh độ, chứ thực chất không phải là tu Tịnh độ.
Không tu Tịnh độ nên Lý Tịnh độ không hiểu sâu, hoặc nhiều khi không biết gì
cả. Từ đó, hình tuớng thì nói tu, nhưng tâm hồn thì chạy theo vọng tưởng, vọng
cầu, những sự hiếu kỳ hư huyễn để sau cùng bị loạn, mất cả lý tưởng chân chánh.
Khi đã mất lý tưởng chân chánh thì không còn biết đâu là chánh, đâu là tà. Điều
này thấy được khá rõ ràng, vì người học Phật mà dám mạnh dạn nói sai lời Phật
dạy, không lấy kinh điển làm tiêu chuẩn tu hành, bên cạnh lại chạy theo tư
tưởng thế gian, lấy kiến giải của người thế gian mà tu hành theo. Thật sai lắm
vậy!
Thời mạt pháp, Phât dạy chúng sanh phải theo "Tứ y pháp để tu" thì
mới được thiện lợi. Tứ Y pháp là, "Y Pháp bất Y nhân, Y ý bất Y ngữ, Y
liễu pháp bất Y bất liễu pháp, Y trí bất Y thức". (Tứ y pháp này có bàn kỹ
trong bộ KNNP). Trong bốn điều y cứ này, đầu tiên Phật nhấn mạnh, chúng sanh
phải "Y Pháp bất Y Nhân". Nghĩa là, nhất định phải y theo kinh điển tu
hành, không được nghe theo bất cứ ai cả. Xin chư vị đồng tu nhớ lấy điểm này.
Khi nghe một ngưòi nào nói điều gì liên quan đến Phật pháp thì phải xét lại cho
k ỹ rằng đìều này có đúng theo kinh hay không? Hễ đúng thì theo. Không đúng thì
nhất định không được làm theo, dù người nói đó là ai! Quyết định vững như vậy
mới tránh khỏi lạc vaò đường Tà, tránh tai họa vào thân, tránh điều khổ nạn cho
vạn kiếp về sau.
Tu không chuyên nhất, lại "Xen tạp" đủ thứ là phạm điều kỵ thứ hai.
Vì xen tạp thành ra nghiên cứu tùm lum. Hơn nữa lại không nghiên cứu chánh
pháp, không chịu ngày đêm đọc tụng kinh Phật, suy nghiệm lời Phật trong kinh
điển để thực hành cho chính xác, mà cứ để tâm chạy theo thế trí biện thông,
những luận giải vô căn cứ, thành ra lời Phật dạy thì quên mất, lời chúng sanh
dạy thì để trong tâm. Chính vì thế mà nói lên toàn là luận điệu sai trái, hoàn
toàn không có trong kinh Phật, mà vẫn cứ yên chí làm theo không một chút giựt
mình tỉnh ngộ! Nếu không mau sám hối, chắc chắn sẽ dẫn tới tới chỗ tai hoạ!
Trong ba điều kỵ của pháp niệm Phật, xen tạp là điều tối kỵ trong các điều kỵ.
Tu hành xen tạp quyết định khó phần thoát ly sanh tử luân hồi, nhất định đời
này sẽ bị kẹt lại trong tam đồ lục đạo. Đáng thương lắm vậy!
Điều thứ ba là Gián đoạn. Gián đoạn, không phải chỉ cho vì công việc làm ăn làm
trở ngại việc niệm Phật liên tục, mà chính là cách tu hành xen tạp. Tu xen tạp,
suy cho cùng, vì lý đạo chưa thông, không đủ niềm tin vào pháp Niệm Phật, một
đời thành Phật này. Tín tâm không đủ nên đứng đầu này trông đầu nọ, vay cách
này cầu cách khác, tâm lao chao chẳng yên, gọi là "Tâm viên ý mã".
Không có lòng chí thành chí kính y theo lời Phật, thành ra cơ hội liễu đoạn
sanh tử có sẵn trước mũi bàn chân mà đành phải mất phần giải thoát. Đáng tiếc
thay!
Hỏi số 6: Người được hộ niệm NGŨ CĂN bị KHIẾM KHUYẾT (mắt mờ hay căm hoặc điếc v.v..). Có cơ hội vãng sanh không?
Trả lời:
Người nào cũng có khả năng vãng sanh, nhưng khó hay dễ thì
chắc chắn phải có. Người ngũ căn khiếm khuyết thật sự phải khó khăn hơn người
bình thường. Trong kinh Duy Ma Cật có nói đến chuyện này. Ví dụ, người câm điếc
làm sao họ nghe lời khai thị, khi gặp trở ngại mình khuyên họ buông xả làm sao
họ biết để buông xả, khi mình niệm Phật làm sao họ nghe theo để niệm Phật được,
khi oan gia trái chủ tấn công làm sao họ báo cho mình biết sự cố bất tường đó,
v.v....
Trong kinh Phật có kể ra những trường hợp khó được Vãng sanh như: người câm,
điếc, mù, bị loạn thần kinh, bị cọp chụp, té cây v.v.. nói chung những trường
hợp này rất khó được vãng sanh.
Có những trường hợp có thể giải quyết được, như người già, lớn tuổi, tai bị
lỉnh lảng, điếc thì nên mua dụng cụ trợ thính, máy nghe, nhét vào lỗ tai thì có
thể nghe được. Người già mắt bị mờ, nhưng nhờ lúc còn sáng có tu hành, từng
nhìn thấy được hình Phật, khi sắp lâm chung còn nhớ được hình Phật để quán
tưởng tới v.v...
Khi tắt hơi xong, thần thức chuyển qua thân trung ấm, có thể thấy được, nghe
được, nhưng sự chuyển tâm niệm Phật cũng là vấn đề khó khăn cho họ. Tập khí
khác chi phối, nghiệp chướng hiện hành, oán thân dụ hoặc, cũng thật sự khó khăn
cho họ để thức tỉnh, hiểu đạo...
Nói như vậy nhưng chắc chắn vẫn có những trường hợp đặc biệt. Điều này ngoài dự
liệu thông thường, khó quyết đoán được!
Hỏi số 7: Khi đến nhà của người được hộ niệm. Có để bàn thờ thần tài và ông địa hay thờ một số vị thần khác rất trang nghiêm, trường hợp này phải xử lý như thế nào? (Người được hộ niệm nằm ngay trong phạm vi này)
Trả lời:
Nếu thật sự gia đình thành tâm tin
tưởng Phật, tha thiết muốn người thân được vãng sanh thì ngại ngùng gì mà không
nói thẳng với họ về cách trưng bày trong phòng hộ niệm.
Thờ "Ông Địa" và "Ông Thần Tài" thì thường để dưới đất,
trong một góc nhà, chỉ cần lấy tấm vãi, hoặc một vật gì lớn ngăn che lại là
được. Không có gì trở ngại lắm.
Những tượng Thần Tiên ở trên bàn thờ trang nghiêm, thì có thể ảnh hưởng đến tâm
hồn người muốn vãng sanh. Tốt nhất nên né tránh.
Hãy giải thích cho họ rõ ràng là chỉ nên treo tôn tượng A-di-đà Phật là tốt
nhất. Nếu họ cảm thấy khó khăn phải hạ những tượng khác xuống, thì đề nghị với
họ nên dùng căn phòng khác để hộ niệm.
Hơn nữa, lòng tín ngưỡng của người bệnh dẫu sao cũng ăn sâu vào các hình tượng
đã thờ lâu nay, nếu lâm chung còn tưởng đến đó nữa thì rất khó định tâm, rất
khó xoay chuyển tâm ý. Người bệnh nhìn thấy các tượng Thần Tiên, có thể họ lo
sợ rằng lâu nay mình thờ các Ngài đó, nay lại niệm Phật A-di-đà mà không niệm
các vị Thần Tiên thì các vị Thần Tiên sẽ buồn, sẽ quở phạt, họ e ngại, sợ có
lỗi v.v.. Chính vì vậy rất dễ phân tâm, khó nhiếp tâm câu Phật hiệu, hình tượng
Phật A-di-đà khó đi sâu vào tâm người bệnh. Nói chung rất khó tạo tâm chân
thành, thành kính niệm Phật, thành ra rất khó tương ưng.
Đôi khi, dù cho họ có hiểu chút ít đạo lý vãng sanh, nhưng họ vẫn e ngại đủ
điều. Đây là tập khí khó bỏ lắm. Tốt nhất là chuyển đến phòng khác để họ tạm
thời đừng nhìn vào đó nữa.
Trong phòng hộ niệm nên thoáng một chút, sạch sẽ gọn gàng một chút, những hình
ảnh chụp gia đình, vợ chồng, con cái, hình bông hoa, phong cảnh nên tạm thời hạ
xuống. TV cassette, radio, v.v.. nên tắt đi. Nên tránh sự thăm lom của bà con,
người thân, đừng để những người không hiểu đạo đến hỏi thăm bệnh tình, chúc
phúc chúc lành bệnh, cầu mau bình phục v.v.. không tốt.
Nhắc nhở người nhà đừng nói chuyện lớn tiếng, đừng vội vã bàn đến chuyện chôn
cất, thiêu đốt, hậu sự v.v.. hoặc tỏ ra u sầu, buồn bã, than thở... những điều
này dễ động tâm người đang nhiếp tâm niệm Phật cầu vãng sanh. Đừng để những
tiếng ồn ào làm ảnh hưởng đến người bệnh.
Nếu đã tu xen tạp, suốt đời nhắm tới các đạo quỉ thần, đến lúc lâm chung mà còn
vướng bận vào đó, không tin tưởng Phật pháp, người nhà chỉ mời chúng ta đến
đóng góp thêm chút ít hình thức nào đó, rồi xen tạp các thứ khác thì chúng ta
nên từ chối thẳng, đừng nên tham gia, vì vô ích, không giúp được gì mà đôi khi
còn bị trở ngại cho người ra đi.
A-di-đà Phật
Hỏi số 8:
Mẹ em trước khi về VN, ở bên đấy rất tinh tân niệm Phật, mỗi ngày đều niệm Phật A Di Đà, trong thời gian ở VN mẹ em có nhiều biểu hiện khác lạ, em không biết giải thích làm sao chỉ biết rằng dường như có oan gia trái chủ theo sát. Tụi em rất lo lắng, ngoài việc niệm Phật cầu xin Phật gia hộ tụi em không biết làm sao.
Trả lời:
Kính Bs Diệu Huệ.
Diệu Âm xin gởi lời thăm Cụ Diệu Thiện, mẹ của Bs. Cụ Diệu Thiện tâm đạo rất
tốt, biết niệm Phật, biết đường cầu vãng sanh Tịnh độ. như vậy là tốt. Mong gia
đình yếm trợ cụ cho trọn vẹn. Ngoài ra không có gì trở ngại đâu. Khi về VN qua,
nhiều khi thay đổi không khí nên khó chịu một vài hôm đó thôi. Trước tiên xin
cô Diệu Huệ hãy an lòng về người mẹ, Diệu Âm thấy cụ rất hiền và đáng kính.
Điều thứ nhất, tại sao lại nghĩ rằng có oan gia trái chủ theo? Có thấy không
hay chỉ nghĩ như vậy thôi?
1- Nếu thấy rõ ràng có oan gia trái chủ thì mình mau mau cầu giải liền đi?
Bằng cách:
- Thành tâm sám hối nghiệp chướng, sám hối những lỗi lầm của mình, nhất định
đừng làm sai trái nữa, nhất là chấm dứt sát sanh.
- Thành tâm khuyên oan gia trái chủ niệm Phật cầu siêu sanh là hay hơn hết,
đừng nên bám víu vào cõi vô thường đau khổ này làm chi cho thêm đau khổ!
- Còn mình thì ngày đêm tụng kinh, niệm Phật hồi hướng công đức cho họ. Cố gắng
phóng sanh lợi vật để sám nghiệp rất tốt.
2- Nếu chỉ nghĩ rằng là có oan gia chứ không biết sự thực như thế nào, thì tốt
nhất đừng nghĩ thêm nữa. Phật dạy, tất cả đều do tâm tạo, những sự suy nghĩ của
mình thường gạt mình vào những chỗ thực thực hư hư không tốt. 1 nghi thì 10
ngờ, 1 ngờ thì 10 nghi, nghi - ngờ; ngờ - nghi... cứ thế làm cho mình rối lên,
từ chỗ không có chuyện thành ra có chuyện. Không tốt!
Niệm Phật xóa tan tất cả ách nạn. Người niệm Phật được chư Long-Thiên hộ pháp
bảo hộ, làm cho mình an toàn. Niệm Phật có chư Bồ tát gia trì bảo vệ, còn có
điều kiện nào an tâm hơn? Vững tâm niệm Phật thì tất cả những sự chập chờn
trong tâm sẽ tan biến. Niệm Phật mà tâm không an chính vì mình còn thiếu lòng
tin đó thôi. Hãy mau mau củng cố niềm tin cho vững vàng.
Người niệm Phật thiếu niềm tin vững vàng thường bị những sinh hoạt chung quanh
chi phối làm chao đảo. Người mới khởi phát tâm niệm Phật thường nên chuyên tu
một thời gian mới tốt, chớ vội phát tâm làm việc đạo sớm. Vì tâm đạo thì có,
nhưng lực thì chưa có, gọi là "Lực bất tòng tâm", cũng dễ gặp chướng
ngại làm cho mình thối tâm Bồ đề. Những chướng ngại này, nói cho có vẻ Phật học
một chút, gọi là "Ma chướng".
Ví dụ, mình muốn niệm Phật cầu vãng sanh, mình tin như vậy nhưng lý đạo chưa
được thông suốt. Khi đi ra ngoài, ít ai hiểu đến đạo lý này, họ chê bai. bài
bác, ngăn trở hoặc không đồng thuận với mình, hoặc có những luận điệu phản
chống lại, v.v... Đậy là những thử thách rất thường xảy ra, làm cho mình chao
đảo và thối tâm. Nghĩa là, lòng tin của mình bị giảm sút.
Những gì làm cho tâm mình thối chuyển gọi là "Ma chướng". Bị "Ma
chướng", thực ra chỉ vì tâm mình chưa vững, thành ra bị hoàn cảnh chuyển
đổi. Tâm không vững gọi là "Nội Ma". Hoàn cảnh hỗn loạn bên ngoài gọi
là "Ngoại Ma", hay gọi là "Thiên Ma".
Như vậy, ngoại ma hay nội ma đề do tâm của mình sanh ra cả. Tâm vững là chánh
tâm, chánh tâm sẽ chuyển đổi hoàn cảnh theo chánh đạo, tất cả đều hỗ trợ tốt.
Tâm không vững, thì bị hoàn cảnh chi phối, chuyển đổi theo chiều hưóng bên
ngoài, gọi là tà đạo. Tà đạo này suy cho cùng là do tâm của ta bị
"Tà" trước.
"Chánh" là thẳng, là trực. Tu chánh là đi thẳng một đường tới chỗ
thành tựu. "Tà" là không thẳng, đi xeo xéo, đi lần quần, đi vòng vo,
v.v... Tu Tà là tu không thẳng, tu suốt cuộc đời, hết đời này qua đời khác, tu
tới vô lượng kiếp... cũng không tới đích!
Tu hành mà không có đường rõ rệt, nhắm về tương lai mà không có hướng đến nhất
định, thường bị vướng vào cái tệ hại này. Người tu hành mà không có sự hướng
dẫn tốt thường bị vậy,
Phật giáo là đạo thoát ly sanh tử luân hồi, thế mà nhiều người tu học Phật lại
chưa bao giờ dám nghĩ đến chuyện vượt thoát sanh tử luân hồi, chưa có tâm muốn
qua khỏi tam giới, không bao giờ nghĩ rằng mình có thể vãng sanh Tây-phương
Cực-lạc để hoàn thành đạo quả, trong khi lời Phật dạy rõ ràng rằng: niệm Phật
vãng sanh Cực lạc.
Tất cả đều do niềm tin quá bạc nhược, quá thiếu phước thiện, thành ra học Phật
mà lại nghi ngờ lời Phật, không theo lời Phật dạy, không chịu y giáo phụng
hành. Ngược lại, ưa thích chạy theo những thứ triết lý bóng bẫy của người đời,
những kiểu lý luận lòng vòng của thế gian, ở đó chỉ cần lòe ra một chút tâm lý
mà mê tít, rồi mạnh dạn đem cả công phu và lý tưởng tu hành của mình để đổi lấy
từng chút hào nhoáng phù phiếm, tạm bợ, tìm kiếm một vài cái phước báu nhỏ nhen
trong tam giới lục đạo, mà quên mất lối giải thoát.
Tu hành như vậy, dù rằng, tiếng là đang tu theo Chánh-Đạo, nhưng kết cuộc không
thể nào đạt được Chánh-Quả! Tu mà không đạt được chánh quả thì nhất định còn bị
trối buộc trong nghiệp Ma. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật dạy, "người quên mất
tâm giác ngô, mà đi tu các hạnh lành. đó toàn là nghiệp của ma", là chỉ
cho việc này đây!...
Tâm giác ngộ là tâm thành Phật. Muốn thành Phật thì phải về Tây phương Cực lạc.
Vì về tới Tây phương cực lạc thì một đời thành Phật.
Không lo chuyện thành Phật, chỉ dẫn dắt chúng sanh tạo nghiệp thiện, quên bẵng
chuyện thoát ly sanh tử luân hồi, làm cho chúng sanh đời đời kiếp kiếp bị kẹt
trong tử sanh không thoát nạn được. Ngài Tĩnh Am nói, thiện nghiệp càng lớn,
sanh tử càng nặng.... như vậy làm sao thành đạo?
Cho nên, dạy chúng sanh làm thiện mà không biết dạy hướng giải thoát, thì chẳng
khác gì nhử cho chúng sanh một miếng mồi thật ngon trong cái bẫy sanh tử. Ngược
lại, người biết hướng giải thoát mà không chịu làm thiện, chính là người biết
được đường đi nhưng bị thiếu cơm ăn. Vì vậy, tu thiện rất cần, nhưng xin đừng
ngừng lại đây, hãy hướng tới Tịnh nghiệp mới đúng.
Trong kinh Phật có câu: Tâm tịnh quốc độ tịnh. Hay nói ngược laị, tâm loạn quốc
độ loạn. Nghĩa là, tâm mình vững vàng, thanh tịnh thì hoàn cảnh chung quanh sẽ
ảnh hưởng cái tâm của mình mà dần dần sẽ thanh tịnh. Ngược lại tâm mình chưa có
chỗ nương dựa vững vàng, còn chơi vơi, thì dần dần sẽ bị xã hội lôi cuốn mà
loạn lên giống như xã hội đang loạn vậy.
Chính vì vậy, chúng ta cần hàm dưỡng công phu, cố gắng niệm Phật cho nhiều, khi
ra ngoài gặp những người không biết tu hành, chống đối, hiểu lầm hay những sinh
hoạt trái nghịch nào khác thì đừng nên chú ý đến, đừng nên can thiệp vào, tốt
nhất là lánh xa để tâm ta khỏi bị chao đảo.
Tâm chưa thanh tịnh rất cần hoàn cảnh thanh tịnh. Hãy cùng nhau tạo mội trường
thanh tịnh để giúp đỡ nhau thoát được nhiều ách nạn. Sự lo lắng, buồn phiền, sợ
sệt, nghi ngờ, v.v... đề có ảnh hưởng không tốt! Những người chung quanh cố
gắng đừng sơ ý tạo những ý tưởng tiêu cực, đây là một thứ từ trường không tốt
cho nhau. Người sắp chềt mà ta biết cách hướng dẫn, họ còn vui vẻ, thích thú,
vững tâm để vãng sanh thay huống chi là sự nghi ngờ không căn cứ, một vài nét
buồn man mác vu vơ!
Trở lại chuyện của Cụ, Cụ bị khó chịu trong người có lẽ vì thấy người thân của
Cụ bị bệnh, nằm trên giường nhiều năm mà cứu không được, nên đâm ra ưu buồn đó.
Người chị em của Cụ chưa hiểu đạo lắm, có vẻ còn sợ chết, bên cạnh đó, trong
địa phương chưa có BHN, chưa ai nắm vững cách thức cứu người Vãng Sanh. Chắc
chỉ vậy thôi, không có gì liên quan đến oan gia trái chủ đâu.
Xin Bs hãy khuyên Cụ rằng, mỗi người đều có phần số riêng, nghiệp ai nấy trả.
Mình biết đạo thì cố hết sức khuyên giải, nhưng được hay không còn tùy thuộc
vào nhiều nhân duyên khác. Điều cần nhất là chính ta phải lo tu hành để thành
đạo. Thành đạo rồi thì thiếu gì dịp để cứu độ nhau.
Trong việc tu hành giải thoát, muốn giải thoát thì chính ta phải tự cởi mở
những chướng ngại, buông hết những vướng mắc ra.
Cứu người thì tốt, nhưng cứu người không được làm cho mình buồn phiền, vì buồn
phiền cũng là một sự vướng mắc. Tu hành thì tốt, nhưng tu mà thõa mãn với công
phu của mình thì cũng bị vướng mắc. Đã vướng mắc thì chính mình bị kẹt.
Thôi thì an nhiên là tốt. Tất cả đều có nhân - duyên - quả. Thưa với Cụ nên tùy
duyên để tâm mình thanh tịnh là điều tốt đẹp vậy.
Khuyên cả gia đình đều phát tâm niệm Phật, cầu Tam Bảo gia trì, nên phóng sanh
lợi vật,... đem công đức hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, hồi hưóng cho oan
gia trái chủ, hồi hướng cho ông bà cha mẹ, thân quyến trong nhiều đời kiếp để
họ được lợi lạc, khuyên họ nên niệm Phật cầu vãng sanh tịnh độ.
Riêng mình xác lập cho vững đường vãng sanh, đừng chao đảo mà lỡ luống qua cơ
hội này, khó tìm lại lắm.
Chúc Bs Diệu Huệ vạn sự kiết tường.
Chúc Cụ vui trong tiếng niệm Phật vãng sanh.
Hỏi số 9:
Trong thư nhắc người niệm Phật của ngài Hạ Liên Cư là chưa được nhất tâm phải cần chuyên niệm, muốn không loạn phải niệm thành phiến. Thưa chú niệm thành phiến là phải làm sao? Xin chú chỉ dạy . Chúng con chân thành cảm ơn.
Trả lời:
Chữ "Nhất tâm" ở đây có
nghĩa là "Nhất tâm bất loạn", đây là một cảnh giới chứng đắc rất cao,
"Sự nhất tâm bất loạn" dù chưa diệt hết được kiến tư hoặc, nhưng đã
có khả năng phủ phục được rồi. Lý Nhất tâm bất loạn thì đã diệt được nghiệp
hoặc, tương đương với cảnh giới "Minh tâm kiến tánh' của Tông môn, hoặc
"Đại khai viên giải" của Giáo hạ. Cảnh giới này thực sự không phải
đơn giản.
Nhưng xin hỏi, đến nay, có ai đã niệm Phật được nhất tâm bất loạn chưa? Thời
mạt pháp này, căn tánh chúng sanh hạ liệt dễ gì chứng đắc cảnh giới này! Đôi
lúc chúng ta cũng nghe đến có người tự xưng là "Nhất tâm bất loạn".
Nhưng xin thưa thực, một khi đã khoe ra, thì còn gì là "Nhất tâm",
còn đâu là "Bất loạn" nữa?!!!...
Niệm Phật chưa được "Nhất tâm bất loạn" thì sự vãng sanh chưa được
bảo đảm. Nhưng nhất tâm bất loạn lại quá khó, không thể đạt được. Vậy, người
niệm Phật vẫn còn khó khăn đễ được vãng sanh...
Tuy nhiên, sự khó khăn này là nói theo nghĩa tự tu chứng đắc, chứ chưa nói đến
lực gia trì của đức A-Di-Đà Phật. Đại thệ của đức A-Di-Đà Phật là để cứu độ tất
cả chúng sanh, chứ không phải chỉ cứu độ người chứng đến cảnh giới nhất tâm bất
loạn.
Ngài Cư sĩ Hạ Liên Cư nói, "... chưa được nhất tâm phải cần chuyên niệm,
muốn không loạn phải niệm thành phiến", là để nhắc nhở chúng ta phải cố
gắng niệm Phật tinh tấn hơn nữa, để đường vãng sanh càng được vững vàng hơn,
chắc chắn hơn, tránh được nhiều những chướng ngại khi xả bỏ báo thân.
Ấy thế,nhiều người niệm Phật chưa Nhất tâm bất loạn, thành phiến cũng chưa đạt
được, vậy mà đã sơ ý vội tự cho là đủ, tâm đã có phần tự mãn rồi. Đây thật điều
đáng tiếc!
Ví dụ, nhiều người, khi gặp được pháp môn niệm Phật, do nhờ thiện căn phước đức
nhiều đời kết tập lại, họ phát lòng tin tưởng và thành tâm niệm Phật. Vì sự
phát tâm lúc đầu quá mạnh, tâm quá chí thành, nên đã được những điều cảm ứng
bất khả tư nghì, như bệnh nặng tự nhiên giảm. Nhiều người mắc bệnh ung thư sắp
chết, nhờ niệm Phật một thời gian tự nhiên hết bệnh, v.v... Những hiện tượng
này là do lòng thành mà cảm được sự gia trì của Phật.
Nếu người bệnh tiếp tục khẩn thiết tu hành, tín nguyện hạnh đầy đủ thì chắc
chắn họ sẽ tiếp tục được sự gia trì từ đại nguyện của A-Di-Đà Phật và chư
Bồ-tát, sau cùng họ sẽ hưởng được phước phần an nhiên vãng sanh về nước Cực-lạc
khi báo thân mãn.
Nhưng cũng có một vài trường hợp khá đáng tiếc, là khi người niệm Phật đã hưởng
được sự gia trì, nhưng sau cùng vẫn có thể bị chướng ngại, và đôi khi có thể
mất vãng sanh. Những trường hợp này, tổng quát có thể quy tụ vào những nguyên
nhân sau đây:
1/ Người niệm Phật thối tâm. thối tâm vì tưởng mình đã chứng đắc, vì tưởng niệm
Phật như vậy là đủ, vì vừa được cảm ứng thì khởi niệm cao ngạo, vì khoe khoang
ra ngoài, vì được nhiều người khen tặng mà tỏ ra tự mãn, cao ngạo, v.v... Những
trường hợp này chính là tự mình thối tâm. Một khi tâm bị thối chuyển, nếu không
kịp thời lấy lại tâm kiên cố bất thối, thì thật là một điều đáng buồn, đáng
tiếc cho chính người đó vậy!
2/ Bị nghiệp khổ khảo, oán thân trái chủ thử thách... tâm chưa được vững nên
thối chuyển, mất niềm tin vàp pháp niệm Phật.
3/ Không gặp bạn lành khuyến tấn, lại bị bạn ác công kích, dụ hoặc, bị nghịch
duyên... làm cho niềm tin bị chao đảo.
Một khi tâm bị thối chuyển thì kéo theo sự phát nguyện vãng sanh không còn tha
thiết, công phu niệm Phật hời hợt. Tín-Nguyện-Hạnh không còn đầy đủ nữa. Chính
vì thế, có thể đưa đến hậu quả mất phần vãng sanh. Thật là đáng tiếc lắm vậy!
Vậy thì, Ngài Hạ Liên Cư khuyên rằng, người niệm Phật, nếu chưa được nhất tâm,
thì phải cố gáng niệm phật thành phiến. Quả thật là chí lý.
Niệm Phật mà thuận duyên thì đỡ phần trở ngại. Còn khi người niệm Phật, ở bên
cạnh rất nhiều người không niệm Phật: Vợ chồng, con cháu, anh em, bạn bè,
v.v... không niệm Phật. Họ thường bài bác, ngăn cản, gây nhiều chướng ngại cho
mình, nhất là trong lúc lâm chung thì làm sao có thể an toàn vãng sanh?
Để trả lời, Ngài Hạ Liên Cư nói: "nếu chưa được nhất tâm, thì phải cố gắng
niệm phật thành phiến".
Diệu Âm xin bổ túc thêm: Ngoài việc niệm Phật thành phiến, hãy cố gắng kết hợp
thành một nhóm nhỏ chuyên lòng niệm Phật với nhau, nghiên cứu kỹ về hộ niệm để
hộ niệm cho nhau khi có người lâm chung, thì đường vãng sanh Tây-phương trở
thành rất vững vàng, rất chắc chắn.
Niệm Phật nhất tâm bất loạn thì vãng sanh Thượng phẩm. Nếu không được Thượng
phẩm thì niệm Phật thành phiến để tranh phần Trung phẩm, có vậy mới an toàn.
Đừng nên lơ là, đừng nên giải đãi, đừng nên cho rằng công phu đã đủ mà coi
chừng bị trở ngại lúc cuối cùng.
Niệm Phật thành phiến, niệm Phật thành mãng, niệm Phật thành khối, v.v... có ý
nghĩa tương tự. Đây là chỉ cho công phu niệm Phật tốt, gần kề với Sự Nhất Tâm
Bất Loạn.
Ngài Ấn Quang nói: "Từ sáng đến chiều, từ chiều đến sáng luôn luôn niệm
Phật. Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín... đều giữ trong tâm câu Phật hiệu
A-Di-Đà Phật". Đây là dạng niệm Phật thành phiến.
Ngài Tịnh Không nói: "Lão thật niệm Phật", cũng có ý nghĩa tương tự.
Lão thật niệm Phật là thật thà, hiền lành, không cầu, không chấp, không cần
hiểu lý lẽ gì cả, cứ niệm mãi câu Phật hiệu trong tâm.
Người quyết lòng vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc thì chỉ cần một câu Phật hiệu
niệm tới cùng, tha thiết cầu vãng sanh, không cần gì khác, sẽ nắm vững phần
vãng sanh. Ai hỏi về Lý: không biết; Ai hỏi về Sự: không biết; Ai hỏi về Đạo:
không biết; Ai hỏi về Đời: không biết; v.v... Nói chung không cần biết nhiều
làm chi, chỉ cần thành tâm niệm câu Phật hiệu, niệm luôn luôn, đừng để gián
đoạn. Đây gọi là "Định". Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật gọi là
"Chánh Định Tụ". Tâm đã an trú vào câu Phật hiệu.
Nếu có sơ suất, lỡ có giây phút nào quên, đừng quá lo ngại, hễ nhớ đến là lo
niệm liền. Câu A-Di-Đà Phật nhất định niệm mãi, niệm mãi để cầu nguyện được
vãng sanh Cực-Lạc. Được vậy thôi thì dễ dàng được vãng sanh, thành tựu đạo
nghiệp.
Một câu A-Di-Đà Phật sẽ giải quyết tất cả mọi vấn nạn. Bố-tát Đại-Thế-Chí dạy:
"Thanh tịnh niệm mãi câu Phật hiệu, không cần vay mượn phương tiện nào
khác, tâm tự khai mở". Tâm tự khai mở thì sẽ tự biết tất cả pháp vậy.
Xin nhắc lại, nếu chưa được nhất tâm bất loạn, thì cố gắng lão thật niệm Phật.
Dù có lão thật niệm Phật rồi, cũng chưa đủ đâu. Đừng quên chuẩn bi hộ niệm như
lý như pháp cho nhau, thì nhất định chắc chắn ai cũng đều được vãng sanh.
Vãng sanh về Tây-phương, gặp Phật A-Di-Đà thì lo gì không khai ngộ.
Hỏi số 10: Súc sinh có được vãng sanh không? Hộ niệm cho súc sanh có được không?
Trả lời:
Trong kinh Vô lượng thọ, Phật
A-Di-Đà có phát lời thệ rằng:
"Tất cả chúng sanh, cho đến những kẻ ở trong cõi Diêm-ma-la (tức là điạ
ngục), trong ba đường ác, sanh về nước Ta, thọ giáo pháp của Ta, ắt Thành Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chẳng đọa vào tam ác đạo nữa. (Nguyện 1 và 2).
Như vậy, súc sinh nếu biết niệm Phật cầu vãng sanh cũng được vãng sanh. Chỉ có
vấn đề khó khăn là liệu chúng có cơ duyên ngộ ra được đạo lý, niệm Phật cầu
vãng sanh hay không mà thôi.
Nuôi con vật trong nhà, nếu ta tập cho chúng niệm Phật, thường xuyên hồi hướng
công đức cho chúng, thường đến vuốt ve, tâm sự, khuyên giải, tập cho chúng niệm
Phật, cầu cho chúng được vãng sanh... nhiều con vật có linh ứng tốt, chúng cũng
hiểu được ý của mình và niệm Phật theo. Nếu được vậy thì mình cũng có thể cứu
độ được chúng nó. Kết quả này, xét cho cùng, cũng là nhân duyên của chúng đã
đến lúc thoát nạn vậy.
Ví dụ, con chuột lắt của Ngaì Hạ Liên Cư đã vãng sanh cùng ngày với Ngài, nó
được Ngài nuôi và mỗi ngày đều theo Ngài đi kinh hành niệm Phật. Khi Cụ đứng
vãng sanh, thì trong ngày đó, nó cũng đứng vãng sanh luôn.
Cho nên, khi con vật chết, chúng ta nên niệm Phật cho chúng, khai thị cho
chúng, cầu nguyện cho chúng được vãng sanh về Tây phương. Đây là điều nên làm.
Thành tâm làm, rất tốt. Còn chúng được vãng sanh hay không thì không ai dám quả
quyết.
Hễ nó có linh cảm tốt, chúng biết niệm theo, cầu vãng sanh thì cũng có thể vãng
sanh. Còn tâm trí chúng vẫn mê muội, thì hộ niệm sẽ kết thêm chủng tử Phật cho
chúng, cầu cho tương lai được duyên lành với Phật pháp, thế thôi.
Ngay cả việc hộ niệm cho một người, đâu phải ai đuợc hộ niệm cũng được vãng
sanh đâu! Chỉ người nào tin tưởng, tha thiết phát nguyện, và niệm hồng danh
A-di-đà Phật mới được, còn người không tin tưởng, không chịu niệm, hoặc có niệm
mà không muốn về Cực lạc thì cũng đành chịu thua!
Phật không độ kẻ vô duyên! Vô lượng vô biên chúng sanh chết bị rơi vào các cảnh
giới đọa lạc, chư Phật biết vậy nhưng cũng không thể cứu được, vì họ không có
duyên với Phật. Họ chống báng, bài xích, làm điều ngược lại với Phật pháp... Họ
là hạng chúng sanh vô duyên với Phật vậy.
Hải Sơn muốn cứu con chó thì hãy thành tâm hồi hướng công đức cho nó, thành tâm
đem hết tình thương mà khuyên giải nhiều lần, cầu mong cho nó được thoát nạn
súc sanh, sanh thẳng về cõi Tịnh-độ có lẽ hay hơn cầu sanh làm người. Cứ làm
vậy, được hay không, sanh về đâu... thì còn phải tùy duyên của nó.
Phật dạy, tất cả chúng sanh đều có Linh tánh, Hữu Tình thì có Phật tánh, Vô
Tình thì có Pháp tánh. Phật tánh hay Pháp tánh đều là tánh linh.
Có tánh linh thì có thể giác ngộ. Hữu tình thì có thể tự giác ngộ. Vô tình thì
nương theo sự giác ngộ của hữu tình mà được giác ngộ theo.
Trong kinh Hoa Nghiêm Phật nói, Y Báo nương theo Chánh Báo mà chuyển. Cháu hàng
ngày đem tâm thương yêu, cứu độ... mà nói chuyện, khuyên giải con chó, thì Hải
Sơn là Chánh Báo, con chó là Y Báo. Tâm Hải Sơn phải thành khẩn thì mới mong
được cảm ứng. Hãy cố gắng thử coi. Chắc chắn còn nhiều thử thách trong việc cứu
độ này!
Hỏi số 11:
Nếu một người bị đọa (Địa ngục), phát tâm sám hối hay thực hành Bát Nhã Tâm Kinh, "không chẳng khác sắc, sắc chẳng khác không", nghĩa là lúc nào cũng quán tưởng những hình ảnh mà mình đang chứng kiến là không có thực, vậy thì địa ngục có biến mất không?
Trả lời:
Quán tưởng được vậy thì hay quá!
Nhưng liệu có quán tưởng được không? Người hạ ngu phàm phu thường hay quán
tưởng bậy bạ, quán lạc đường nhiều lắm! Cho nên, nói thì hay lắm, nhưng làm
không được. Vậy thì nên cẩn thận mới tốt..
Chư Tổ sư khuyên chúng sanh trong đời này đừng nên dụng công theo các pháp quán
tưởng, dù rằng pháp quán tưởng được Phật nói trong kinh điển. Vì sao vậy? Thật
ra, những pháp quán này chỉ dành cho hàng Bồ tát, hàng thượng căn thượng trí
hành mà thôi, không phải dành cho hàng chúng sanh hạ ngu trong thời mạt pháp
này đâu!
Quán tưởng chưa sâu bằng "Chiếu Kiến". Quán Chiếu mới thật sự thấy sự
thật Chơn Tánh của pháp giới, của vũ trụ nhân sanh. Đây là điều ngoài giới hạn
hiểu biết của chú rồi!
Tốt nhất, hãy mau mau thật thà niệm Phật, cầu Phật gia trì để cuối đời vãng
sanh. Vãng sanh xong mới có tư cách luận bàn nổi những huyền nghĩa này. Còn bây
giờ, chúng ta nói đến chẳng qua là sự phiếm luận. Hay nói rõ hơn, chỉ là
"Tà tri tà kiến". Không tốt!
Hỏi số 12:
Trong một cuốn sách khác con đọc, cũng có nói rằng chính Diêm Vương và các vị Chủ ngục cũng bị hành hạ 3 lần một ngày? Có phải tại vì họ hành hạ những người bị đọa quá khắc nghiệt quá mà phải chịu đựng như vậy hay chính họ phải trả nghiệp của họ?..
Trả lời:
Chú chỉ chuyên niệm Phật. Niệm Phật
rất cần nhất tâm. Muốn nhất tâm thì không được tham việc nghiên cứu sâu rộng,
vì càng nghiên cứu rộng thì càng loạn lâm, càng gặp nhiều chướng nạn, chắc chắc
là điều không tốt cho người muốn niệm Phật cầu vãng sanh!
Chính vì thế mà kiến thức của chú kém lắm! Ngay cả điều Hải Sơn đưa ra này
chính chú chưa biết đến, cho nên không dám bàn thêm!
Nếu cháu muốn thì hãy điều tra thêm cho rõ, xem thử từ trong kinh nào? Có huyền
nghĩa nào khác không?...
Còn nếu muốn nhất tâm niệm Phật thì những kiến thúc này tạm thời bỏ qua đi mới
tốt. Tìm hiểu nhiều quá để mất vãng sanh, thì lo chuyên vãng sanh thoát vòng
sanh tử, há không hay hơn sao?...
Ngài Tịnh Không thường nói, Pháp Phật cũng phải buông xuống để đi thành Phật,
hà huống không phải là pháp Phật. Đây cũng là lời Phật dạy trong kinh Kim Cang.
Người biết đường thành Phật thì hãy buông hết mấy thứ lủng củng xuống để được
nhẹ nhàng đi làm Phật, chứ đèo bồng làm chi các gánh "Pháp" đó cho
nặng. Phật dạy, "Qua sông liệng bè". Người biết Tín-Nguyện-Hạnh là
người một đời này qua sông đó, đừng mang đủ thứ trên vai nữa mà trì trệ đường
giải thoát.
Các vị Quỷ Vương ở dưới địa ngục đều là Bồ-tát thị hiện, điều này có nói trong
kinh. Chuyện hành hình ở điạ ngục thực ra cũng không phải ai hành hình mình
đâu. Chính cái cảnh giới từ chính trong tâm của họ hiển hiện mà hành hình họ
đó.
Chính vì vậy mà Bồ tát xuống điạ ngục để cứu vớt chúng sanh cũng khó khăn mới
cứu được. Vì tất cả đều phát xuất từ trong tâm của họ ra ra. Phật Bồ tát chỉ
khuyên chúng sanh bó ác làm thiện, niệm Phật thoát nạn. Tự họ phải cứu họ.
Người nào nghe lời khuyên, cải đổi tâm tánh thì thoát điạ ngục, người nào cố
chấp không nghe theo, cứ để tâm hận thù, ganh tỵ, đố kỵ thì sẽ tiếp tục chịu
hành hình từ kiếp này sang kiếp khác.
Tất cả các quỷ sứ, hình phạt, địa ngục đều chiêu cảm từ trong tâm hiện ra. Các
Ngài "Quỷ Sứ", nếu có hiển hiện, thi họ chỉ là những người chấp pháp,
chứ không phải là người hành hạ chúng sanh.
Giống như người thường nằm ác mộng, có người bị ac mộng ghê rợn từng đêm từng
đêm, mỗi đêm càng nặng hơn. Họ sống tại dương gian này mà đau khổ có khác gì
trong địa ngục. Trong ác mộng họ thấy có người chém, đâm, bóp cổ, hành hạ họ đủ
cách... Nhưng thật ra có ai hành hạ họ dâu?
Vì lâm vào cảnh giới này mà nhiều người phải điên loạn luôn, phải tự tử
chết.... Tất cả đều là giả huyễn hết. Nhưng chính họ bị vướng vào đó, họ thấy
có thực, rõ ràng. Nhất định không thể chối bỏ được!
Nếu chính họ ngộ ra, đó chỉ là giả huyễn, thì tự nhiên hết. Lý đạo là vậy,
nhưng giải quyết vấn đề không phải dễ! "Quán Tưởng" được sự việc đều
hão huyền không phải là khả năng của người phàm phu. Nghĩa là, có quán gì quán
cũng mù mịt. Có tưởng gì tưởng vẫn bị hành hình. Nói rõ hơn, khó thể thoát nạn!
Cách tốt nhất là niệm Phật. Niệm Phật thì khỏi niệm ma, khỏi niệm Quỷ, khỏi bị
sợ hãi, khỏi bị kinh hoàng, nghĩa là thoát khỏi các cảnh khổ đó. Niệm Phật thì
được chư Thiên Long Hộ pháp bảo vệ, chư Bồ tát gia trì, được Phật gia trì, tự
nhiên tâm hồn sẽ an tịnh. Tâm an tịnh sẽ hưởng cảnh giới an tịnh.
Chúc Hải Sơn thành tâm niệm Phật, thường xuyên niệm Phật. Cứ niệm Phật tự nhiên
tâm sẽ sáng, gọi là Minh Tâm mà Kiến Tánh vậy
(Chứ chú không chúc Hải Sơn nghiên cứu nhiều).
Hỏi số 13:
... đi hộ niệm cho 1 cô phật tử (cô phật tử này thường hay cúng dường đồ tứ sự cho chư tăng - việc làm này rất lâu năm rồi), do phải đi bộ nên khi đến nơi thì cô phật tử này đã tắt thở khoảng 1 tiếng đồng hồ, ... (vị này) lấy tay sờ vào thân thở cô phật tử này thì thấy lòng bàn chân nóng, ... (Vị này) mới nói là: "CÁC CON, PHẬT TỬ NÀY ĐỌA ĐỊA NGỤC RỒI CÁC CON AH" bây giờ thầy trò mình niệm PHẬT để cứu cô phật tử này, thế là ... (Vị này)cùng với 5 ... (vị khác) niệm PHẬT liên tục được 2 tiếng đồng hồ, sau 2 tiếng đồng hồ ... (Vị này) dùng 2 BÀN TAY đặt vào 2 lòng bàn chân của cô phật tử này (giống như dùng nội lực của mình đẩy hơi nóng của lòng bàn chân lên trên) kết quả là TRÊN NGỰC NÓNG. ... (Vị này) nói:" THẦY TRÒ MÌNH CHỈ ĐỦ KHẢ NĂNG CỨU CÔ PHẬT TỬ NÀY LÀM NGƯỜI TRỞ LẠI THÔI." sau đó ... (Vị này) và 5 ... (vị khác) không niệm phật nữa, ra về...
Trả lời:
Kính Thầy HP,
Diệu Âm hơi phân vân rằng, không biết câu chuyện này có đúng chính xác như đã
kể hay không? Nếu đúng như vậy thì có nhiều chỗ hơi "lúng túng!"...
Nói điều liên quan đến Phật pháp, Diệu Âm học sao nói vậy, chứ không dám quanh
co, cũng không dám nói trái lệch với những gì đã học được. Cho nên, nếu có điều
gì không vừa lòng xin thầy tha thứ.
Trước khi đi vào câu hỏi chính phía sau, Diệu Âm sẽ dựa theo pháp hộ niệm vãng
sanh, xin nêu ra đây những "điều lúng túng!" đã xảy ra chung quanh
câu chuyện.
Thứ nhất, chính cô PT này không tu Tịnh Nghiệp, không biết niệm Phật, không
biết đường vãng sanh. Cô ta chỉ là người tu phước thì khó lòng được vãng sanh
Tịnh độ!
Thứ hai, cô PT đã tắt thở cả tiếng đồng hồ rồi mới có người tới "hộ
niệm". Như vậy thì quá trễ. Hộ niệm cần phải thực hiện trước khi lâm
chung, ngay thời điểm lâm chung, và suốt thời gian sau khi tắt thở ít ra 8 giờ
đồng hồ niệm Phật không gián đoạn. Câu chuyện hộ niệm này không thực hiện được
những điều này.
Thứ ba, thân nhân trong gia đình hình như không có ý niệm gì về hộ niệm. Vì,
nếu có người trong nhà biết pháp hộ niệm thì chắc đã nhắc nhở đến rồi. Ở đây
hình như chỉ để người chết như vậy một cách im lìm, buồn hiu, không có một
tiếng niệm Phật bên cạnh.
Thứ tư, người tới "hộ niệm", nhưng xin thưa thực, cách hộ niệm có
nhiều điểm khác lạ. Nếu lấy pháp hộ niệm của Tịnh độ tông, thì cách hộ niệm ở
đây đã phạm đến nhiều điều cấm kỵ như:
- Mới chết 1 giờ đã đụng chạm vào thân xác để thăm dò.
- Niệm Phật mới được 2 tiếng đồng hồ lại đụng chạm vào thân xác nữa để thăm dò
tiếp,
- Hộ niệm mà dùng chưởng lực hay nội công gì đó của mình để đẩy thần thức lên,
(lạ quá!)
- "Hộ niệm" mới được 3 giờ sau khi chết, đã vội vàng bỏ ra về.
Nếu nói đến các cách hộ niệm khác thì Diệu Âm không biết. Chứ còn dựa theo pháp
Hộ niệm vãng sanh của Tịnh Tông mà xét, thì sự hộ niệm kể trong câu chuyện này
không được hoàn chỉnh. đầu không hoàn chỉnh, giữa không hoàn chỉnh, cuối cũng
không hoàn chỉnh luôn!
Đầu không hoàn chỉnh, nghĩa là khoảng thời gian trước khi xả bỏ báo thân, chung
quanh người chết không có một dấu hiệu gì liên quan đến việc trợ niệm vãng
sanh, không có người niệm Phật.
Cô Phật tử chỉ chuyên cúng dường tứ sự cho chư Tăng, có nghĩa là cô đó là người
tu phước, không chủ tâm niệm Phật, không tha thiết nguyện vãng sanh,
Tín-Nguyện-hạnh không có, không biết đường về Tây-phương Cực-lạc. Không tu
"Tịnh Nghiệp", thì chắc rằng khó mà biết đến pháp hộ niệm vãng sanh.
Thực ra, hộ niện cần phải chuẩn bị trước, càng sớm càng tốt. Trong lúc đang
khỏe mạnh, đang tu hành thì phải lo tìm hiểu, học tập và biết cách "Hộ
niệm" rồi. Đến lúc lâm chung là giai đoạn cao điểm, và khi tắt hơi cho đến
tối thiểu 8 giờ sau là giai đoạn chót để hoàn thành việc hộ niệm. Chứ hộ niệm
không phải đợi chết rồi mới tìm người tới tụng kinh niệm Phật đâu.
Giữa không hoàn chỉnh, từ chỗ không tu tịnh nghiệp, không biết hộ niệm, nên
thường cứ chờ chết rối tính sau. Người sống mờ mịt không biết làm gì. Người
chết mờ mịt không biết đường nào để đi. Thật sự, tương lai quá mờ mịt đen tối!
Ngược lại, chính vì không biết nên người thế gian thường có những hành động sai
lầm. Nói rõ hơn, có thể những điều cấm kỵ đã bị phạm phải rất nhiều trong suốt
những ngày cô ta sắp rời bỏ báo thân. Cụ thể như:
- Tâm tham chấp thế gian không xả. Trước cảnh bệnh sắp chết chắc chắn sợ chết,
lo âu, bất an, hãi kinh.
- Không biết đường giải thoát tam giới nên chới với trong nghiệp báo, bị nghiệp
chướng hiện hành, nghiệp khổ báo hại.
- Lúc đau bệnh không ai khai thị, hướng dẫn, nhắc nhở việc niệm Phật vãng sanh,
mê muội dễ bị vướng cạm bẫy của oan gia trái chủ.
- Lúc sắp chết bị sự buồn thảm, than thở, u sầu: làm cho tâm rối như tơ vò.
- Lúc lâm chung bị người thân khóc lóc, kêu gào thảm thiết, khiến tâm rối loạn
càng thêm rối loạn.
- Lúc tắt hơi bị người nhà ôm ấp, níu kéo, va chạm... làm cho đau đớn đến hồn
kinh phách lạc.
Nhiều gia đình còn phạm thêm các điều kỵ khác nữa như:
- Người bệnh vừa mới tắt hơi thì đem xác đi tắm rửa, thay áo quần.
- Vội vã mời bác sĩ đến chích thuốc chống rã, chống hư thối.
- Kình cãi với nhau, bất đồng ý kiến, gây náo loạn bên người chết.
- Tẩn liệm quá sớm (do coi ngày coi giờ?).
- v.v...
Những điều đại cấm kỵ này mà bị phạm phải thì thật là tội nhiệp cho vong nhân!
Đây chính là những duyên xấu do hoàn cảnh và người thân đem đến, khiến cho thần
thức người chết bị đọa xuống cảnh giới đen tối.
Người biết rõ phương pháp hộ niệm có thể ngăn ngừa được tất cả những ách nạn
này.
Cuối không hoàn chỉnh, chính là sự hộ niệm có nhiều điểm sơ suất:
- Mới 1 tiếng đồng hồ đã thăm dò hơi ấm. (Hơi ấm trong khoảng thời gian này
không thể chính xác được!).
- Hộ niệm thiếu thành khẩn, thiếu lòng ngưỡng cầu Phật gia trì. Cụ thể như
không cầu Phật lực của đức Di Đà tiếp dẫn, mà lại dùng nội công của mình để
đẩy(!). Đây là tự mình thay thế Phật để tiếp độ(?). Pháp hộ niệm này hơi lạ
lùng!
- Khởi tâm hiếu kỳ trong khi hộ niệm, vì vừa hộ niệm vừa thăm dò hơi ấm.
- Niệm Phật quá ít, quá ngắn đã bỏ ra về. Chưa đủ an toàn. Nên nhớ, những điểm
ấm trong vòng 2-3 tiếng đồng hồ cũng không thể chính xác được.
- Không có lời khai thị hướng dẫn cho thần thức tín-nguyện-hạnh vãng sanh
- Không có lời điều giải đối với oan gia trái chủ để gỡ nạn cho người chết.
Nói chung, sự hộ niệm đã có nhiều điểm sơ suất!
Hỏi:
1. cô phật tử này thường cúng dường đồ tứ sự cho chư tăng. TẠI SAO LẠI BỊ ĐỌA
ĐỊA NGỤC? (vì HP đọc trong các kinh thấy nói rằng: phước đức cúng dường đồ tứ
sự cho chư tăng rất lớn).
Trả lời:
Cúng dường là tu phước, tu phước thì tạo nhân phước, nhân phước thì hưởng
phước. Nhất định không thể nói cúng dường tứ sự cho chư Tăng mà bị đoạ địa ngục
được.
Có thể, trong suốt thời gian tu hành, ngoài hình thức cúng dường ra, co ta đã
sơ ý phạm phải những lỗi lầm khác, khởi tâm động niệm vướng vào các điều tham
sân si mà bị nạn đó thôi.
Người tu phước mà không biết giữ gìn phước thì phước mất trụi lũi. Ví dụ, tu
phước mà khoe khoang, cống cao, ngã mạn, ganh tỵ, thị phi, cho mình hay, chê
người dở... nói chung chấp trước dẫy đầy, thì phước đâu còn nữa. Ngược lại hoạ
đến trùng trùng!
Tu phước là nhân hưởng phước, nhưng ngu si thì nhân sanh vào hàng súc sanh. Tu
phước mà ngu si thì thành súc sanh để hưởng phước. Có những con vật hưởng phước
rất lớn, ví dụ con chó trong nhà người tỷ phú.
Tu phước thì hưởng phước, nhưng thường để tâm sân giận thì tạo nhiều chủng tử
địa ngục. Lúc chết nổi cơn sân giận coi chừng bị xuống địa ngục chịu nạn trước,
còn phước thì chờ cơ duyên sau này.
Tu phước thì hưởng phước, nhưng tự hào về việc tu phước, thường cống cao ngã
mạn thì coi chừng thành A-tu-la để hưởng phước.
Tu phước dù cho có lớn tới đâu, nghiệp thiện dù lớn tới đâu, cũng chì là phước
báu nhân thiên, nhiều lắm thì cũng chỉ đầu sanh lại trong tam thiện đạo là
cùng. Nhất định không thể thoát tam giới.
Cô này tu phước, không biết tu huệ, thì cơ hội thoát ly sanh tử luân hồi quả
thật mờ mịt. Đường tu hành thật sự còn nhiều điểm thiếu sót!
Làm thiện mà chấp vào việc thiện thì không còn là thiện nữa! Phật dạy, tu phước
có hai loại: "Hữu tướng tam luân" và "Vô tướng tam luân".
Tam luân là: Người bố thí, người nhận bố thí và vật bố thí.
"Hữu tướng tam luân" là bố thí cúng dường mà còn biết rằng mình bố
thí cúng dường,còn biết người được bố thí cúng dường, còn nhớ món tiền mình bố
thí cúng dường, thì sự cúng dường này không có công đức. Hữu tướng tam luân
không thể liễu thoát sanh tử.
"Vô tướng tam luân" hay "Tam luân thể không" là bố thí cúng
dường nhưng phải biết quên nó đi, đừng để nó vướng trong tâm, thì việc thiện
này mới có công đức, trợ giúp tích cực cho việc tiến tu đạo nghiệp. Người niệm
Phật tu bố thí cúng dường, nhưng đừng chấp tại đó, hằng ngày cứ đem tất cả
phước lành gì tu được hồi hướng cho tất cả chúng sanh, hồi hướng về Tây phương
cầu vãng sanh, thì phước lành này biến thành tư lương để vãng sanh.
Phước và Huệ đều tu mới viên mãn đường đạo. Phước là Sự, huệ là Lý. Sự là bố
thí, cúng dường, làm thiện, Lý là tâm nguyện giải thoát. Chỉ tu phước thiện,
không lo đường giải thoát, thì tương lai còn lắm gian truân!
Ngài Tĩnh Am đại sư nói, "Thiện nghiệp càng lớn, sanh tử càng nặng",
là lời cảnh cáo những người tu thiện nhưng chấp vào việc thiện. Đã chấp vào
việc thiện thì không giải quyết được chuyện sanh tử luân hồi. Còn ở trong luân
hồi thì còn vướng vào nghiệp báo. Còn theo nghiệp thì ách nạn còn trùng trùng.
Kinh Hoa nghiêm có nói, "Quên phát Bồ-đề tâm, mà làm việc thiện, thì toàn
là nghiệp của ma". Người không có tâm thoát ly sanh tử, không có tâm vãng
sanh thành đạo, mà cứ chuyên lo làm việc thiện, thì việc thiện này trở thành
nghiệp ma. Vì sao vậy? Vì không ra khỏi tam giới thì vẫn trong vòng kiểm soát
của Ma Vương. Ma oán, ma sự, ma chướng, nghiệp chướng, oan gia traí chủ chướng,
báo chướng... nhất định phải đối đầu, không trước thì sau.
Cho nên, hướng dẫn tu hành phải chỉ đường tu cho chánh, cho thẳng, cho liễu
pháp, chứ không nên sơ ý chỉ nửa vời, mông lung, "Bất liễu giáo", làm
cho chúng sanh lạc đường. Tội nghiệp khá lớn!
Điển hình, tại sao cô PT này tu hành lâu năm mà còn bị nhiều sơ suất vậy?
Ta thử nêu ra một số trường hợp thường tình, trong đó có thể cô ta đã vướng
phải chăng.
- Một là, ý niệm rằng tu hành chỉ là việc làm lành, lánh dữ là đủ.
- Hai là, suốt đời chưa có dịp nghe được ai giảng đạo lý thoát lý sanh tử luân
hồi, đạo lý niệm Phật vãng sanh Cực-lạc, nên không biết đường nào tu cho đúng.
- Ba là, có thể có nghe pháp, nhưng không hợp căn cơ. Nghĩa là, toàn là những
đạo lý huyền diệu, cao siêu. những pháp vi diệu của hàng thượng căn cao vút
trên mây xanh. Lý hay, nhưng làm không được, lại sinh ra vọng tưởng.
- Bốn là, có thể vì không biết đường giải thoát nên chính cô ta đã tự nguyện tu
đường lục đạo luân hồi.
- Năm là, mỗi lần làm phước đều được tiếng khen. Thấy vậy tưởng là đủ, là ngon,
là đắc... Có ngờ đâu, bên cạnh nhân phước này đã có rất nhiều nhân họa xảy ra.
Kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện có nói, ở cõi Nam-diêm-phù-đề này, chúng sanh
khởi tâm động niệm, không có gì là không nghiệp. Như vậy làm sao cô ta tránh
khỏi tạo nghiệp chướng!
- v.v... và v.v..
Suốt đời tu phước, tâm cứ lần quần trong chuyện phước báu thế gian thì ngàn đời
vạn kiếp không có ngày thoát ly tam giới.
Người không tu thì không biết đạo. Người có tu hành thì gọi có đạo. Có đạo
nhưng chỉ biết cái đạo "Bất liễu giáo", cứ tu lần quần trong ngõ cụt,
không biết đâu là đường thành đạo, thì rõ ràng, rốt cuộc cũng uổng phí công phu
tu hành.
Xin hỏi rằng, trách nhiệm này quy cho ai đây?
Hỏi 2:
Sư phụ của vị ... này đã dùng nội lực của mình đề vận chưởng đẩy hơi nóng từ
lòng bàn chân lên trên ngực của người lâm chung. Vậy có đúng với luật nhân quả
không?
Trả lời:
Phương pháp hộ niệm này lạ quá. Trong pháp hộ niệm của chư Tổ sư Tịnh độ tông
Trung quôc truyền lại không có nói đến cách vận chưởng này. Hơn nữa trong vòng
3 tiếng đồng hồ sau khi tắt thở chưa thể xác quyết đường tái sanh. Diệu Âm
không biết, nên không dám bàn đến.
Hỏi 3:
Nếu như những vị học tăng này niệm Phật tiếp tục khoảng 1 thời gian nữa có thể
cứu cô này được vãng sanh hay không?
Trả lời:
Trong kinh nghiệm hộ niệm, khi gặp trường hợp bị trở ngại, người đi hiện tướng
xấu, hoặc không tốt lắm, nhiều BHN đã phát tâm hộ niệm thêm, thành khẩn khai
thị, thành khẩn điều giải oan gia, gia đình thân nhân thành tâm lạy Phật cầu
gia bị, thay người chết sám hối nghiệp chướng... có nhiều trường hợp liền sau
đó đã chuyển tướng, từ xấu thành tốt đẹp vô cùng. Thật bất khả tư nghì!
Nhưng điểm chủ yếu, vẫn là chính người đang bị nạn đó có chịu hồi đầu hay
không.
Người niệm Phật quyết lòng vãng sanh thành đạo, thì hãy tập buông xả, mau mau
buông xả thế trần xuống.
HT Tịnh Không dạy: Nhìn thấu, buông xả, tự tại, tùy duyên, niệm Phật.
Hỏi số 14:
Kính gửi anh Diệu Âm !
Bài của anh Diệu Âm viết hay quá. Anh Diệu Âm giảng rất dễ dàng cho bạn đồng
tu, không cầu kỳ, không dung từ cao siêu, ai cũng hiểu được, thật là quý hóa!
TH đồng ý hoan hỷ với anh Diệu Âm ở chỗ là mình không có sợ Ma là vì "Nhat
thiet duy tâm tao" kia mà!
Nhưng có một điểm nàyTH, xin thưa với Anh Diệu Âm,
Hồi năm ngoái, ... mình đi thăm một ngôi chùa VN. TH vừa bước chân vào ngôi
chùa đó, mình có cảm giác ở đây sao có nhiều âm khí quá,...
... nơi đây ngày trước là một nghĩa trang, bán đất rất rẻ, cho nên mới mua cất
chùa.
" TH nói... nên mời Vị Thầy nào có đức độ, đến lập đàn tràng Cúng Mông Sơn
Thí Thực Cô Hồn để cho những vong linh được siêu thoát, chứ không thì các vong
linh phá phách làm sao ai ở trong chùa này được!"
Ba tháng sau, chùa gặp chuyện lủng củng quá rắc rối, ... Tình hình đến nay cũng
được 9 tháng rồi, cứ vẫn lủng củng, càng khó hơn nhiều, Ma Vương Sống đến phá
chùa + với Ma Chết đã nằm dưới đất. Lạ lắm!....
.... Có một Thầy chịu đến để làm lễ cho Vong Linh, hẹn đến rồi giờ chót cũng
chạy trốn luôn...! Tình hình cứ như vậy, có chùa khang trang mà không có một Vị
nào ở tại đó được hết... TH thấy tương lai chùa đó sẽ thành Viện Bảo Tàng! Thật
là quá uổng biết bao sức lực tiền của...!
... nay nhân dịp bài này, có người đưa ra câu hỏi về "Ma Chướng
Ngại", cho nên TH mới dám đưa ra vấn đề này,
... Chùa này đang gặp Pháp nạn, phải gỡ ra bằng cách nào đây?
....
Thoai Hoa
Trả lời:
Nhiều nơi tu hành mà người ta không
tin chuyện quỷ thần, hành động không cẩn thận, nên thương gặp nhiều chướng
ngại.
Ví dụ khi đốn cây, phá rừng họ làm đại, hành động này làm tiêu tan nhà cửa của
chư vị quỷ thần. Khi cất chùa mà phá hại nơi ở của họ, không một lời điều giải.
Thật là tức tửi!
Phá nghĩa địa, lập chùa, v.v... mà quên việc điều giải này sẽ gây khó khăn cho
chúng đẳng vong linh, cho chư vị quỷ thần... cũng không ngoại lệ.
Cất chùa để chúng sanh tu hành, nhưng nhiều nơi tu hành không được trang
nghiêm, không thanh tịnh, không chánh pháp, nên việc tu hành khó tạo được công
đức, không giúp cho chư vị đó siêu thoát..
Những chuyện này xảy ra khắp nơi. Mình không đủ sức tham gia vào đâu. Tất cả
đều tùy duyên mà thôi.
Chúng ta không nên chen chân vào đó. Nơi nào tốt mình tới tu hành niệm Phật.
Nơi nào lộn xộn mình nên tạm lánh xa, chứ không biết cách nào khác hơn, vì lực
của mình không thể hóa giải tất cả ách nạn của thế gian đâu. Chính Diệu Âm này
cũng chỉ là phàm phu tục tử, tội chướng sâu nặng, thì làm sao hóa giải được
chuyện này?
Thành tâm nguyện cầu cho pháp giới sống an lành phúc lạc, chúng sanh nghiệp
chướng tiêu trừ. Ngày ngày tu hành nên hồi hướng chung cầu cho thế giới hòa
bình tiêu tai giải nạn. Hồi hướng cho oán thân trái chủ, cửu huyền thất tổ,
chúng đẳng vong linh, tất cả chúng sanh đều được siêu thoát.
Diệu Âm
Hỏi số 16:
HT Tịnh Không, trong Tam thời hệ niệm hay nhắc lại lời dạy của Tổ Ấn Quang về Qui tắc tu học cho Đạo tràng trong thời mạt pháp: 20 người, quanh năm chỉ niệm Phật, không làm pháp sự...Nhưng khi có tai nạn... Ngài lại dạy đọc tụng Tam thời hệ niệm, hoặc làm pháp hội. Vậy chúng ta nên hiễu và làm như thế nào cho đúng lới dạy của ngài ?
Trả lời:
Niệm Phật là chính mình phải chuyên trì để chắc chắn được
vãng sanh. Trong hướng này, kiểu đạo tràng nhỏ và thanh tịnh của Ấn Quang đại
sư là tốt nhất để người niệm Phật được thành tựu trong thời mạt pháp này.
Còn tụng tam thời hệ niệm để cứu vong nhân thoát nạn, cầu siêu cho chúng đẳng
vong linh, cầu tiêu tai giải nạn cho thế giới. Vì thế giới hiện giờ tai nạn xảy
ra nhiều quá. Hãy cố gắng cứu tai nạn của chúng sanh.
Việc đầu là tự mình giải thoát, Việc thứ hai là cứu chúng sanh. Vì thấy nhiều
người khổ quá nên lương tâm người tu hành bất nhẫn, quá thương hại, vì lòng từ
bi mà phải làm vậy. Đem công đức này hỗ trợ cho việc vãng sanh, cũng giống như
làm thiện làm lành, phóng sanh, bố thí là Trợ Hạnh, tạo thêm phước hồi hưóng
Tây phương. Người phàm phu tu hành cầu vãng sanh như chúng ta luôn luôn phải
lấy niệm Phật làm Chánh Hạnh.
Người tu hành mà cứ chăm chăm làm việc bố thí, giúp người, làm phước, làm thiện
mà không lo việc vãng sanh thoát vòng luân hồi sanh tử thì đường tu bị sai lầm,
vì dù làm thiện có tốt cho mấy cũng chỉ là phước báo nhân thiên là cùng, không
thể thoát ly tam giới. Ngài Tĩnh Am nói rằng, thiện nghiệp càng lớn, sanh tử
càng nặng, không thể thoát ly sanh tử luân hồi. Đây là ý nói đến loại người
chuyên tu phước báu, không lo chuyện thành đạo.
Còn cứ lo tu hành giải thoát mà gặp lúc chúng sanh bị ách nạn mình làm ngơ
không cứu, thì tâm từ bi quá yếu. Vãng sanh thì sau này ra sao chưa tới, hiện
thời mà vô tình, vô lương tâm với chúng sanh thì quá thiếu trách nhiệm của một
người tu. Thiếu tình thương thì thiếu phước đức, thiếu phước đức thì rất chướng
ngại khi lâm chung. Nhiều chướng ngại, thì cũng khó được an nhiên vãng sanh
vậy.
Cho nên, tùy duyên mà bất biến. Tùy duyên là nếu mình có khả năng làm thiện thì
nên tham gia, cứu người, góp chút công đức để cứu tại nạn của chúng sanh. Tùy
duyên là tùy sức tham gia, chứ không phải nặn óc, tính toán mà làm đến nỗi phải
chóng mặt nhức đầu, phiền não.
Nếu không có phương tiện thì nhất tâm niệm Phật rồi hồi hướng công đức cũng
được. Niệm Phật là điều bất biến, không thể thay đổi, không thể vì lý do gì mà
bỏ niệm Phật.
Điểm chính vẫn là, dù sao, đường
vãng sanh của mình phải bảo đảm mới được. Không nên vì lo quá nhiều chuyện mà
chính mình mất phần vãng sanh. Như vậy thà mình vãng sanh trước rồi cứu độ
chúng sanh còn hơn!
Ví dụ khác, hộ niệm cho người vãng sanh là điểm quang trọng, quá lợi ích, cần
phải làm, không nên bỏ. Nhưng khi hộ niệm cho một người mà họ không được vãng
sanh thì vì tâm từ bi thương xót, mình nên lập bài vị để tên người đó mà hồi
hướng. Điều này rất tốt, nên làm. Việc làm lớn nhỏ tuy có khác, nhưng mục đích
thì tương đồng.
Chánh hạnh, trợ hạnh phân minh vậy.
Hỏi số 17:
Khi đi hộ niệm, không đủ người phải nhờ sự hỗ trợ của các nhóm HN khác. Như thế có cần giữ nguyên người khai thị lúc đầu không? Vì nếu như nhiều người khai thị của nhiều nhóm có ảnh hưởng đến người được HN không?
Trả lời:
Trong một buổi HN, không nên thay
đổi quá nhiều người khai thị, đây là điều tốt, tránh tình trạng ồn ào, làm
người bệnh phân tâm, và nhất là tránh những người hiếu kỳ, không hiểu cách khai
thị phát biểu bậy bạ, nói những lời không thích hợp. Người chưa kinh nghiệm
khai thị nếu sơ ý nói một lời không thích hợp, hay sai pháp làm thay đổi ý
nguyện của người bệnh. Rất khó chuyển đổi tâm ý người bệnh về sau, chứ không có
nghĩa gì khác.
Nhiều nhóm Hộ Niệm cùng Niệm Phật, thì Diệu Âm nghĩ rằng những người trong nhóm
đã có kinh nghiệm khai thị, biết cách hướng dẫn rồi, vậy thì không cần áp dụng
cứng ngắt, hay phân chủ - khách đâu. Uyển chuyển là tốt, bàn bạc với nhau là
tốt, chứ còn phân chia cứng ngắt thường gây xáo trộn... không tốt.
Cho nên, không cần phải giữ nguyên một người khai thị lúc đầu.
Hỏi: Sau khi HN được 8 giờ. Người được HN có hai trường hợp
1-Nóng ở bụng nhiều và ở đầu không nóng nhưng không lạnh như những chỗ khác.
2-Nóng ở ngực nhiều và ở đầu không nóng nhưng không lạnh như những chỗ khác.
Như thế thần thức của hai người này đã ra khỏi thân chưa? Trường hợp này xử lý
như thế nào? Nếu gia đình không bằng lòng cho niệm tiếp.
Trả lời: Sau 8 giờ chỉ có thể còn hơi ấm ở một điểm. Nếu còn ấm tại 2-3 điểm
thì nên cẩn thận niệm thêm một số giờ nữa cho thực sự chính xác một điểm ấm
hoặc khi nào toàn thân lạnh hết mới được. Khi thân xác còn ấm nhiều chỗ thì coi
chừng thần thức chưa thực sự ra khỏi thân thể, không được tẩn liệm xác.
1) Nóng ở vùng bụng, đây là điềm xấu, bị đọa ngạ quỷ, không tốt. Nên thành tâm
cầu Phật gia trì, gia đình nên lạy Phật cầu gia hộ, BHN nên phát tâm niệm thêm
4-8 giờ nữa. Khai thị rất cần trong trường hợp này, cầu giải oan gia trái chủ.
Hãy làm hết sức, còn kết quả ra sao thì tùy theo phước phần của người ra đi.
2) Nóng ở ngực có thể được sanh lại làm người. Trong trường hợp này thân xác
cũng có thể được mềm mại, nhưng không viên mãn. Nhưng nếu thành tâm, Ban Hộ
Niệm có thể tiếp tục khai thị, hướng dẫn cho thần thức buông xả việc lưu luyến
con cháu, mau mau thức tỉnh niệm Phật, cầu xin A-Di-Đà Phật phóng quang tiếp
độ. Nên niệm thêm 4-8 giờ nữa, có thể giúp thần thức tỉnh ngộ mà vãng sanh
Cực-lạc. Lúc đó điểm nóng sẽ chuyển lên đỉnh đầu.
Trong những trường hợp này, bắt buộc gia đình phải thành tâm cầu nguyện, thành
tâm hợp tác tối đa với Ban Hộ Niệm để cứu người thân của họ. Nếu người thân
không bằng lòng thì Ban Hộ Niệm đành phải đình chỉ và ra về. Tất cả đều tùy
duyên phận, chứ không biết cách nào khác hơn.
Hỏi số 18:
Sau khi Hộ Niệm 8 giờ. Ban Hộ Niệm có cần thiết thăm hơi nóng người được Hộ Niệm ở đâu không? (Để có thể xử lý mọi trường hợp xấu kịp thời hay là tùy duyên)
Trả lời:
Nên làm. Hãy cẩn thận và thành kính
làm việc này. Không nên làm với tâm hiếu kỳ, nhưng thành khẩn làm vì để coi
người đi có bị chướng ngại nào không, nếu bị chướng ngại thì xử lý kịp thời,
nghĩa là bảo với gia đình và Ban Hộ Niệm nên thành khẩn hộ niệm thêm cho người
ra đi. Nếu được đồng thuận thì tốt, không đồng thuận thì cũng đành tùy duyên
thôi. Có nhiều người thăm thân xác quá lâu, quá nhiều làm cho chúng ta tưởng
tượng rằng họ bắt cái xác chết tập thể dục.
Làm như vậy có vẻ bất kính, nên tránh. Có người, vì muốn biểu diễn sự mềm mại,
cầm tay lắc qua lắc lại, ẵm lên rồi thả mạnh xuống giường, để chứng tỏ cho mọi
người thấy điều "Bất khả tư nghị" của người chết. Đây là điều bất
kính, hãy tránh.
Hỏi số 19:
Như anh Diệu Âm hướng dẫn. Sau thời gian Hộ Niệm, người được Hộ Niệm chỉ còn hơi nóng ở một điểm hoặc khi nào toàn thân lạnh hết mới được. Vậy một trường hợp được Hộ Niệm 14 giờ, người được Hộ Niệm ngoài các điều kiện cần thiết và thoại tướng tốt đầy đủ. Toàn thân người được Hộ Niệm đều lạnh hết thì trường hợp này như thế nào? (có được Vãng Sanh không?). Cũng không nóng ở đỉnh đầu.
Trả lời:
Hơi nóng có nghĩa là hơi ấm, hoặc ít
lạnh hơn các nơi khác, chứ không phải nóng "như cái máy sấy tóc"
như có người đã diễn tả đâu. Một người được hộ niệm 14 giờ sau khi tắt thở, có
thể còn hơi ấm ở đỉnh đầu. Tuy nhiên, nhiều khi trong suốt thời gian hộ niệm,
căn phòng mở máy lạnh thường xuyên, hoặc khi trời lạnh quá cũng có thể rất khó
phân biệt. Cho nên, nếu ấm ở đỉnh đầu là cách xác định tốt hơn, mạnh hơn, yên
tâm hơn, chứ không phải luôn luôn như vậy. Ví dụ, có người lúc chết chưa được
vãng sanh, nhờ hộ niệm mà mấy ngày sau mới được vãng sanh thì làm sao còn hơi
nóng? Cuộc vãng sanh của Sư Cô Thích Pháp Giác ở tỉnh Sơn Tây Trung Quốc là một
ví dụ cụ thể.
Cho nên, yếu tố vãng sanh vẫn phải căn cứ theo ba tư lương là TÍN-NGUYỆN-HẠNH.
Người có lòng tin, tha thiết cầu vãng sanh, quyết lòng niệm Phật, trước khi
chết được người hộ niệm khuyên nhắc cẩn thận, bảo vệ an toàn, không bị con cháu
trong nhà ngăn cản, phá hoại, khi ra đi được thoại tướng tốt đẹp cũng có thể
xác định được vãng sanh. Nếu có thêm thoại tướng ấm ở đỉnh đầu thì thêm yếu tố
chắc chắn, giúp cho mọi người an tâm hơn, thế thôi.
Nói chung, càng có nhiều thoại tướng tốt, càng vững tâm. Càng nhiều sự cản phá
càng khó khăn cho người ra đi. Người Hộ Niệm chúng ta cứ thành tâm cứu độ chúng
sanh, cố gắng giảm thiểu mọi rủi ro cho họ, mong cho người ra đi được hoàn mãn,
là được. Còn mọi chuyện đều tùy duyên.
Hỏi số 20:
Người được Hộ Niệm là một em bé hơn 10 tuổi bị bệnh ung thư chờ chết. Em chịu niệm Phật và phát nguyện vãng sanh nhưng lại đòi mua đồ chơi, theo anh trường hợp này nên xử lý như thế nào?
Trả lời:
Hộ niệm cho một người, luôn luôn tìm
cách thỏa mãn những yêu cầu của họ. Một đứa bé 10 tuổi thích đồ chơi là chuyện
bình thường, trước lúc chết các em còn thích được chìu chuộng, thích người chăm
lo, thích người thương yêu bảo vệ... tất cả đều là chuyện bình thường. Người
lớn mà đôi khi còn thích như vậy, huống chi là trẻ em.
Cho nên, hãy mua đồ chơi cho nó và nói rằng về Tây Phương muốn có đồ chơi gì
thì có liền, không cần đi tìm mua như ở đây. Thần thông đạo lực ở Tây Phương vi
diệu, bay lượn khắp không trung, muốn ăn có ăn, muốn mặc có mặc, muốn cái nhà
bay lên không thì cái nhà bay lên không... muốn cái gì được cái đó. Còn ở đây,
mấy thứ đồ chơi này họ làm để chơi tạm vài bữa thì hư, đâu có gì là hay... Lợi
dụng sở thích của em mà khuyến tấn thêm, chứ không phải ngăn các em nhé. Đây
không phải là chấp trước, mà lợi dụng sở thích để hướng dẫn, khuyến khích.
Một em bé mà biết niệm Phật, biết cầu vãng sanh thật sự là tốt lắm rồi. Hãy tận
dụng tâm lý để thuyết phục và uyển chuyển khuyên nhắc mới thành công được.
Hỏi: Khi Hộ Niệm người khai thị có cần thiết ngồi khai thị liên tục (ngồi gần
nói nhỏ và các thành viên vẫn niệm Phật) hay chỉ khai thị như anh hướng dẫn
trong các đĩa Hộ Niệm cho cô Kim Phượng, Cụ Hồ Thị Lan v.v..?
Trả lời: Câu hỏi này hay lắm!
Nhiều Ban Hộ Niệm, Diệu Âm thấy người khai thị nói liên tục bên tai người bệnh.
Đây là điều không tốt, dễ làm người bệnh loạn tâm, tức bực, hoặc khó chịu. Có
nhiều khi vì mình nói hoài, bắt họ phải chú tâm nghe hoài, làm họ bực mình, tự
ái, phiền não... mà không muốn mình Hộ Niệm nữa đó.
Khoảng 1 giờ hoặc 30 phút nhắc nhở một lần là đủ rồi. Nếu người có tín tâm
vững, có phát nguyện tha thiết, thường ngày biết niệm Phật tu hành nhiều v.v..
thì nhiều khi khỏi cần khai thị nữa. Xin mọi người hãy nhiếp tâm niệm Phật để
người bệnh cũng nhiếp tâm niệm theo thì tốt hơn.
Cụ Hồ Thị Lan, khi Diệu Âm tới thì cụ đã bị mê man nằm im thiêm thiếp. Hỏi gia
đình thì biết Cụ không niệm Phật tốt mấy, con cháu trong nhà chưa vững lắm về
pháp Phật... chính vì vậy mà Diệu Âm khuyên giải khá nhiều trong những ca Diệu
Âm đến HN, nhưng ít ra cũng 30 phút mới nói một lời ngắn. Coi trong video thấy
khai thị nhiều là do hộ niệm nhiều lần, và người quay phim quay nhập lại, không
có chia ra mà thôi.
Sau khi cụ tắt hơi, thấy thoại tướng không được tốt, nên trong 4 giờ đầu Diệu
Âm nói thêm. Khi thấy tướng đã chuyển đổi thì Diệu Âm an lòng ra về... Trước
khi ra về có dặn mấy đồng tu tiếp tục niệm Phật là đủ, không cần nói thêm gì
nữa.
Riêng Cô KIM PHƯỢNG, như mọi người đều biết, cô bị chướng nạn rất nặng nên Diệu
Âm phải cố gắng hết sức để điều giải oan gia trái chủ, (chắc Văn Tập đã biết
chứ?). Hòa giải xong việc oan gia nhập thân thì cô mới ra đi được. Khi cô ra đi
rồi, trong vòng 2 giờ đầu, vẫn cần sự hướng dẫn để ngừa các chướng nạn vẫn đeo
theo cô. Đây là điều tốt. Đến khi thấy rõ sự chuyển tướng khá rõ rệt, đây là
điều cảm ứng tốt, nên Diệu Âm an tâm ra về.
- Có nhiều cuộc hộ niệm, người khai thị nói nhanh quá, nói cứng quá, nói cao
ngạo quá, hoặc sơ ý không giữ sự thành kính với Tam Bảo, hoặc nói quá cứng khi
hóa giải oan gia trái chủ... đây cũng là điều không tốt lắm, cần nên chú ý sửa
chữa lại.
- Có nhiều khi người Hộ Niệm nhắc nhở mà có tính cách bắt buộc người bệnh phải
niệm theo, cứ lắc đầu người bệnh, bắt họ phải mở miệng niệm theo, ép buộc họ
phải mở mắt ra nhìn tượng Phật... đây cũng là điều không nên. Nếu thấy người
bệnh cứ ngủ hoài, thì lâu lâu cũng nên nhắc nhở họ cố gắng vùng lên kiên cường
niệm Phật, vui vẻ khích tấn là điều tốt. Tuy nhiên, nhiều khi người bệnh quá
mệt mỏi thì cũng phải cho họ nghỉ một chút, hoặc khuyên họ thầm niệm theo. Chú
ý giúp họ giữ vững ý nguyện niệm Phật, chứ không thể bắt buộc họ được.
- Nhiều người hướng dẫn người bệnh mà cứ hỏi nhiều quá, bắt bệnh nhân phải trả
lời liên tục, cũng không tốt! Hãy nên nói ngắn, vui vẻ một vài phút là đủ, rồi
niệm Phật là được. Hỏi người bệnh nhiều quá làm họ dễ loạn tâm.
- Khi hướng dẫn, khai thị, không nên mở ra những vấn đề lạ, hoặc hỏi những câu
hỏi làm cho bệnh nhân khó trả lời. Nếu lỡ mở ra một câu hỏi nào, người bệnh
chưa kịp trả lời hoặc suy nghĩ, thì chính người khai thị phải nhanh chóng trả
lời giùm cho người bệnh liền, đừng để họ suy nghĩ hoặc phiền não. Ví dụ: mình
lỡ hỏi:
Cụ muốn nằm đây hay muốn về Tây Phương? Gặp người vui vẻ thì họ trả lời được,
có người họ cảm thấy khó chịu vì họ nghĩ rằng mình khinh thường họ. Thấy vậy,
đã lỡ hỏi, thì phải nhanh chóng tự giải quyết liền:
Ở đây khổ quá Cụ à, đau đớn, nhức mỏi, hãy mau về Tây phương với A-Di-Đà
Phật hưởng tận sự sung sướng, thành Bồ-tát, thành Phật nghen, v.v.. và v.v.
.
- Tập nói cho thật tự nhiên, cũng đừng quá vội, quá nhanh, cũng đừng quá nhựa
nhựa, quá chậm. Nói tự nhiên và không làm quá vẻ nghiêm trang, căng thẳng. Hãy
vui vẻ, tự nhiên, thản nhiên, đầy đủ sự khuyến tấn, khích lệ... Những khả năng
này sẽ phát triển dần theo kinh nghiệm. Thông thường những lần hộ niệm đầu nói
hay bị vấp víu, nhưng không sao đâu, từ từ sẽ tốt dần...
A-Di-Đà Phật
Hỏi số 22:
Minh Châu gửi lời vấn an sức khỏe cư sĩ Diệu Âm , Minh Châu
hắc mắc là khi những người đã được vãng sanh thì mình chỉ cần tưởng nhớ tới
người thân mình nên mình cầu siêu và phóng sanh cho thân nhân trong vòng 49
hoặc 100 ngày, rồi sau đó mình có cần thiết phải cầu siêu cho họ nữa không? Và
có cần lập bàn thờ để làm giỗ cho thân nhân mỗi năm kg? Vì người được vãng sanh
đã theo Tù Phụ A Di đà rồi. Xin cư sĩ giải thích cho mc được hiểu thêm. Cảm ơn
cư sĩ nhiều.
Triệu Kim Ngọc (Minh Châu)
Trả lời:
Chúng ta, người Phật tử thường tới
chùa dâng hương, hoa quả cúng Phật. Phật đâu dùng những thứ đó. Vậy mà mình vẫn
cúng. Mình thành tâm lễ Phật, lạy Phật, niệm Phật... Phật đâu cần những chuyện
này. Nhưng ta vẫn làm.
Cầu siêu 49 ngày, 100 ngày, phóng sanh, làm các việc lành hồi hướng cho người
ra đi, đây là sự tự nguyện của người còn sống. Việc làm này thể hiện lòng hiếu
nghĩa của con cháu đối với ông bà cha mẹ đã ra đi, thể hiện tâm thương kính
trước sau như một.
Con cháu có nghĩa, có hiếu thì nên thành tâm làm. Nếu quên tình quên nghĩa thì
bỏ. Tất cả đều do tâm của con cháu có thành kính hay không.
Nếu người thân bị chết, (nghĩa là không được vãng sanh Cực-lạc), chắc chắn họ
bị kẹt trong sáu nẻo luân hồi. Tệ hơn nữa, hầu hết bị lạc trong ba đường đọa
lạc. Con cháu hãy thương tưởng người thân mà thành tâm cầu siêu cho họ. Đây là
điều phải làm, rất cần. Hãy chí thành chí kính mà làm đi, đừng nên hỏi đi hỏi
lại rằng có linh không? Có thiêng không? Có ích gì không?... Dù kết quả có được
viên mãn hay không thì chúng ta cũng không nên bỏ qua. Vì đây là tâm hiếu kính.
Nếu người thân được vãng sanh, thì ta cũng vì tâm hiếu kính mà làm cho trọn
phận làm con cháu, đừng nên ngại ngùng. Tất cả những nghi tiết về tụng kinh
niệm Phật để cầu siêu, Các việc thiện lành, phóng sanh, v.v... chúng ta cũng
nên làm và cố gắng làm với lòng chí thành chí kính để hồi hướng công đức cho
họ.
Sau đó, nhân ngày giỗ kỵ ta vẫn nên tổ chức niệm Phật, tụng kinh, trai chay
thanh tịnh để hồi hướng công đức và tưởng niệm người đã vãng sanh. Việc làm này
rất tốt, rất có lợi.
Tại sao vậy?
- Một là vì lòng kính thương, hiếu nghĩa. "Hiếu dưỡng phụ mẫu" là
điều đầu tiên Phật dạy. "Hiếu" thuộc về xuất thế gian,
"Dưỡng" thuộc về thế gian pháp. Phải chu tất khi người còn sống cũng
như lúc khuất bóng.
- Hai là nhờ vậy mà họ được dự phần cao phẩm hơn.
- Ba là hồi hướng cho một vị ở cõi Cực lạc công đức sẽ lớn vô cùng, nhờ công đức
này mà sau này duyên phận giữa ta với họ càng sâu càng nặng, họ không thể không
cứu ta, (tính kỹ mà!),
- Bốn là, nói vãng sanh là xét về sự tướng mà nói, chứ chính chúng ta chưa
chứng đắc, chưa có đủ đạo nhãn, thì làm sao dám bảo đảm 100%...
Vậy thì phận làm con cháu phải cẩn thận tối đa, phải thận trọng hành theo đúng
pháp mới an tâm, mới tránh được những sơ suất, khỏi bị ân hận về sau.
Thực tế, những việc làm này cho người quá cố thì ít mà cho chính ta thì nhiều,
chính ta đều hưởng hầu hết công đức, còn người đã ra đi chỉ hưởng một phần
thôi. Nếu tâm có thành cho mấy đi nữa, dù muốn đem công đức hồi hướng hết đi
nữa thì người được hồi hướng chỉ có thể nhận được 1/7 là cùng, còn tất cả chính
ta hưởng hết.
Nếu người được vãng sanh Cực lạc, họ đã thành Bồ-tát, thành Thanh Tịnh đại hải
chúng rồi. Tình thực mà nói, các Ngài đâu cần chút công đức của ta. Ta có cúng
giỗ, tưởng niệm, cầu siêu, lập bàn thờ cho họ hay không, không phải là điều
quan trọng đối với họ, mà chính là rất quan trọng đối với chúng ta.
Chính chúng ta rất cần công đức của họ, muốn được quả báo như họ. Muốn đuợc
vậy, thì ta phải có lòng chí thành cúng dường công đức lên cho họ.
Tại sao vậy? Thành tất linh. Lòng chân thành của chúng ta sẽ cảm ứng được sự
gia trì của các Ngài. Ta không có lòng thành, các Ngài gia trì không được. Đây
là sự thật.
Tất cả đều do chính tâm của chúng ta tạo nên. Tâm chúng ta có "CẢM"
thì các Ngài có "ỨNG". Tâm chúng ta không "Cảm" thì các
Ngài không "Ứng" được. Tâm Phật tịch tịnh, chỉ độ được người hữu duyên,
không bao giờ phan duyên. Vì vậy, sự cảm ứng đạo giao phải do chính tâm của
chúng ta khởi trước. Đây là ý nghĩa: "Nhất thiết duy tâm tạo" vậy.
Chân thành cúng dường, tức là CẢM. Công đức cúng dường sẽ được hồi đáp lại cho
chúng ta, tức là ỨNG.
Ta cúng dường lên các Ngài bằng công đức của một người phàm phu, các Ngài hồi
đáp lại cho chúng ta bằng công đức của một vị Bồ tát. Công đức của Bồ tát sẽ
lớn vô lượng vô biên. Nhờ sự hồi đáp này mà ta hưởng biết bao nhiêu phước lợi,
nhờ công đức này mà ta hóa giải được vô lượng tội chướng. Rõ ràng, vô tình,
chúng ta đang làm một cuộc trao đổi: "Một vốn - Tỷ lời". Thế gian
chưa có món lợi nào sánh bằng.
Trong kinh Phật nói, thành tâm niệm một câu A-Di-Đà Phật phá tan 80 ức kiếp
nghiệp chướng sanh tử trọng tội. Chúng ta quỳ trước bàn thờ Phật, thành tâm
cúng dường lên các Ngài một câu Phật hiệu, thì các Ngài liền hồi đáp cho chúng
ta một cái ân đức bằng sự hóa giải ách nạn đến 80 ức kiếp nghiệp tội sâu nặng.
Tội giảm thì phước tăng. Nhờ phước này chúng ta mới vượt qua được ách nạn mà
vãng sanh Tây-phương, chứ tự hỏi thử, thân phận một người phàm phu tội trọng
như chúng ta làm sao có khả năng vượt thoát sanh tử luân hồi đây?
Lòng thành cúng dường một chúng sanh phước đức đã lớn. Cúng dường một vị
A-La-Hán Bích-Chi Phật phước báu sẽ lớn hơn, hưởng cả trăm kiếp không hết. Cúng
dường một vị Bồ-tát công đức sẽ vô lượng. Cúng dường một vị Phật thì công đức
này trở thành vô lượng, vô biên, bất khả thuyết, bất khả tư nghì.
Nói như vậy, không có nghĩa chúng ta vì tham công đức của họ mà mình cúng
dường, mà chính tâm thành kính tự nó có công đức. Người tham lam không bao giờ
đạt đến tâm thành kính đâu. Các Ngài biết hết. khỏi lo bị lỗ, bị hớ.
Vậy thì, khi người thân khuất bóng, dù được vãng sanh hay không thì chúng ta
cũng nên nhân ngày giỗ kỵ mà thiết lễ tụng kinh, niệm Phật, làm việc thiện lành
để hồi hướng công đức cho họ.
Đối với người chưa được siêu sanh thì nhờ đó mà được giảm tội tăng phước, giúp
họ có cơ duyên siêu sanh. Đối với người đã được siêu sanh, thì chính lòng thành
của chúng ta sẽ được hồi đáp bằng những công đức lớn vô lượng. Nhất định có
lợi, lợi người, lợi ta, không có gì phải ngại ngùng.
Nhân ngày giỗ kỵ tụng kinh niệm Phật hồi hướng cầu siêu đã tốt, còn hằng ngày
đều niệm Phật, tụng kinh, làm việc thiện lành, thường phóng sanh lợi vật, ngày
ngày hồi hướng công đức cho cửu huyền thất tổ, tứ thân phụ mẫu, bà con quyến
thuộc, cho tất cả oán thân trong nhiều đời nhiều kiếp, cầu nguyện cho họ sớm
được Phật lực gia trì liễu thoát sanh tử thì lại càng tốt hơn nữa. Vừa trả tròn
tứ ân, vừa cứu khổ tam đồ, vừa giải được oán thù từ oán thân trái chủ.
Hãy đem lòng chí thành cầu nguyện cho tất cả đều được vãng sanh Cực-lạc quốc.
Hỏi số 23:
Người Việt Nam của ta có phong tục là khi đến ngày chết của
thân quyến và tổ tiên thì làm giỗ để tưởng niệm, nhưng họ lại tổ chức ăn uống,
nhậu nhẹt, có khi lại sát sanh nữa, cúng toàn đồ mặn cho người đã chết, lúc
người chết còn sinh tiền thích ăn gì là họ lại làm những món đó để cúng, theo
Chú thì họ làm như vậy có ích lợi gì chăng ? Người đã chết có hưởng được không
? có phải vô tình đã gây thêm tội nghiệp cho người đã chết, mà có khi người
chết đã đi đầu thai trong lục đạo rồi mà cúng giổ có còn liên quan gì đến họ
nữa không Chú (Vì họ đã đi đầu thai rồi mà)?
Gia đình Cháu cũng không ngoại lệ, đó là thói quen lâu đời, vài ngày nữa là đến
đám giỗ bà Nội của Cháu, lúc còn sinh tiền bà Nội ăn chay trường và cũng tu
hành, bà Nội Cháu mất khoảng 3 năm rồi, ba mẹ cháu định cúng đám giỗ : cúng cho
bà nội cháu thì cúng đồ chay, còn làm đồ mặn cho con cháu ăn và có mời vài
người lại nhậu nữa ! theo Chú thì sao ? Ba mẹ Cháu làm như vậy có đúng không
?Có ảnh hưởng gì đến vong linh bà Nội Cháu không?
Nhờ Chú cho cháu lời khuyên, để không làm ảnh hưởng đến người đã chết.
Theo Chú ngày giỗ nên làm gì để vừa có lợi ích cho người chết và người đang
sống ? Mong Chú vì mọi người và cũng như người thân của Cháu mà giải bày chi
tiết để mọi người thấu hiểu !
A DI ĐÀ PHẬT...
Thành thật cảm ơn Chú nhiều !!!
Trả lời:
Thế gian thì việc này là chuyện thường. Nhưng người hiểu
Phật pháp thì nên cẩn thận làm đúng theo pháp mới tốt.
Trong Khuyên Người Niệm Phật (tập 1) cò bàn về vấn đề cúng giỗ. Xin xem qua để
biết thêm.
Việc cúng giỗ có ảnh hưởng khá lớn đến vong linh người chết. Nếu lợi dụng ngày
giỗ kỵ của người quá cố mà làm tiệc linh đình, giết hại sanh vật để thết đãi sẽ
tạo thêm tội cho vong linh.
Trong tội sát sanh, kinh Phật có nói, tự mình giết, vì mình mà con vật bị chết,
thấy người ta giết mà mình vui mừng, đều có liên quan đến tội này. Chọn những
ngày giỗ kỵ mà sát sanh hại vật thì vong linh ấy cũng liên can chịu tội.
Nếu người chết còn bị kẹt vào chỗ nào đó chưa được đầu thai, thì mỗi lần con
cháu giết hại sanh vật để cúng tế, thì họ bị thêm tội. Vì nghiệp mà đang chịu
trả nghiệp, nay bị con cháu gởi thêm nghiệp nữa, nghiệp sau chồng nghiệp trước,
biết chừng nào trả cho xong. Thật tội nghiệp cho họ!
Người chết lúc sanh tiền thích sát sanh hại vật để ăn. Đây là vì tham ăn mà tạo
nghiệp ác. Chính vì tội sát sanh hại vật mà họ đang chịu nạn. Khi bị nạn rồi,
họ đã biết nguyên nhân tại sao, họ rất ân hận. Nhưng đã quá muộn màng! Họ đang
rất tha thiết và âm thầm cầu xin con cháu thương họ mà tìm phương giải nạn cho
họ. Nếu con cháu biết được đạo lý này thì nên làm lành làm thiện, những ngày
cúng giỗ đều tổ chức niệm Phật tụng kinh, phóng sanh lợi vật để hồi hướng công
đức. Ơn nghĩa này đối với họ lớn lao và quý hóa biết chừng nào!
Nếu họ đã đầu thai rồi, mà con cháu vẫn cứ giết hại chúng sanh để hồi hướng cho
họ thì họ vẫn bị ảnh hưởng chứ làm sao tránh khỏi.
Ví dụ, như một người chết đầu thai làm chó chẳng hạn. Đây là vì ngu muội mà
sanh vào loài súc sanh.
Con chó vì thương con cháu trong gia đình nên sẽ trở lại trong nhà để phục vụ
cho con cháu. Nếu người thân nhân biết làm thiện làm lành hồi hướng cho người
đó, cầu cho họ dù đang ở trong cảnh giới nào, cũng nương theo công đức này, sớm
tỉnh ngộ tu hành, niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ. Nhờ lòng thành mà được cảm ứng,
thì con chó đó có thể được hoá kiếp, hay siêu thoát.
Chứ con cháu không chịu làm thiện lành, mà còn sát hại sanh vật đem cúng cho
tấm hình đời trước của nó, rồi liệng xương cho nó ăn nữa. Trớ trêu không? Thậm
chí, nhân ngày giỗ của chính nó trong đời trước, con cái lại bắt con chó đó làm
thịt để nhậu nhẹt. Hãy nghĩ thử, oán nạn này sẽ dẫn tới đâu? Thân nhân đã biến
thành oan gia trái chủ, tình thương đã biến thành hận thù, hận thù đời đời kiếp
kiếp biết bao giờ mới giải tỏa đây?!...
Vấn đề giỗ chay, đãi mặn thì chẳng khác gì. Vì thật sự, tiếng là giổ chay, chứ
vài đĩa xào để trên bàn thờ, so với tràn ngập thịt cá trong bàn tiệc, thì mấy
món xào trên bàn thờ chỉ là hình thức giả tạm, làm sao che lấp được rượu thịt ê
hề, say sưa túy lúy? Hình thức trống rổng, tâm ý giả tạo, có cảm thông được gì!
Bắt người ta cắt cổ mổ ruột để nhậu trong ngày giỗ mà gọi là giỗ chay. Thật là
trớ trêu, ngang ngạnh!
Càng giả tạo càng làm cho các oan hồn của những chúng sanh bị giết hại càng
thêm hung hãn, càng thêm căm thù. Thù chất thêm thù. Oán thù càng ngày càng
khốc liệt!
Trong KNNP, Diệu Âm cho đây là hành động trả hiếu quá kỳ quái của người thế
gian!
Ông bà đã vụng tu bị quả báo quá đau khổ, vì sát sanh hại vật nên họ chịu đủ
mọi cực hình đau khổ trong tam đồ ác đạo để trả nghiệp, con cháu không tìm cách
gỡ nạn cho ông bà, mà cứ chờ đến những ngày giỗ kỵ đem máu thịt nhét vào mồm
của ông bà để ông bà bị kết thêm tội sát sanh mới. Làm như vậy có khác gì, ông
bà bị nạn, đang tìm cách ngoi lên thoát nạn, vừa mới ngóc lên một chút thì bị
con cháu nện lên đầu một đạp cho chìm xuống lại trong cảnh đọa lạc. Trả hiếu gì
mà kỳ vậy!?...
Vậy thì, người biết tu hành, thì những ngày giỗ kỵ ông bà nên làm trai chay
thanh tịnh mới tốt. Tụng kinh niệm Phật hồi hướng công đức cho vong linh, cầu
xin vong linh sớm siêu sanh Tịnh độ. Nên giảm chế các hình thức ăn nhậu say
sưa, tuyệt đối đừng sát hại sanh vật. Đừng nên lợi dụng ngày chết của ông bà,
cha mẹ, mà giết hại sanh vật làm đám tiệc linh đình để trả ơn nghĩa thế gian.
Nếu sơ ý, vừa tội nghiệp cho ông bà, vừa kết thêm nghiệp chướng cho chính mình.
Nhân quả này không dễ gì trả được đâu.
Nhân ngày giỗ kỵ này, con cháu nên ăn chay, phóng sanh, làm các việc thiện lành
để hồi hướng công đức, cầu cho vong linh được tiêu nghiệp tăng phước. Chỉ cần
nhang đèn, hoa quả với vài món tinh khiết để tỏ lòng thành kính. Nếu nhà nghèo
quá, thì chén nước lạnh tinh khiết với hoa quả, một nén hương là đủ để thiết lễ
tưởng niệm rồi. Cần chi đến hình thức linh đình mà bị khó khăn.
Mời đồng tu đến tụng kinh, niệm Phật, hồi hướng công đức là tốt nhất, tiện
nhất, đúng pháp nhất. Nên thành tâm khai thị, khẩn cầu vong linh sớm hồi đầu
quy y Tam bảo, niệm Phật cầu sanh Cực lạc thì càng hay, càng chánh pháp.
Ngày giỗ kỵ mà làm được các điều thiện lành này thì được nhiều chư thiện thần
ủng hộ, gia trì. Nếu cứ sát sanh hại vật, làm việc sai với đạo pháp thì các vị
thiện thần sẽ lánh xa, đây là điều không tốt cho gia đình trong tương lai vậy.
Diệu Âm
Hỏi số 24:
Em pháp danh là Nguyên Quảng. Em có một câu hỏi là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy rằng: "Nhân Duyên Quả báo tơ hào chẳng sai...". Vậy nếu mình đã tạo tội rồi, mình phải lãnh chịu quả ấy, nhưng em không hiểu là niệm một câu Phật hiệu tiêu trừ 80 ức kiếp sinh tử trọng tội. Xin anh Diệu Âm hoan hỷ giải thích cho em biết, em rất cám ơn công đức của anh.
Trả lời:
Phật dạy: Nhân-Duyên-Quả Báo
tơ hào không sai. Phật dạy thì chắc chắn không thể sai được, chỉ có con
người giải sai nghĩa kinh Phật đó thôi!
"... nếu mình đã tạo tội rồi... mình phải lãnh chịu quả ấy...
"
. Nếu ai muốn PHẢI lãnh chịu quả ấy, thì cứ chờ mà lãnh, chắc chắn không
trước thì sau cũng phải nhận thôi. Còn như muốn tránh thoát cái quả báo tệ hại,
cũng có cách vậy.
Nghĩa là, người nào muốn bị quả báo thì cứ tạo cái DUYÊN cho thật xấu đi
thì hưởng ngay quả xấu! Duyên nào sẽ hợp với NHÂN đó mà sanh ra QUẢ
tương xứng, đó gọi là "Nhân Duyên Quả báo tơ hào không sai".
Ví dụ, có hạt cỏ dại là Nhân, đem gieo xuống đất là Duyên, sẽ mọc
lên cây cỏ dại là Quả.
Có hạt cỏ dại (Nhân), không chịu gieo xuống đất (không gặp Duyên), hạt cỏ dại
chưa thể nẩy mầm được (chưa có Quả).
Hay hơn nữa, đem cái Nhân ấy (hạt cỏ dại), liệng vào bếp lửa (
cắt đứt cái
Duyên), thì cái Nhân cũng tiêu luôn, không thể thành Quả?
Nên nhớ kỹ, Nhân cần phải có Duyên, mới sanh ra Quả.
Vì vậy, Quả Báo có Hiện Báo, Sanh Báo, Hậu Báo.
Hiện Báo (hay còn gọi là Hoa Báo) là tạo nhân đời này, hưởng luôn quả báo trong
đời này.
Sinh Báo là đời này tạo nghiệp, đời sau, hai hoặc ba đời sau mới bắt đầu hưởng.
Hậu Báo là đời này tạo nghiệp, sau bốn đời, hoặc trăm đời, hoặc ngàn đời, hoặc
vô lượng đời kiếp sau mới hưởng.
Tất cả đều tùy theo cái Duyên của người đó.
Chính nhờ cái "DUYÊN" này mới có cơ hội cho chúng sanh tu hành thoát
nạn.
Người làm thiện lành, nếu muốn hưởng liền quả báo cũng dễ dàng thôi.
Ví dụ, muốn hưởng liền thì khi làm một chút điều gì tốt thì hãy trương cờ gióng
trống lên, quảng cáo rộng rãi ra, đi khắp nơi để thông báo... thì tiếng khen sẽ
đến tức thì. Báo chí, TV, phim ảnh... sẽ ào tới phỏng vấn, chụp hình. Hình ảnh
sẽ đi khắp nơi. Đây chính là Hiện Báo hay Hoa Báo của họ đó.
Tâm chấp vào việc thiện thì quả báo của họ chính là cái Danh. Đem tất cả phước
lành đổi lấy cái danh vậy.
Người làm thiện mà không dám đổi cái thiện đó để lấy cái Danh, thì họ âm thầm
làm thiện nhưng không dám khoe ra. Âm thầm làm, nghĩa là họ muốn cắt cái Duyên
để cái Nhân lành khỏi trở thành Quả báo hiện tiền, họ muốn hưởng cái quả ở chỗ
khác, dịp khác.
Ví dụ, người niệm Phật chân chính, họ không muốn hưởng quả báo ở đây, họ gởi
(hồi hướng) về Tây-phương Cực-lạc để cầu mong cuối đời họ được vãng sanh. Đây
là cắt cái Duyên Ta-bà, tạo cái Duyên Cực-lạc để hưởng quả báo cực-lạc.
Người làm ác thì chắc chắn đã có Nhân ác. Cái Nhân ác đang chờ từng phút từng
giây đến cái Duyên để nó hiện hành thành Quả báo ác. Nếu sơ ý tạo cái Duyên ác
(tức là tạo cơ hội thích hợp với nhân ác đó), thì cái Nhân ác đó sẽ cho ra cái
Quả ác ngay lập tức!
Người biết mình lầm lỗi, sợ quá, không dám làm nữa, ăn năng sám hối. Ngày ngày
niệm Phật. Niệm Phật chân thành là đang tạo duyên Tịnh-độ. Cái nhân ác không đủ
duyên, nó sẽ nằm ngủ mê man, vạn kiếp sau mới tính chuyện. Trong thời gian đó
người niệm Phật đã thừa hưởng cái nhân Tịnh-độ, họ về Cực-lạc rồi.
Về Cực-lạc thì vô lượng thọ, không còn tử sanh, thần thông diệu dụng, họ chủ
động đi cứu chúng sanh, cứu độ oan gia trái chủ, cứu ông bà cha mẹ, cứu bà con
quyến thuộc nhiều đời nhiều kiếp... Đây là cách trả nghiệp, đền nợ nhân quả của
họ đó.
Chứ họ không muốn chui đầu xuống địa ngục để chịu hành hạ vô lượng kiếp để trả
cho hết nghiệp! Họ không dại gì đi chọn cách trả nghiệp này. Đau khổ quá!...
Có người nói, Ngài Điạ-Tạng Bồ-tát phát tâm xuống địa ngục để cứu chúng sanh
khổ nạn. Mình phải có tâm đại từ đại bi như Ngài mới được. Nghĩa là, nên học
theo Ngài, cũng nguyện xin xuống địa ngục để hành đạo Bồ-tát. Trong kinh nói,
"Địa ngục thệ tiên nhập", thì mình cũng phát đại thệ xin đi địa ngục
trước...
Phát nguyện vậy là sự tự nguyện của cá nhân, không ai cấm cản. Nhưng xin nhớ
cho, ngài Địa-Tạng Bồ-tát là Cổ Phật thị hiện, Ngài xuống địa ngục để cứu chúng
sanh. Còn chúng sanh ngu muội đi xuống địa ngục để bị hành hình khổ đau vạn
kiếp, phải tự chịu lấy. Hai việc khác nhau. Vô lượng vô biên chúng sanh mê muội
cứ dắt nhau xuống địa ngục làm ngài Địa-Tạng cũng đành lắc đầu!
Phàm phu phải lo liệu theo cách của phàm phu. Nghĩa là, phải làm theo lời Phật
dạy, chứ không phải làm như sự thị hiện của Phật. Ta chưa phải là Bồ-tát thì
đừng học đòi theo hành động của quý Ngài.
Mong sao, người học đạo cần biết sớm giác ngộ.
Nhân-Duyên-Quả tất cả đều ở trong tâm. Buồn là duyên cho nhân buồn đến, cho ta
quả buồn. Khổ là duyên cho các nhân khổ đến, ban cho ta những cái gì khổ sở.
Giận là duyên của địa ngục, bao nhiêu công đức tiêu hết, v.v...
Vậy thì, người tạo các nhân vui tươi, thiện lành, an nhàn, thanh tịnh... thì sẽ
dễ hợp với các nhân tốt và dễ hưởng quả tốt trong đời.
Hãy tạo nhân niệm Phật thì tâm ta sẽ trở về với Phật. Hãy nguyện vãng sanh
Tây-phương đi để đời này nhanh chóng hưởng quả vãng sanh Tây-phương. Về tới
Tây-phương rồi thì nhờ A-Di-Đà Phật gia trì mà chúng ta vĩnh viễn hưởng tận mọi
sự an lành cực lạc của cảnh giới bất thối Bồ-tát, một đời thành Phật.
Vậy thì, nguyện "Đới nghiệp vãng sanh", để thành bậc "Bất thối
chuyển", chắc chắn hay hơn nguyện trả nghiệp, để được "nghiệp sạch
tình không" mới tính chuyện thành đạo. Nghĩa là, nguyện vãng sanh
Tây-phương để sớm thành Phật cứu độ vô biên chúng sanh, hay hơn là nguyện xuống
làm kẻ bị nạn dưới địa ngục để chịu hành hình vạn kiếp.
Nguyện thành Phật, thì tâm niệm Phật, tâm niệm Phật thì tâm duyên với Phật, tâm
duyên với Phật thì cảm ứng đến chư Phật mười phương gia trì, cuối cùng sẽ được
A-Di-Đà Phật cùng chư Thánh chúng đến tiếp dẫn về Tây-phương, một đời thành đạo
Vô-Thượng.
Cái Nhân-Duyên này là Nhân-Duyên thành Phật, chứ không phải là thứ Nhân-Duyên
sơ sài để hưởng chút phước của cõi đời vô thường này đâu.
Nguyện trả nghiệp thì tâm đang duyên với nghiệp. Trùng trùng nghiệp chướng sẽ
ập tới bủa vây. Nhất định phải theo nghiệp mà thọ báo trong các cảnh giới tối
tăm đau khổ! Cái Nhân-Duyên này là duyên đọa lạc, sẽ chịu đọa lạc khổ đau trong
vô lượng kiếp chứ không phải vài chục năm như trên trần thế này đâu!
Chính vì vậy, đừng nên sơ ý. Nếu một phàm phu tội chướng sâu nặng, mà nguyện
trả cho hết nghiệp, thì chỉ có cách phải xuống địa ngục mới có thể trả hết
nghiệp! Vì chỉ có điạ ngục chính là nơi có đầy đủ tất cả duyên cho tất cả
nghiệp ác hiện hành. Tất cả nghiệp ác hiện hành thì ta sẽ tuần tự trả hết tất
cả nghiệp ác, trả từ nghiệp này đến nghiệp nọ, không sót một nghiệp nào cả. Đó
gọi là "Nhân-Duyên-Quả báo tơ hào không sai" vậy.
Tuy nhiên, còn có một vấn đề khác nữa là người trả nghiệp không được ân hận...
Nếu ân hận mà sanh ra căm thù, khổ đau, trách móc, chửi bới, sân nộ, v.v... thì
trong lúc trả nghiệp lại tạo thêm nhiều nghiệp khác. Nghiệp cũ chưa trả xong,
nghiệp mới lại sanh ra, thì đời đời kiếp kiếp không thoát được địa ngục đâu!
Thành ra, xin chư vị cố gắng tìm hiểu cho thấu đáo vấn đề Nhân-Quả, không nên
sơ ý! Nên nhớ, giữa Nhân và Quả nó có chữ Duyên. Đừng quên chữ Duyên này mà
giải sai lời Phật dạy.
Một người lâu nay làm điều sai lầm là vì lúc mê muội xuôi khiến họ làm sai. Đó
là vọng tâm chứ không phải chơn tâm. Vọng là giả, giả thì không thực. Không
thực thì tự nó vốn không, vốn là không thì chỉ cần bỏ đi, xa lìa đi, thì không
sẽ trở về không vậy.
Ví dụ, bóng tối bao trùm căn phòng nhiều năm, tối tăm âm u.. Bóng tối này là
giả chứ không phải thực, chỉ cần thắp lên ngọn đuốc thì bóng tối tiêu mất,
không còn nữa.
Người cứ chạy theo những ý niệm lỗi lầm thì mãi mãi chìm trong bóng tối, chắc
chắn bị mờ mờ mịt mịt, sẽ sụp hầm sụp hố. Hãy bỏ bóng tối đi, thắp đuốc lên,
chắc chắn sẽ có cơ hội hưởng đầy cả ánh sáng. Niệm Phật được đới nghiệp vãng
sanh về Tây-phương giống như vậy đó.
Niệm Phật là niệm từ lòng chân thành thanh tịnh, chí thành, chí kính. Gọi là
chơn tâm niệm chứ không phải vọng tâm niệm... Chơn thì thực, thực thì sẽ thành.
Chơn tâm ví như ánh đuốc, tội ác ví như bóng tối. Ánh đuốc vừa thắp lên thì
bóng tối mất hết. Lúc đó, hỏi rằng bóng tối đâu rồi? Tìm không ra nữa, phải
không?!
Trong kinh Phật dạy, chúng sanh và Phật là một chứ không phải hai, chỉ khác
nhau ở chỗ Mê hay Ngộ mà thôi.
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh thì chúng sanh nào chẳng phải là Phật. Đã là
Phật thì ai về với Phật cũng được cả. Nhưng khổ nỗi, vì chúng sanh cứ mê hoài,
không chịu giác ngộ, thành ra vẫn là chúng sanh đời đời kiếp kiếp hứng chịu đủ
thứ khổ đau!
Giác ngộ có nhiều đường để giác ngộ. Những đường tự lực giác ngộ cần đến căn
tánh thượng thừa, dành cho chư đại Bồ-tát tu hành. Các pháp này, người căn tánh
trung hạ không thể thực hiện được.
Suy cho cùng, pháp niệm Phật là thích hợp nhất cho tất cả chúng sanh thời mạt
pháp này. Chúng ta sanh ra trong thời mạt pháp, nếu không nương dựa vào pháp
niệm Phật, thì chắc chắn khó tránh khỏi sự thất bại ê chề!
Phật dạy, "Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả, Niệm Phật thành
Phật". Lời này Phật nói cho chín pháp giới chúng sanh, chứ không riêng gì
cho sáu đạo luân hồi này đâu. Nghĩa là, cả bậc Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-tát
cũng phải niệm Phật để thành phật. Xin chớ sơ ý!
Phật dạy niệm Phật, là dạy chúng sanh hãy mau Niệm Phật để thành Phật đi. Chúng
sanh không chịu Niệm Phật lại cứ niệm địa ngục, niệm nghiệp chướng, niệm tham
sân si, v.v.. và v.v.. Rõ ràng, là một vị Phật đang bị nhốt trong lớp áo chúng
sanh này, lại cứ muốn rằng, hãy tiếp tục làm chúng sanh đi, để mãi mãi vẫn là
chúng sanh. Thật tội nghiệp!!!...
Đã biết chính mình có Phật tánh mà cứ lo làm chúng sanh, thành ra vị Phật này
phải sống trong lớp thân xác với nghiệp chướng nặng nề, tập khí sâu dày, thì
đành chịu đời đời kiếp làm chúng sanh vậy thôi, chứ biết làm sao hơn?!
Niệm Phật phải thành tâm mới có ích lợi. Niệm không thành tâm không có tác dụng
đâu.
Ví dụ, lấy việc đi hộ niệm cho người bệnh làm chứng minh. Người nào thành tâm
tin tưởng thì họ hộ niệm cứu được nhiều người vãng sanh. Người không có niềm
tin vững chắc thì kết quả ít cứu được người vãng sanh.
Xem những video vãng sanh thấy rõ ràng điều này. Nơi nào có nhiều người thành
tâm lạy Phật, ban hộ niệm thành tâm tha thiết niệm Phật, tha thiết khai thị
hướng dẫn, còn người trong gia đình thì thành tâm lạy Phật, cung kính khẩn
cầu... Kết quả, người bệnh ra đi với thoại tướng tốt đẹp, bất khả tư nghì!
Ngược lại, người hộ niệm có niềm tin yếu ớt, hồ nghi, tâm hồn chao đảo, ý tưởng
không vững, khai thị không chân thành, ưa phô diễn lý này lý nọ... thì công
việc hộ niệm của họ ít khi cứu được người vãng sanh. Ngược lại, thường gặp trở
ngại này, trở ngại nọ. Nghĩa là, việc thiện lợi đã giảm thiểu trước mắt!
Tại sao vậy? Vì dùng vọng tâm niệm Phật. Người không tin tưởng thì dù có niệm
Phật cũng chẳng qua là thứ hình thức bên ngoài, khó được cảm ứng.
Tâm chân thành cảm ứng sự chân thành. Tâm người hộ niệm (NHN) tin tưởng làm cho
mọi người tin tưởng theo. Tâm NHN vững vàng giúp người bệnh vững vàng. Tâm NHN
tha thiết vãng sanh giúp người bệnh tha thiết vãng sanh...
Ngược lại, tâm NHN chao đảo thì làm người bệnh chao đảo, làm người nhà chao
đảo, oan gia trái chủ biết ngay trong tâm NHN không chân thành, rất khó tạo
được sự cảm ứng đạo dao.
Tâm không cảm, Phật không ứng. Tâm NHN hồ nghi tạo ra từ trường hồ nghi. Đã hồ
nghi thì dù hình thức như thế nào cũng không có công đức lớn mạnh hầu dễ dàng
giúp cho người bệnh thoát khỏi ách nạn!
Chính vì thế, có nhiều ban hộ niệm (BHN) thành công rất tốt, nhiều BHN làm việc
không mấy kết quả. Chính cái tâm của NHN là một trong những nguyên nhân, ứng
hiện ra kết quả không viên mãn! (Hẳn nhiên, còn rất nhiều nguyên nhân khác).
Diệu-Âm thường nói rằng, tin tưởng vững vàng, hộ niệm mười người có thể cứu
chín người rưỡi được vãng sanh. Lòng tin chao đảo, hộ niệm thử, hộ niệm thăm
dò, hướng dẫn lấy lệ... thì hộ niệm mười người, may mắn lắm, cũng chỉ có nửa
người được hưởng chút ít phước báu nào đó mà thôi!
Người nào ưa hồ nghi vậy?
- Người thiếu thiện căn hồ nghi. Đây là nói tổng quát. Chính vì nhiều đời kiếp
trước ít tu hành, chưa đủ phước huệ. Nếu có tu hành tốt, thì nhờ thiện căn
trước mà rất dễ phát khởi lòng tin. (Đây là dạng hậu báo của cái nhân nhiều đời
kiếp trước).
- Người thông thạo nhiều thứ quá ưa hồ nghi. Thế trí biện thông làm cho tâm họ
rối mù trong những luận giải vô thường của thế gian. Kinh Phật dạy, đây là một
trong tám thứ khổ nạn của chúng sanh, (gọi là Tam-đồ bát-nạn khổ).
- Người thích tìm hiểu, nghe nhiều pháp quá hồ nghi pháp niệm Phật. (Đây là lời
nói của HT Tịnh Không). Người niệm Phật mà còn tu tạp nhạp, tìm hiểu đủ thứ,
đây chính là vì tâm chưa vững. Tâm không vững thì sẽ rơi vào: một là, bỏ niệm
Phật chạy theo cách hành trì khác, (trong Kinh VLT gọi là Tà Định Tụ). hai là,
tâm hiếu kỳ đủ thứ, thích thực hành thêm đủ thứ, (trong Kinh VLT gọi là Bất
Định Tụ). Sau một thời gian niệm Phật họ thường bị thối chuyển, không hưởng
được kết quả.
Vì tâm chưa an trụ vững chắc vào câu Phật hiệu, nên mới thích tìm hiểu thêm cho
rõ lý. Không ngờ, trong khi tìm hiểu đó, chính họ đã bị nhiễm trước những lý
luận mênh mông bên ngoài làm lung lay chí nguyện của họ. Nghĩa là, họ đã mất
Chánh Định.
Tà Định và Bất Định, theo như kinh phật dạy, rất khó được vãng sanh. Hãy xem
đi, hàng triệu người chết hàng ngày, kể cả có tu hay không tu, liệu có ai được
tướng hảo khi bỏ báo thân chăng? Nên nhớ, có tướng hảo lúc chết là được tốt một
chút mà thôi chứ chưa hẳn đã được vãng sanh Cực-lạc, vậy mà vẫn chưa có, huống
chi là vãng sanh về Tây-phương!
Vậy thì, đời này chúng ta gặp được pháp niệm Phật thì hãy phát lòng tin tưởng
vững vàng đi để hưởng quá báo viên mãn thành tựu này, đừng sơ ý bị lọt lại
trong lục đạo, nhất định sẽ khó khăn về sau.
A-Di-Đà Phật
Diệu Âm
Hỏi số 25:
- Mọi người ai cũng cần có người hộ niệm khi lâm chung. Đó là điều cần thiềt và rất quý, nhưng trường hợp như tụi em sống ở một nơi không gần với cộng đồng thì lúc chết ai hộ niệm cho mình? Con cháu của mình sau này nó là người Mỹ hết, hay nó theo đạo khác thi nó đâu biết tiếng Việt hay những nghi thức để hộ niệm thì mình làm cách nào để được vãng sanh?
Trả lời:
Điểm thứ nhất: Sống không gần với cộng đồng:
Người biết cách hộ niệm thì ở đâu cũng dễ có người đến hộ niệm. Người không
biết cách hộ niệm thì dù sống chung với một cộng đồng đông như kiến, nhưng khi
chết cũng chưa chắc sẽ có ai hộ niệm cho mình đâu!
Ví dụ, trong pháp tu niệm Phật, rất chú trọng việc hộ niệm vãng sanh, nhưng
người tu phải biết HN thì người lâm chung mới có được hộ niệm. Có nhiều người
tu hành trong Phật giáo, không biết đường vãng sanh, chưa có ý niệm cầu giải
thoát, cứ tu để kiếm chút phước gì đó rồi chờ chết, thì tất cả đều phải chết,
tương lai còn quá mờ mịt!...
Vậy thì, vấn đề sống chung với nhiều người Việt chưa chắc là sẽ được hộ niệm
lúc lâm chung để vãng sanh đâu!
Để giải quyết vấn nạn trên, xin chú tâm đến những điều sau đây:
1/ Tự mình phải nổ lực niệm Phật, tu hành:
Đây mới là chính. Mình không chịu tu hành thì làm sao có ngày thành đạo. Mình
không niệm Phật thì dễ gì có được người ta niệm Phật cho mình. Mình không
nguyện vãng sanh thì làm sao có cơ hội vãng sanh.
Công phu tu hành là điểm chính, mỗi người phải lo tự thực hành trước. Cái quả
vãng sanh ở cuối đời chính là nhờ cái nhân niệm Phật từ ngày hôm nay. Cái quả
tương lai được người hộ niệm là nhờ cái Nhân hôm nay mình đi hộ niệm cho người.
2/ Biết hộ niệm:
Muốn hộ niệm cho người khác được vãng sanh, thì chính chúng ta phải tìm hiểu
cho thấu đáo phương pháp hộ niệm. Lý luận, phương thức, cách khai thị hộ niệm
phải nắm vững. Nếu chính mình không hiểu gì về hộ niệm, thì lo lắng đến ngày
lâm chung được hộ niệm chưa chắc đã tốt! (Vấn đề HN Diệu Âm đã khai thác rất
nhiều, vừa tọa đàm, vừa vấn đáp, vừa video vãng sanh. Xin bỏ chút ít thời gian
xem qua).
Vì sao vậy?
- Một là, thường lầm lẫn giữa hộ niệm với cầu siêu, cầu an, hậu sự, hộ táng...
Mình lầm lẫn như vậy thì tạo cái duyên lầm lẫn đến nhiều người. Sau cùng người
khác cũng sẽ đem cái lầm lẫn ấy mà áp dụng cho mình.
Cầu siêu là đợi chết, liệm trong quan tài rồi tới tụng kinh siêu độ. Cầu an là
cầu cho tiêu tai giải nạn, khỏi chết. Hậu sự, hộ táng là đưa đám ma đi chôn.
Còn hộ niệm là khuyên người niệm Phật cầu vãng sanh. Niệm Phật thì mỗi người
cần phải tự làm trước, ai cũng phải có đầy đủ TÍN-NGUYỆN-HẠNH để vãng sanh.
Nghĩa là, phải tự TÍN-NUYỆN-HẠNH thì khi hữu sự nhờ duyên HN mà thêm vững phần
vãng sanh. Chứ đâu phải cứ chờ lúc sắp chết, rồi kêu một vài người tới niệm
Phật vài giờ thì được vãng sanh đâu!
- Hai là, người không hiểu HN thường tạo những hành động sai lầm, phạm đến điều
cấm kỵ khi hộ niệm. Bị phạm vao diều cấm kỵ gây trở ngại rất nhiều cho việc
vãng sanh.
Ví dụ như:
-Tắm rửa, đụng chạm vào thân thể quá sớm;
- Khóc lóc than thở bên xác chết;
- Dùng bùa chú yếm trừ;
- Không an lòng niệm Phật ít ra là 8 tiếng đồng hồ;
- Không lo niệm Phật mà lao chao coi ngày coi giờ trong lúc HN;
- Tẩn liệm quá sớm trong khi thân xác còn nhiều chỗ chưa được lạnh (nghĩa là,
có thể thần thức còn vướng trong thân, chưa chết hẳn);
- Giết hại sanh vật cúng tế, thết đãi;
- Lo chích thuốc chốn rã thân quá sớm,
- Ồn náo, kiện tụng bên cạnh xác chết, v.v... Nhiều điều si lầm lắm.
Nói chung, có biết cách hộ niệm rõ ràng, chính xác, mới chuẩn bị được hộ niệm,
mới biết những gì cần làm, những gì cần kiên cữ, cho người, cho cả chính ta.
Xin tự hỏi, chính mình đã nắm vững phương pháp hộ niệm chưa?
3/ Phát triển sự hộ niệm:
Cần vận động, tuyên truyền, khuyên nhủ, nhắc nhở con cháu, người thân, khuyến
khích cùng nhau niệm Phật, thành lập nhóm cộng tu niệm Phật. Đây là cái nhân để
thành hình một nhóm hộ niệm.
Cứ phát tâm làm đi, còn thành tựu được hay không cứ để Phật Bồ-tát lo liệu.
4/ Chuẩn bị tự hộ niệm:
Hễ có người Hộ niệm thì tốt, nếu không có ai hộ niệm, thì phải biết tự hộ niệm
cho mình. Nghĩa là sao? Phải có tự lực mới cầu được tha lực.
-Tinh tấn niệm Phật để nghiệp chướng tiêu trừ, phước duyên tăng trưởng, nhờ đó
dễ được an nhiên ra đi (tuyệt vời!). Niệm Phật chắc chắn có lợi, (nếu nhất tâm
đuợc thì hay quá...).
Nên nhớ, thành tâm niệm một câu Phật hiệu phá tan 80 ức kiếp nghiệp chướng sanh
tử trọng tội. Tiêu nghiệp thì phước tăng, có phước mà biết đường vãng sanh thì
vãng sanh không khó lắm vậy.
- Làm tờ di chúc, nhắn nhủ, dặn dò con cháu những gì cần làm, những gì cần
tránh.
- Lập chí vãng sanh vững vàng, đừng thối chí. Ví dụ: khi bệnh đừng sợ chết,
không cầu hết bệnh, coi cái chết nhẹ nhàng. Không lo, không sợ, kông buồn,
không than, v.v... Người ta khi nghe bác sĩ nói sắp chết thì sợ hãi (đến hết
hồn hết vía!), còn ta thì cười hè hè, sung sướng vì thấy rằng ta sắp được dịp
theo A-Di-Đà Phật về Tây phương.
- Sẵn sàng ứng trị với những trường hợp người thân làm điều sai lầm. Trong tâm
nên chuẩn bị trước để phá trừ những chướng ngại. Ví dụ, con cái khóc lóc: kệ
nó, đừng luyến lưu; Bị đau đớn quá: đã dự định rồi, quyết niệm Phật cầu gia bị;
gặp oan gian trá hình: đã biết rồi, yên tâm niệm Phật, thành tâm sám hối, hồi
hướng công đức cho họ để hóa giải, (nên làm việc này liền đi), v.v...
- Nguời thường bận tâm lo lắng không an nhiên bằng người ít lo. Càng lo lắng
càng bất an. Tại sao không cố gắng niệm Phật, cố gắng tu hành, biết mình bị
nhiều chướng duyên thì cố gáng công phu nhiều hơn, há không hay hơn sao? Biến
nghịch duyên thành thuận duyên. Nhìn thấy sự khó khăn mà lo tu hành tốt hơn
vậy.
Tự mình phải lo liệu cho mình, chứ có cách nào khác hơn! Tập buông xả cho
nhiều... mới tránh được những vướng mắc.
Điểm thứ hai: Con cái theo đạo khác:
Đầu tiên xin khuyên rằng, đừng bao giờ có tâm xem thường những tôn giáo khác.
Người có tu hành, dù đạo nào cũng tốt hơn người vô đạo.
Phải có tâm hoan hỉ khi con cái có đường tu hành. Mỗi người đều có cái duyên
riêng, chớ nên kỳ thị.
Ở Hồng Kông, cách đây không lâu, (quên mất năm nào), có một bà Cụ có tất cả 6
người con đều theo đạo Thiên Chúa, riêng Cụ thì niệm Phật. Bà luôn luôn tôn
trọng con cháu, và nhắc nhở con cháu đi nhà thờ đều đều. Nhờ vậy mà tất cả con
cháu đều tôn trọng bà và hết lòng yểm trợ cho bà. Khi bà vãng sanh, biết trước
ngày giờ, bà nhờ chính nhũng đứa con khác đạo này tụ tập về ngồi chung quanh
niệm Phật hộ niệm và bà ngồi mà vãng sanh. Tất cả con cháu của Bà thấy vậy, đã
tự ý chuyển sang niệm Phật.
Lấy nghịch duyên làm thuận duyên tu hành. Người chung quanh tự họ chuyển.
Phật lực gia trì ở sát bên cạnh. Miễn sao mình phải có thành tâm. Có cầu tất có
ứng. Xin chớ quá lo lắng.
Chúc an tâm, thành công,
Hỏi số 26:
Có thầy giảng khi ở thân trung ấm nếu thấy hào quang dịu dàng là của Phật, hào quang chói chang là của ma. Ngược lại, có thầy giảng hào quang chói chang là của Phật, còn dịu dàng là của ma. Xin chú giải thích rõ để Phật tử chọn đi đúng đường về với Phật.
Trả lời:
Câu hỏi này hay lắm. Nhưng vấn đề
này rộng quá, thật là khó có thể mổ xẻ đến chỗ tường tận!
Ở đây, trong phạm vi một câu trả lời, chúng tôi xin đề cập đến một vài yếu tố
về pháp môn tu. Có lẽ vì căn cứ vào các pháp môn tu học khác nhau nên câu trả
lời hình như có sự sai biệt!
Phật để lại có tới 84 ngàn pháp môn tu học, để ứng trị với tập khí, phiền não,
nghiệp chướng, căn cơ khác nhau của chúng sanh. Nếu đem so sánh, thì tất cả các
pháp môn tu hành đều có chỗ đồng, chỗ biệt.
"Đồng" là đi về cùng một mục đích, chính là khai mở Chơn-tâm Tự-tánh
của mình, thành Phật. "Biệt" là mỗi pháp đều có sự thực hành riêng,
cách đối trị riêng. Chúng ta cũng thường nghe đến câu, "Đồng mà biệt, biệt
mà đồng", hoặc "Đồng quy nhi thù đồ". Nghĩa là, cùng đi về một
chỗ, nhưng đường đi khác nhau. Mục đích thì chung, nhưng cách tu hành, phương
pháp đối trị với nghiệp chướng, thì tùy theo từng căn cơ mà có chỗ khác biệt.
Chính vì vậy, cảnh giới ứng hiện ra có chỗ đồng nhất, có chỗ sai biệt cũng là
chuyện thường!
Để dễ hiểu hơn, chúng ta đưa ra một vài ví dụ gần gũi trong thế gian để dẫn
chứng trước:
Một người thôn quê, sống trong cảnh yên lặng, thì lời nói, cử chỉ, tính tình
của họ cũng hiền hòa, mộc mạc. Ngược lại, môt người ở thành Phố phồn hoa, thì
họ thông minh, lanh lợi, khôn ngoan, tính toán hơn. Bản năng này do tâm bị tập
nhiễm môi trường mà ra, chứ không phải chơn tâm khác biệt.
Một người thiện lương thì thấy ai cũng thương hại, tin yêu. Ngược lại, một
người đa nghi thì thấy ai cũng nghi ngờ, dò xét. Tin yêu hay nghi ngờ đều do
tâm tạo nên.
Người lớn cứ lấy chuyện ma mà hù dọa trẻ em, thì trẻ em nằm ngủ thường giựt
mình la hoảng! Nếu đem chuyện lành mạnh dạy dỗ thì các em vui tươi, an lành.
Người ác thấy việc ác, người thiện thấy việc thiện. Phật thấy chúng sanh đều là
Phật. Chúng sanh thấy Phật không khác gì chúng sanh. Tốt-Xấu, Thiện-Ác,
Phật-Chúng sanh... tất cả đều do tâm tạo ra cả.
Kinh Phật có nói: "Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh". Vạn pháp đều
từ tâm của chính mình hiển hiện ra.
Như vậy một người thấy Phật hay Ma, lâm chung được an lành hay bị chướng ngại,
thân trung ấm thấy quang minh của Phật chói chang hay dịu dàng đều có nguyên
nhân tương ứng.
Xin nêu lên mấy điểm sau đây có liên quan đến vấn đề này:
1/ Tự-Lực và Nhị-Lực:
Tự-Lực là tự mình tu chứng để giải thoát, không cần nhờ cậy tới ai. Nhị-Lực là
vừa tự mình tu hành, vừa nương nhờ từ lực của chư Phật gia trì. Hầu hết các
pháp môn tu hành đều mang tính chất tự lực, riêng pháp môn Niệm Phật là pháp
nhị lực, luôn luôn cầu Phật A-Di-Đà gia trì tiếp độ để đới nghiệp vãng sanh
Cực-lạc quốc..
Người tu hành tự lực thì thường phải có nghị lực cao, ít tính khiêm nhường, họ
muốn tự mình chiến thắng nghiệp hoặc, tự đối đầu với oan gia trái chủ để tự bảo
vệ lấy mình. Chọn cảnh đấu tranh thì khó có thể được cảnh thanh bình! Tâm không
chấp nhận sự êm dịu thì quang minh của Phật ứng hiện cũng không thể êm dịu
được!
Với người niệm Phật, thường có tâm khiêm nhường. Chư Tổ Tịnh tông đều khuyên
nhắc người niệm Phật phải tự cho mình là hàng hạ căn thấp kém, phải có tâm chí
thành chí kính, luôn nương vào Phật lực, cầu Phật gia trì để được đới nghiệp
vãng sanh. Vì tâm chí thành chí kính nên tương ứng với đại thệ của đức Phật
A-Di-Đà, được Phật Bồ-tát gia trì, chư Long thiên hộ pháp bảo vệ, nên họ được
an ổn. Từ đó, tâm của người niệm Phật hiện ra cảnh giới hòa bình, an lạc, thanh
tịnh. Quang minh của Phật cũng ứng theo tâm thành của người cầu nên dịu dàng,
nhu nhuyến.
Đây là, Phật tùy tâm chúng sanh muốn mà ứng hiện ra, hay gọi là, "Tùy
chúng sanh tâm, ưng sở tri lượng" vậy.
Trong các pháp tự lực của thiền định, họ chủ trương "Phùng Phật sát Phật,
phùng ma sát ma", (Gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma). Nghĩa là, gặp Phật
cũng chẳng khác gì ma, đã là ma thì phải phá trừ hết. Tất cả phải tự lập lấy,
tự chứng đắc để nhập Niết-bàn. Gặp Phật mà họ còn không chấp nhận, huống chi
gặp ánh sáng của Phật! Tâm không chấp nhận tha lực, thì Phật lực không cảm ứng
được.
Còn người tu Tịnh độ thì nương nhờ Phật lực tiếp dẫn, khi xả bỏ báo thân họ
nguyện theo A-Di-Đà Phật về Tây-phương thành bậc bất thối chuyển. "Phật
thị môn trung hữu cầu tất ứng". Đây là do tâm thành mà được linh ứng. Tâm
ta có cảm, Phật tất có ứng gọi là cảm ứng đạo giao.
Người tu Thiền định chủ trương "Đa nghi đa ngộ". (Nghi nhiều thì ngộ
nhiều). Đối với tất cả mọi cảnh giới cần phải tự nghi vấn, phải tự thân thấu
hiểu rốt ráo, phải tự mình đạt lấy, chứ không dựa vào bất cứ một tha lực nào
cả. Thành ra bất cứ cảnh giới nào hiện ra cũng bị họ nghi ngờ, gạn lọc. Muốn
gạn lọc thì Phật cũng đành thử thách, để chúng sanh mặc sức mà gạn lọc!
Còn người tu Tịnh-độ thì dùng tím tâm mà về với Phật, phải "Đoạn nghi sanh
tín". Trong kinh, Phật dạy người niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ thì lúc xả bỏ
báo thân, A-Di-Đà Phật cùng chư Thánh chúng hiện ra trước mặt, tiếp dẫn về Tây-Phương.
Người niệm Phật phải vững vàng tin vào lời Phật dạy này để được vãng sanh.
Tín-Nguyện-Hạnh là tông chỉ, trong đó lòng tin là đầu mối để thành đạo. Đây là:
"Tín tâm thanh tịnh tất sanh thật tướng" vậy.
Pháp môn tự lực, vì vậy, chỉ dành cho hàng căn cơ thượng thừa, hay nói rõ hơn,
là hàng đại bồ-tát thực hành. Còn pháp nhị lực Tịnh độ thì "Tam căn phổ
bị, phàm thánh tề thâu", phổ dụng khắp các căn cơ, thượng trung hạ đều
được thành tựu.
Cho nên, người tu hành cần phải xét rõ căn cơ của chính mình để chọn lựa pháp
môn thích hợp mới mong ngày thành tựu, chớ nên khinh suất.
2/ Tịnh Tông và Mật Tông
:
Trong Mật-tông có nhiều cảnh giới rất lạ thường đối với người phàm phu kém trí
huệ như chúng ta! Nếu không được hướng dẫn kỹ, một người bình thường, tự thực
hành theo pháp Mật-tông, có thể bị lạc vào những cảnh giới huyễn hoặc, rất khó
phân định!
Cách hành trì của Mật-tông là lăn vào cảnh động, chế ngự cảnh động để tìm ra
cảnh tịnh. Đây không phải là cách tu hành của hạng người bình thường. Còn cách
hành trì của Tịnh-tông là cố gắng xa lìa cảnh động để bảo vệ cảnh tịnh. Cách tu
này an toàn, dễ dàng hơn, thích hợp với hàng sơ cơ hạ căn.
Cũng như cách tu tự lực Thiền-tông, người tu Mật-tông cũng cần đến trí huệ sắc
bén, ý chí vững mạnh, mới vượt thắng những thử thách của nhiều cảnh giới khá
huyền bí (nên gọi là Mật), để tìm ra đường sáng giác ngộ. Một khi chọn môi
trường thử thách thì phải chịu khá nhiều thử thách. Ánh sáng chói chang hiện ra
chính là để đáp ứng với cái tâm muốn thử thách vậy.
Người tu Tịnh-độ thì ngày ngày niệm Phật cầu Phật tiếp độ về Tây-phương, họ
nhìn đức Phật A-Di-Đà giống như người cha hiền hòa. Chính tâm hồn hiền hòa này
đã cảm ứng đến quang minh của Phật cũng hiền hòa, êm dịu.
Trong Mật-tông thì mỗi người phải là một chiến sĩ kiêu hùng, phải tự trang bị
cho mình cả thể chất lẫn tinh thần để sẵn sàng lăn xả vào trận mạc mà chiến đấu
với ác nghiệp, hàng phục ma chướng. Đây là môi trường đấu tranh vô cùng quyết
liệt giữa sống và chết, giữa thiện và ác, giữa giải thoát và địa ngục. Ở đó
thiện ác phân minh, ác phải diệt, thiện phải dương. Trong cảnh giới này, khó
tìm ra sự an nghỉ. Cho nên, đối với họ sự im lìm, dịu mát quả là điều trái
ngược.
Người tu Tịnh-độ, thì ngược lại, cần nhất là buông xả vạn duyên, ác thì phải
buông đã đành, nhưng thiện cũng phải buông mới là Tịnh-nghiệp. Nói rõ hơn, việc
ác không được làm, việc thiện phải làm nhưng tâm phải biết buông, không được
chấp vào đó mới có thể hoàn thành Tịnh-nghiệp. Như vậy, đối với người niệm
Phật, tất cả các việc thiện là "Trợ hạnh", còn "Chánh hạnh"
vẫn là nhiếp tâm niệm A-Di-Đà Phật cầu vãng sanh về nước Cực-lạc.
Người vãng sanh về nước Cực-lạc sẽ hội tụ với chư Bồ-tát ở Liên Trì hải hội, ta
cùng chư Thượng-thiện-nhơn câu hội một chỗ. Trong kinh Phật nói, cõi Cực-lạc,
dẫu cho tiếng ác cũng không có, thì làm gì có hình tướng xấu ác, ảnh tượng hung
tợn? Vậy thì, làm gì hào quang của Phật lại chói chang, khó chịu?
Giữa Mật-tông và Tịnh-độ sự hành trì có khác nhau, thành ra các biểu tượng thờ
phụng và nghi thức hành đạo cũng chỗ khác nhau.
Ví dụ, như trong Kim-cang Mật thừa của Mật tông, người muốn thọ trì theo giáo
pháp này phải tu luyện tâm hồn vững mạnh, chí khí kiên cường, thân thể tráng
kiện mới tu hành được. Người tu phải luyện tập võ nghệ, phải có khả năng tự vệ
hữu hiệu, phải được truyền chỉ những mật chú để tự bảo vệ lấy mình trước những
thử thách của cảnh giới rất huyền ảo, khá phức tạp. Chỗ nương dựa của họ vẫn là
chính họ. Chính vì vậy tâm hồn của họ khó có thể đơn giản, nhẹ nhàng được!
Ngược lại, những điểm đòi hỏi trong Mật-tông hoàn toàn không đề cập đến trong
Tịnh-độ tông. Người tu Tịnh-độ chủ yếu là giữ tâm hồn khiêm hạ, cung kính,
thành khẩn, họ đặt niềm tin vào sự gia trì, che chở của Phật A-Di-Đà, chư
Bồ-tát Thánh chúng, chư Long Thiên hộ pháp. Nhờ vậy, Tâm hồn người tu Tịnh-độ
đơn giản, hiền hòa, thanh tịnh và có chỗ nương dựa.
Cách trang trí, thờ phụng cũng có chỗ khác nhau.
Khi bước vào một tự viện Mật tông, chúng ta thấy cảnh trí ở đó thật chói chang,
màu sắc rất tương phản. Những hình tượng của Phật và Bồ-tát đều lộ vẻ đặc thù
sắc bén, các vị thần Kim Cang Tát-đõa rất hùng dũng, dữ tợn. Có những mật thất
của Mật-tông chỉ dành riêng cho người đã được trải qua những pháp quán đảnh đặc
biệt, còn những người khác không được bước vào. Ở đó thường trưng bày những
hình tượng rất đặc biệt, diễn tả những cảnh giới mà người bình thường không thể
tự ý xem qua!
Ngược lại, khi bước vào trong một Niệm Phật Đường của Tịnh-độ tông, ai cũng có
cảm giác an lành, nhẹ nhàng. Cách thờ phụng ở nơi này trang nghiêm, thanh tịnh.
Hình tượng Phật Bồ-tát đều hiền hòa, từ bi, mọi người đều hoan nghênh bước vào
để lễ bái. Vào đó, mọi người đều tắm mình trong ánh hào quang của Phật, Bồ-tát,
ai ai cũng cảm thấy an lành như được sự gia trì, che chở, bảo vệ an toàn trong
ánh quang minh của Quý Ngài.
Tại sao lại có sự khác biệt như vậy?
Thực ra, đã là Phật Bồ-tát thì đâu còn tướng gì nữa. Tất cả những ảnh tượng, đồ
hình chỉ là sự biểu trưng cho các phương pháp tu hành, cảnh giới thấy được cũng
chỉ là ứng hiện theo tâm tưởng của chúng sanh mà thôi.
Như vậy, quang minh của Phật nếu có khác nhau, tất cả chẳng qua đều do chính
tâm của con người cảm ứng đến. Nhất thiết duy tâm tạo. Ánh sáng của Phật
A-Di-Đà chói chang là vì tâm của con người "chói chang", ngờ vực. Ánh
sáng của Phật dịu dàng vì tâm của con người hiền hòa, dịu dàng.
Như vậy, chúng sanh muốn chọn ánh sáng nào?
Trong kinh Vô-lượng-thọ, Đức Thích-Ca Mâu-Ni nói quang minh của Phật A-Di-Đà là
tối tôn đệ nhất, Đức Bổn-Sư tôn xưng ánh sáng của A-Di-Đà Phật là "Quang
trung cực tôn", và Phật A-Di-Đà còn có nhiều danh hiệu khác, trong đó có:
"Thanh-Tịnh-Quang, Hoan-Hỉ-Quang, Giải-Thoát-Quang, An-Ổn-Quang, v.v...
Quang minh ấy chiếu khắp mười phương. Tất cả thế giới nếu có chúng sanh nào
chạm xúc quang minh này thì cấu diệt thiện sanh, thân ý nhu nhuyễn". (Kinh
VLT, phẩm 12).
Thực thể Quang minh của Phật là:Thanh-Tịnh, Hoan-Hỉ, Giải-Thoát, An-Ổn... thì
làm sao lại chói chang, nhức mắt được! Nếu chói chang, nhức mắt thì làm sao
chúng sanh chiếu xúc đến lại được thân ý nhu nhuyễn?...
Tất cả đều do chính tâm của chúng sanh cảm ứng ra. Chính vì vậy, giảng giải
kinh điển cần hết sức cẩn thận, phải xét rõ Phật đang giảng trong cảnh giới
nào, cho thành phần nào, đối trị bệnh chướng nào... những điều này cần phải xác
định rõ ràng hầu tránh cho đại chúng sự mập mờ, lầm lạc trong việc tu trì. Tu
học pháp môn cũng vậy, cần phải chọn lựa thích ứng với căn cơ của mình mới mong
có ngày thành tựu.
Thiền định và Mật-tông đòi hỏi căn cơ cao mới thực hành nổi. Người thượng căn
thượng trí có thể tự tu tự chứng, không cần nương nhờ vào ai, tự họ có thể phá
ma chướng, diệt nghiệp hoặc, để thành đạo, chứng đại Bồ-đề. Các pháp môn này,
đại Bồ-tát thực hành thì chính xác, còn kẻ phàm phu mà tham chấp vào đó thì coi
chừng càng tu càng sai!
Còn chúng sanh trong thời mạt pháp, Phật nói, hầu hết căn tánh đều hạ liệt, thì
pháp môn niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ là thích hợp nhất, dễ thành tựu nhất. Người
tu niệm Phật, với tín-nguyện-hạnh đầy đủ, ứng hợp với đại nguyện của đức Phật
A-Di-Đà. Trong kinh nói, khi người đó xả buông bỏ báo thân, Ngài cùng chư đại
Thánh chúng phóng quang đến tiếp dẫn về Tây-phương. Pháp này dễ, nhưng nhiếp
thọ thì rộng vô bờ mé, gọi là tam căn phổ bị, phàm thánh tề thâu. Bậc thượng,
trung, hạ đều có thể tu hành thành tựu.
Còn ánh sáng chỉ là phương tiện biến hóa của đức Phật A-Di-Đà để tiếp độ chúng
sanh. Trên cõi Cực-lạc, chính mỗi cánh hoa sen cũng đều có thể phát ra muôn vạn
đạo hào quang tốt đẹp, thì A-Di-Đà Phật chẳng lẽ không có khả năng biến hóa
được một thứ ánh sáng trong lành, tốt đẹp để cho chúng sanh được an lành tiếp
dẫn về Cực-lạc sao?
Thế mà, có nơi đã mô tả hình tướng của Phật, Bồ-tát rất bất thường, dễ sợ, đầy
uy hiếp. Nhiều người thấy vậy vội vã chấp vào đó mà hồ nghi rằng, tại sao thân
tướng của Phật Bồ-tát lại dữ tợn như vậy! Thưa không phải vậy đâu. Đó chỉ vì
tâm chúng sanh muốn vậy nên Phật Bồ-tát cũng đành ứng hiện như vậy để độ mà
thôi!...
Tướng tùy tâm sanh, tướng tùy tâm diệt. Tâm Phật Bồ-tát là đại từ, đại bi, đại
hỷ, đại xả thì hình tướng của các Ngài đâu có thể nào hung dữ được? Đức Quán
Thế Âm ứng hiện trên cõi trần này thành một Bạch-Y Đại-Sĩ, trông rất từ bi,
hiền hòa như một người mẹ hiền, đây là vì chúng sanh thành tâm quy mệnh Ngài,
cầu Ngài cứu khổ cứu nạn. Trong khi đó, chúng sanh mấy ai biết được rằng, ở
dưới địa ngục, Ngài hiện thành quỷ Tiêu-Diện, một đại quỷ vương, thân tướng
trông rất bạo tợn, hung dữ, ai nhìn thấy cũng phải khiếp đãm! Bồ-tát Quán Thế
Âm đại từ đại bi, làm sao mà có tướng hung dữ được. Chỉ vì tâm chúng sanh ở đó
quá ngu muội, cay nghiệt, ác hiểm, nên Ngài phải hiện như vậy mới có thể độ họ
mà thôi!
Hiểu được điều này rồi, xin hỏi rằng, quý đạo hữu muốn các Ngài sẽ cứu độ mình
bằng hình tướng nào đây?
Khi hộ niệm cho người lâm chung, sự ứng hợp căn tánh lại còn đặc biệt quan
trọng hơn nữa. Nếu hộ niệm mà ứng dụng các pháp không hợp căn cơ, thì không thể
cứu người vãng sanh được. Mỗi pháp môn tu tập đều có mỗi cách hộ niệm riêng,
người hộ niệm cần phải hiểu rõ điều này mà làm như lý như pháp, chứ không thể
sơ suất áp dụng bừa bãi được.
HT Tịnh Không nói rằng, ánh sáng của Phật thì êm dịu, làm cho thân tâm thanh
tịnh, không chói mắt. Ngược lại, ánh sáng của ma thì chói chang, giống như có
gai, khi chiếu xúc đến làm tâm ta bất an, lo sợ, dễ nhận nhất là bị chói mắt.
Ngài nói, cách tốt nhất khỏi sợ bị lầm lẫn là khi hộ niệm cần có một hình tượng
Phât A-Di-Đà cho người bệnh nhìn để nhiếp tâm vào đó mà niệm Phật. Khi người
bệnh ra đi, đức A-Di-Đà sẽ hóa hiện giống hệt như hình tượng trước mặt để tiếp
dẫn họ. Dặn dò người bệnh tuyệt đối không nên đi theo một vị nào khác, không
được tham chấp vào bất cứ cảnh giới nào, có vậy mới tránh bị lạc đường.
Đây là Ngài lấy tôn chỉ và cách hộ niệm của Tịnh-độ tông ra khai thị cho chúng
ta đó. Đúng lý, đúng pháp, hợp căn, hợp thời. Trong quy tắc trợ niệm của
Tịnh-độ tông, chư Tổ cũng nói tương tự. Nhiều Ban Hộ Niệm ứng dụng đã và đang
cứu độ vô số người vãng sanh Tịnh-độ. Lúc xả bỏ báo thân, họ vãng sanh nước
Cực-lạc, hiển hiện ra những thoại tướng tốt đẹp bất khả tư nghì.
Chúng ta phải y giáo phụng hành vậy.
Hỏi số 29:
A Di Đà Phật,
Kính gởi chú,
... Cháu có nghe một câu chuyện như vầy, xin chú cho biết mình phải làm thế nào
để tránh những chuyện này.
Có một bà bị bịnh ung thư phổi, rọi hình thấy một đóm đen trong phổi, sau một
thời gian đi khám thấy tế bào ung thư đã lan ra khắp thân thể, chỗ nào cũng có
tế bào ung thư. Người con khuyên bà đi vô bịnh viện chữa trị bằng trị liệu
phóng xạ và trị liệu hóa học…. Bà này nói người niệm Phật không cần, chỉ cần
niệm Phật thì đức Phật A Di Đà là đại y vương có thể chữa trị tất cả bịnh của
chúng sanh. Người con này cũng rất có hiếu nên mới qùy xuống nói “Nếu má không
chịu vô nằm bịnh viện thì con sẽ quỳ hoài không đứng dậy.”
Vì muốn tùy thuận chúng sanh nên bà cũng đồng ý, nhưng bà giao với người con 1
điều kiện, kêu người con đem bàn thờ Phật vô bịnh viện cho bà. Bà vô bịnh viện,
ngồi cả ba ngày ba đêm niệm Phật chí thành khẩn thiết. Niệm xong chưa đi phóng
xạ trị liệu gì hết lúc khám thì bác sĩ nói lạ thiệt, những tế bào ung thư trước
đây đã mất hết. Còn vết đen ở phổi thì thấy thâu nhỏ lại, nhỏ hơn hồi trước rất
nhiều, nhưng cũng còn. Bà hỏi con bây giờ xuất viện được chưa. Người con nói
“Nếu má muốn nằm thêm thì bác sĩ cũng đuổi má về chứ đâu ai cho má nằm bịnh
viện nữa.”
Mấy năm sau trong gia đình có chuyện xào xáo gì đó, và vì một lý do nào đó nên
tế bào ung thư bộc phát trở lại. Kỳ này bà rất yếu, đứa con bà làm ăn rất khá
giả, nói với bác sĩ phải cứu sống má với bất kỳ giá nào. Lúc bà có dấu hiệu gần
như hấp hối, họ xúm lại gắng máy nhồi cơ tim, gắng máy trợ giúp bịnh nhân thở,
làm đủ mọi chuyện y học có thể để cứu cho bà sống. Họ ra sức được một hồi thì
các dấu hiệu như mạch tim đập, nhịp thở, huyết áp đều có vẻ bình thường trở
lại.
Tối hôm đó khoảng 8 giờ, bà lại hấp hối thêm lần nữa. Lần này oan gia trái chủ
của bà là ai? Chính là ông chồng bà, ông chồng nói với bác sĩ, bất luận làm thế
nào cũng phải cứu cho bà sống tới 7 giờ sáng ngày hôm sau.
Tại sao ông chồng không muốn cho bà ra đi ngay hôm đó mà phải đợi tới hôm sau.
Ông chồng này nói vì bà ăn chay niệm Phật nên muốn cho bà ra đi hôm mồng một
mới tốt. Sau khi ông chồng yêu cầu như vậy, các bác sĩ lại gắn máy để cứu cho
bà ‘sống lại’ thêm lần nữa. Nhưng gắn máy vô chẳng làm gì được khác hơn là hành
hạ thân xác của bà.
Tới lúc bà ra đi thật là tội nghiệp. Những bạn đồng tu của ba yêu cầu người nhà
cho họ thăm viếng bà. Lúc bà mất bà bị máu chảy ra từ mắt, mủi, tai, miệng,…
Thiệt là đáng tiếc.
Và tại sao bà này niệm Phật cũng khá lắm nhưng lại bị như vậy?
xin cám ơn chú thiệt nhiều.
Sang
Trả lời:
Câu chuyện kể này thật là quá thương
tâm! Mọi người nên đọc qua. Đây là một bài học đích đáng!
Thông thường con người không tin Phật pháp, hoặc là có tin mà hiểu không thấu
đáo về pháp Phật, vô tình hay cố ý họ dễ dàng tạo ra những cảnh thương tâm này.
Sự thương tâm không phải chỉ ở những điều thấy trrước mắt, mà chính là người ra
đi bị đoạ lạc đau khổ!
Câu chuyện kể trên đã phạm phải mấy vấn đề cấm kỵ khá nặng:
1/ Đụng chạm thân xác:
Một người khi đă tắt hơi, mà bi vằn vọt, đụng chạm, hành hạ đến thân xác là một
đại tai họa cho họ. Trong pháp hộ niệm cho người lâm chung, chư Tổ đưa cái lỗi
lầm này lên hàng đầu. Nghĩa là cấm tuyệt đối mọi hành động đụng chạm vào thân
thể của người vừa mới chết.
Khi tắt hơi xong, phải để yên thân xác, không được đụng chạm vào ít ra cho
tới sau 8 giờ. Trong thời gian 8 giờ đồng hồ mà đụng chạm vào xác thân,
người chết rất dễ bị đọa vào nhũng cảnh giới tồi tệ nhất trong ba đường ác.
Tại sao vậy? Khoảng thời gian này là thời gian thần thức đang tìm cách xuất ra
khỏi xác thân. Tinh thần bất an, thân xác đau buốt. Nếu bị đụng chạm người chết
sẽ bị đau đớn không chịu nổi, dễ sanh tâm sân nộ, giận dữ. Ra đi trong cơn giận
dữ dễ chui vào địa ngục.
Người thế gian, thường nghĩ rằng, một người đến lúc tắt hơi xong là hết, thân
xác đó không còn cảm giác gì nữa. Những người trong nghề giải phẩu, họ đã quen
với cảnh mổ xẻ xác người, xác vật, họ thấy tất cả chúng sanh lúc sống thì cử
động, suy nghĩ... khi tắt thở rồi thì chỉ là thứ xác thịt vô tri. Thật là một
điều sai lầm!
Những người hiểu rõ Phật pháp mới biết điều này. Người thế gian, vì không hiểu
Phật Pháp, vô tình đã làm nhiều việc tai hại cho người ra đi đến thảm thương!
Câu chuyện này, những điều tai hại hầu như đã phạm hết.
Đụng chạm vào thân xác người chết quá sớm chẳng khác gì như một sự tra tấn
người chết bằng cực hình!
Trong Phật pháp, Phật dạy, vạn loài chúng sanh đều có linh tri. Linh tri này
không bao giờ chết. Nói cho dễ hiểu hơn, ngoài cái xác thịt ra, còn có thần
thức đang điều khiển cái xác thịt đó. Thần thức này không bao giờ chết. Nói cho
dễ hiểu, cái xác thân thì có sanh già bệnh chết, còn cái linh hồn thì không
sanh không tử, chỉ có mê và ngộ mà thôi. Mê thì rối bù, khổ nạn. Ngộ thì an
vui, giải thoát.
Xin nhắc lại, khi tắt hơi xong, vì mê muội, tham chấp, thông thường thần thức
vẫn cứ cố bám vào cái xác, không ra được. Người không hiểu thấu Phật pháp không
biết điều này. Thần thức chưa ra khỏi thì giống như họ vẫn còn tiếp tục sống,
và vẫn còn có cảm giác nhiều giờ sau đó. Thời gian này, nếu bị đụng chạm vào sẽ
gây đau đớn đến rợn người. Nếu sơ ý, cứ tiếp tục đụng chạm dễ làm chọ họ nổi
tâm sân nộ. Một cơn sân nộ nổi lên, thần thức nương theo lực đó mà xuất ra. Sân
giận là nhân chủng của điạ ngục. Một niệm sân giận cối cùng này sẽ xác định
tương lai của họ trong cảnh giới tối tăm nhất - Địa ngục.
Chính vì vậy, xin đừng nên tắm rửa lau mình, đừng nên thay áo thay quần, đừng
thoa son đánh phấn, đừng nên ôm ấp xoa nắn, đừng chích thuốc uốp thân, đừng rút
kim sửa thân, v.v.... ít ra trong 8 tiếng đồng hồ. Nếu để yên đến 12 giờ thì
tốt hơn, an toàn hơn. Thời gian này rất cần niệm Phật hộ niệm. Nếu mọi người
thành tâm hộ niệm, khai thị hướng dẫn, thì có thể giải quyết tất cả.
Điều cấm kỵ khác là khóc than, kể lể, âu sầu, v.v... câu chuyện không kể ra,
nhưng chắc chắn phải bị phạm đến. Đây là những điều tối kỵ. Nói chung, rất
nhiều điều tối kỵ đã xảy ra, đã phá hỏng con đường vãng sanh của bà cụ.
2/ Cưỡng chế người sắp chết:
Lâm vào điều cấm kỵ thứ hai. Những người trước giờ phút lìa bỏ cõi trần, thường
nếu không bị bệnh khổ thì cũng bị xáo trộn rất lớn về mặt tâm lý. Trong tình
huống này mà con cháu còn bướng bỉnh, cưỡng bức, không vâng lời làm theo ý muốn
người bệnh, bất hiếu ngang ngạnh... tạo sự bức xúc rất lớn cho họ.
Trong pháp hộ niệm người lâm chung, nhất định chúng ta không được làm bất cứ
điều gì trái ý người bệnh. Nếu phạm phải điều cấm kỵ này làm cho người ra đi
tức bực, sận giận, buồn khổ, v.v... đây cũng là cái duyên chính dẫn tới những
cảnh giới vô cùng xấu.
Không được làm trái ý người sắp chết. Giả như, đang niệm Phật hộ niệm mà người
bệnh không muốn niệm Phật nữa, người hộ niệm cũng phải tạm ngưng niệm Phật để
vui lòng họ trước, rồi sau đó mới cách hóa giải sau.
Trong câu chuyện này, bà cụ này biết đạo, biết niệm Phật, quyết lòng muốn vãng
sanh. Thật là đáng kính phục. Nếu người nhà biết chút đạo lý, hỗ trợ theo
nguyện vọng của cụ thì quý hóa biết chừng nào, cơ hội này họ trả được đại hiếu,
đại nghĩa, đại từ, cứu giúp cụ thành tựu đạo giải thoát. Đáng tiếc, vì người
thân quá mê muội đã xoay chuyển đại thuận lợi thành đại thiệt hại! Thật tội lỗi
cho người thân. Thật tội nghiệp cho cụ!
Có tình cảm, nhưng không rõ lý, nên con người thường làm chuyện sai lầm! Họ
thương người thân mà lại bỏ người thân để đi thương cái xác chết. Họ lầm lẫn
người thân là cái xác chết. Nhưng thực ra, cái xác thịt đó chỉ là thứ vật chất
mà chính người thân của họ nhận lấy để dùng trong khoảng thời gian qua, đến nay
nó đã hư, người thân của họ đang bỏ để tìm cái thân khác. Cũng giống như một
chiếc xe hư, cha mẹ mình đang tìm cách liệng chiếc xe hư để tìm mua chiếc xe
mới. Còn con cái, người thân thì bất hiếu, dại khờ cứ lo kéo chiếc xe vào nhà
mà lại liệng cha mẹ mình ra đường vậy. Thật quá đáng trách!
Tôi có nghe một câu chuyện tương tự, có thật, xảy ra năm 2004 như vầy. Một bà
cụ tu theo đạo Tiên, bị bệnh phải chết. Bà tha thiết yêu cầu con cái cho bà
xuất viện về nhà để đọc kinh gì đó cho bà đi. Nhưng con cái không chịu vâng
lời. Bà đòi về nhiều lần, nhưng con cái vẫn bắt bà nằm trong bệnh viện cho Bác
sĩ điều trị. Bà giận quá hộc máu mà chết. Chết xong mà máu cứ tiếp tục ộc ra cả
nửa thau như vậy. Thật quá khủng khiếp!
"Từ bi đa hoạ hại, phương tiện xuất hạ lưu!
". Có tình cảm (Từ
Bi) mà thiếu trí huệ có thể tạo ra đại họa. Có tiền bạc (Phương Tiện)
mà không hiểu đạo thì dễ làm nên những chuyện đại nghịch, bất hiếu, hạ lưu, tồi
tệ! Câu chuyện diễn tả khá đầy đủ châm ngôn này.
Những oán nạn này xảy ra nhiều lắm, quá thảm thương! Hôm nay, đạo hữu đã cho
thêm một chứng minh nữa. Quá kinh khủng! Quá tội nghiệp! Quá tai hại! Quá đau
lòng!... Đại họa này đều do chính người thân của bà cụ tạo ra cho bà. Thật là
một bài học đáng giá.
Cưỡng bức người sắp chết là điều tối kỵ, là mối đại họa cho ngưòi chết. Mong
chư vị nhất định chớ phạm đến lỗi này.
Cho nên, người niệm Phật cầu vãng sanh cần phải nghiên cứu tường tận phương
pháp hộ niệm. Đừng bao giờ tự nghĩ rằng công phu tu tập đã đủ, mình sẽ đạt đến
cảnh giới "Nhất tâm bất loạn", tự tại vãng sanh.
Nghiệp chướng của chúng ta lớn lắm. Oan gia trái chủ cũng khá nặng. Tất cả oán
nạn này đang thừa cơ duyên gây chướng ngại.
Vậy thì, phải tự lực tu hành, Tín-Nguyện-Hạnh niệm Phật phải kiên cố không thối
chuyển, là điều chắc chắn không thể lơ là. Bên cạnh, những tha lực, hoàn cảnh,
sự hỗ trợ của người thân, của đồng tu cũng phải chú tâm phát triển tốt. Nghĩa
là, khuyên giải con cháu đồng thuận, làm tờ di chúc, kêu gọi đồng tu hộ niệm,
tập buông xả tối đa... Càng thuận lợi càng an tâm.
Tóm lại, nếu nhiều người biết về phương pháp hộ niệm thì nạn tai này sẽ giảm
thiểu.
Diệu Âm
Hỏi số 30:
Trong một buổi nói chuyện trao đổi kinh nghiệm về phương pháp HỘ NIỆM, có một vị thầy đưa ra một câu hỏi. Sau khi Hộ Niệm cho một người BAN HỘ NIỆM sẽ kiểm tra xem điểm nóng cuối cùng ở đâu, để biết người được HN có được Vãng Sanh hay không? hay sanh về cảnh giới nào? Nhưng căn cứ vào Kinh sách nào của Phật để nói về những điểm nóng này mà Thầy đã tu mấy chục năm rồi vẫn chưa đọc qua.
Trả lời:
Điểm chính yếu để một người được
vãng sanh về Tây Phương Cục lạc chính là Tín Nguyện Hạnh đầy đủ. Một
người giữ vững ba điển này cho đến giây phút cuối cùng thì sẽ được như nguyện.
Trong kinh A-Di-Đà, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Niệm Phật
Ba-la-mật, v.v... nói đến thật rõ ràng. Xin tự xem kinh lấy.
Một khi người được vãng sanh thì sau khi ra đi thường thường để lại những hảo
tướng, nghĩa là thoại tướng rất tốt, như thân xác mềm mại, nét mặt vui tươi,
sắc diện hồng, đôi lúc có hương, có quang minh, có hoa nở, có chim tụ lại. Có
người biết trước ngày giờ xả bỏ báo thân, có người báo cho biết là A-di-đà Phật
cùng Thánh chúng đã đến tiếp dẫn họ, v.v...
Những thoại tướng này có lúc nhiều, có lúc ít, có người có hầu như đầy đủ, có
người rất khó phân biệt. Sở dĩ khác nhau là do phẩm vị vãng sanh sai khác.
Trong một giảng ký của HT Tịnh Không, Ngài nói rằng, người vãng sanh Thượng
Phẩm nhiều khi họ biết trước 2->3 năm trước, họ xác định được ngày giờ vãng
sanh một cách chính xác. Rất nhiều vị Tổ niệm Phật họ ra đi giống như sự biểu
diễn, nhiều lắm. Xin xem trong các sách về Tịnh độ để lại. Đúng sự thật chứ
không ai nói thêm dể phải mang tội "Vọng ngữ đâu".
Ông Cô-Lô-Giang vào khoảng thập niên 40 thế kỷ 20 đứng vãng sanh 3 ngày mới hạ
xuống để lo hậu sự. Cụ Hạ Liên Cư cũng đứng vãng sanh, ông Trịnh Tích Tân ngồi
vãng sanh. Mới đây Thượng tọa Thiện Xuân (Chùa Hồng Liên) kể lại chuyện vãng
sanh của HT sư phụ thầy trước khi vãng sanh còn thuyết pháp, dặn dò đệ tử, xong
ngồi vãng sanh. Nhiều lắm, không phải ít đâu. Chỉ vì mình phước mỏng quá không
thấy đó thôi.
Những người vãng sanh trung phẩm có thể biết trước ngày giờ từ mấy tháng cho
đến hơn một năm. Có người biết trước một vài tuần cũng đã ngon lành rồi.
Nhưng, biết trước ngày giờ chết cũng không hẳn là được vãng sanh Tịnh độ. Người
vãng sanh mà biết trước thì tốt.
Nhưng nên nhớ cho, người biết trước ngày giờ chết, cũng chưa chắc sẽ vãng sanh
về tới Tây-phương Cực Lạc. Hai sự việc này khác nhau.
(Ví dụ, hôm tháng 3/2009, khi qua Mỹ, trong khoảng thời gian đó, chính Diệu Âm
có hay tin, một vị tu Mật tông đã biết ngày giờ ra đi. Người ta gọi là vãng
sanh Tịnh độ. Nhưng thực ra, nếu vị đó phát nguyện sanh lại làm người để tiếp
tục tu hành, thì không thể nào được về Tây Phương Tịnh độ được, dù sự ra đi có
an nhiên thoải mái!).
Ra đi ngon lành là do công phu tu tập, tinh thần thanh tịnh, nghiệp chướng nhẹ,
phước đức tăng trưởng. Còn vãng sanh Tây Phương cực lạc là do Tín-Nguyện-Hạnh.
hai cách tu khác nhau. (Chuyện này đã bàn quá nhiều rồi).
Người vãng sanh các phẩm hạ không được tự tại như vậy đâu! Trong kinh Vô lượng
thọ nói, ".
..mộng kiến bỉ Phật diệc đắc vãng sanh". Nghĩa là,
tự họ thấy trong những lúc mê mê, không đủc sức khai báo với mọi người, nhưng
vì Tín Tâm vững, Nguyện tha thiết họ vẫn được vãng sanh.
Những điểm ấm còn sót lại trên thân xác là do điểm xuất ra cuối cùng của thần
thức. Nếu xuất ra trên đỉnh đầu là điều rất tốt. Nếu để lâu quá, thì hơi ấm sẽ
lạnh dần, nhiều lúc cũng khó nhận ra.
Điểm nóng dù sao cũng chỉ bổ túc thêm phần thoại tướng tốt. Càng tốt chừng nào
càng vững tâm hơn. Còn chư Tổ Sư, trong kinh Phật luôn luôn nhắc nhở việc TÍN-NGUYỆN-HÀNH
vãng sanh. Những thoại tướng được ghi lại là kinh nghiệm thu thập được qua
hàng ngàn năm tu hành của quý Ngài. Đây là thân chứng vậy.
Chư Tổ Sư đều là chư Phật Bồ tát thị hiện, lời nói của các Ngài chắc chắn có
giá trị. Xin chớ hoang mang!
Tuy nhiên, nếu được vãng sanh trong thời khoảng hộ niệm thì hầu như đều được
mềm maị, tươi hồng, nhìn nét mặt rất vui vẻ, an nhiên. Còn được siêu sanh về
Cực lạc sau thời gian đó thì làm sao biết được? Chắc chắc cũng có, nhưng không
bảo đảm, khó kiểm chứng hơn.
Một cuốn sách tên là, "Những điều cần biết lúc lâm chung" của
Phật giáo Đài loan phát hành có nói rất rõ những điểm này. Các vị viết ra toàn
chư vị Tổ Sư, người có đức cao trọng vọng, uy tín trong Phật giáo, nhất là Tịnh
độ tông, đã nghiên cứu từ trong kinh điển, từ những kinh nghiệm đã vãng sanh.
Rất cần thiết cho người học đạo như chúng ta.
Tập sách "Quy tắc trợ niệm lúc lâm chung và pháp ngữ khai thị",là
phần trích ra từ cuốn sách đó. Hãy thử đọc kỹ càng đừng coi lướt nhé, toàn bộ
là pháp ngữ của chư Tổ Sư. Các Ngài y kinh mà nói ra đó.
Người tin thì phải tin cho vững để cứu người cứu ta. Người nào không tin thì họ
có quyền bỏ hộ niệm. Chớ nên lo lắng điều này! Tất cả đều tùy duyên chúng sanh.
Không ai có thể ép buộc được.
Người nào muốn chết thì cứ việc chờ chết! Ai muốn vãng sanh về với Phật A-Di-Đà
thì lo niệm Phật A-Di-Đà Phật cầu về Cực Lạc.
Chưa đủ, phải chuẩn bị sự hộ niệm thật cẩn thận, chớ nên lơ là.
Hãy thử so sánh mà quyết định:
-Một người chết trong mê mê mờ mờ, lo âu buồn bã!... So với người an nhiên, vui
vẻ, tư tại ra đi. Ai hơn ai?
-Một người đi xong thì ác tướng hiện ra, sắc mặt hãi hùng... nhìn thấy phải
phát sợ! Với người ra đi để lại thân tướng tươi hồng, nét mặt mỉm cười, tướng
hảo bất khả tư nghì! Ai hơn ai?
-Một người khi chết xong thân xác cứng đơ, chẳng mấy chốc thì mùi tử khí bôc
lên, liệm vào hòm không kịp thì ai đi ngang cũng muốn buồn nôn! Với người ra đi
mà hương thơm thoang thoảng, hoa nở, chim kêu, để vậy niệm Phật 3-4-5-6... càng
niệm càng tươi, càng niệm càng đẹp, càng niệm càng thêm có điều hay lạ... Ai
hơn ai?
Hầu hết đều nhờ công đức hộ niệm đó.
Xin hỏi, một người tự cho là tu hành tốt, liệu khi mãn đời có được thoại tướng
như vậy không? Hãy tìm hiểu cho thật kỹ để được sáng suốt hơn.
Ta được thành đạo hay không do chính ở quyết định ngày hôm nay vậy.
Hỏi 2:
Khi HN xong BHN sẽ kiểm tra xem người được HN có được vãng Sanh không?
Điều này căn cứ vào các thoại tướng như mắt nhắm, miệng khép ,tay
chân mềm.v.v.. hay là căn cứ vào điểm nóng ở đỉnh đầu để xác định.
Vì có nhiều thành viên trong các BHN cho rằng thân thể mềm là VS.
Trả lời:
Không thể vội vã vin vào việc thân xác mềm mại là xác định vãng sanh, mà thân
thể mềm mại là một trong những thoại tướng tốt, bảo đảm thoát được 3 đường ác.
Như được mềm mại là điểm vui mừng đầu tiên.
Người được vãng sanh thì chắc chắn có thân xác mền mại, chứ thân xác mềm mại
chưa hẳn đã được vãng sanh.
Nếu người bệnh trước giờ phút ra đi mà đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh nữa thì thêm được
yếu tố vãng sanh vững chắc.
Tổ Ngẫu Ích dạy, "Được vãng sanh cùng chăng đều do Tín và Nguyện có hay
không, phẩm vị thấp hay cao đều do niệm Phật sâu hay cạn".
Vậy thì, người tin tưởng vững chắc, tha thiết phát nguyện sẽ được vãng sanh.
Người ra đi bị nghiệp chướng hành hạ, họ niệm Phật không nổi, thì người hộ niệm
giúp hộ giữ câu Phật hiệu mà niệm. Nếu người đi có tin có nguyện, người hộ
niệm cũng có tin có nguyện. Khi xả bỏ báo thân xong với thoại tuớng đó, giúp ta
vững tin rằng, nhất định đã được cảm ứng, nghĩa là có xác xuất vãng sanh rất
cao.
Tổ Ấn Quang dạy, "Vì nương theo Phật lực nên tất cả mọi người, không kể
nghiệp nhiều hay ít, không kể công phu cạn hay sâu, miễn TIN cho chắc, NGUYỆN
cho thiết, muôn người tu muôn người được vãng sanh".
Tất cả Tổ sư đều nói cùng một ý. Chắc chắc quý Ngài không gạt ta đâu. Vì sao
vậy? Vì quý Ngài nói toàn trong kinh Phật ra hết. Hãy dành chút thì giờ coi lại
các kinh điển Tịnh Độ sẽ thấy rõ ràng. Thấy rõ rồi thì nên mau mau "Đoạn
nghi sanh tín". Tự mình đoạn, không ai có thể đoạn thế cho mình được!
Chư Tổ là các bậc long trượng, uy đức cao dày mà còn dám nói rằng, "môn
người niệm Phật muôn người vãng sanh". Còn ta toàn là hạng phàm phu ngu
muội, mà lại dám nghi ngờ rằng, các Ngài nói sai à?
Ta thì quyết tâm hộ niệm, người ra đi quyết lòng vãng sanh. Như vậy, đã đúng
với lời khai thị cửa chư Tổ, đã ứng hợp trọn vẹn lời thệ của Phật, thì lý do gì
mà không được vãng sanh? Nếu không được vãng sanh chẳng lẽ Phật A-di-đà phát
thệ cho vui sao?
Còn người nào muốn biết cho chắc, thì khuyên rằng, hãy khôn ngoan TÍN NGUYỆN
cho vững, rồi NIỆM PHẬT cho chuyên đi, để được vãng sanh về cõi Tịnh. Vãng sanh
xong thì sẽ biết liền. Chứ bây giờ đòi hỏi ai đó phải tuyên bố kết quả làm chi?
Chẳng lẽ một người nào đó tuyên bố thì mới được vãng sanh sao?
Phàm phu đòi hỏi phàm phu chịu trách nhiệm thật khá buồn cười! Không khéo, chỉ
vì một chút yếu đuối của niềm TIN mà dẫn tới chỗ mất phần vãng sanh, thì oan
uổng công phu tu hành lắm đó!
"Tín năng siêu xuất chúng ma lộ
". Không có niềm tin nhất định
bị mất phần thoát vòng sanh tử luân hồi!
Một người khi đã chết rồi mà mắt từ từ nhắm lại, sắc tướng từ từ chuyển đổi trở
thành tốt đẹp, nhiều khi còn đẹp hơn lúc còn sống. Chẳng lẽ đây chuyện dễ tìm
được lắm sao? Trên thế giới, mỗi ngày có hàng triệu người chết, hãy bỏ công đi
điều tra thử coi, có mấy ai được vậy không?
Chúng sanh vô biên hàng giờ đều bị tai họa, nay nhờ gặp được pháp hộ niệm nhiệm
mầu mới cứu được một ít người hy hữu. Thấy vậy, đáng lẽ phải vui lên chứ, phải
tận lực để làm chứ, tại sao lại để tâm nghi ngờ? Chẳng lẽ muốn chết cho thật
khổ đau như tất cả mọi người mới thõa mãn à?
Thật tội nghiệp cho chúng sanh!
Văn Tập phải vững lòng tin, và thương hại cho những người phước mỏng nghiệp
nặng vậy!
Như vậy, người bệnh được vãng sanh hay không thì để chư Phật Bồ-tát lo đi.
Chính ta đừng để bào mòn niềm tin, rơi rớt công đức hộ niệm nhé.
Hỏi 3:
Một thành viên khi đi HN có được hoài nghi rằng : không biết mình đi HN
người này có được VS không?
Hoặc nghĩ rằng : đi HN với tâm chân thành thì người được HN sẽ VS.
Trả lời:
Câu hỏi này quá hay!
Người hộ niệm phải giữ lấy vế thứ hai, bỏ hẳn ý nghĩ đầu. Nghĩa là đừng bao giờ
cho rằng đi hộ niệm là vô ích. Phải thành tâm, chí thành, chí kính mà hộ niệm
cho người có duyên.
Đừng có tâm trạng chủ bại, hồ nghi nữa. Đem tâm hiếu kỳ, chao đảo, phân vân...
đi hộ niệm, sẽ gây ra ảnh hưởng không tốt trong các buổi HN. Có thể vì vậy mà
làm mất phần vãng sanh của chúng sanh.
Tin thì tham gia, không tin, thì tốt nhất, nên rút lui khỏi BHN.
Chắc chắn, nhân nào quả đó. Không tin sẽ có quả báo không tin. Đến lúc chính
mình chết mới biết thế nào là giá trị của Hộ niệm.
Đừng để quá trễ!
Diệu Âm
Hỏi số 31:
A Di DA Phat.....em có câu hỏi này không biết có nên hỏi hay không em bị vô minh che lấp và phiền não thì vô tận......không biết tại sao em có cái nghi vấn cái tâm của chúng ta từ đâu ?
Trả lời:
Đạo ở chỗ bình thường nhất, chứ đâu
phải là chuyện xa vời! Đói thì ăn, khát thì uống, nóng thì quạt, lạnh thì
sửi... cứ làm vậy đi thì thoải mái hơn.
Những điều vui vẻ nhất đang ở sát bên mình mà không chịu hưởng, lại cứ chạy
lung tung tìm những điều xa vời làm chi cho sanh phiền não vậy?
Đạo ở ngay chỗ tâm tạo. Muốn ở lại trong lục đạo này chịu khổ thì cứ bám vào
thế tục này mà tranh chấp với nhau, muốn vãng sanh thành đạo thì thành tâm niệm
Phật cầu sanh Tịnh-độ. Như vậy lo niệm Phật không hay hơn sao?
Muốn được quả báo tốt lành thì lo làm thiện lành, đừng làm ác. "Nhân
duyên quả báo tơ hào không sai", hãy lo làm việc thiện lành thì lo gì
sẽ không có quả báo thiện lành. Chứ còn cứ lo tìm quả báo thiện lành thì đã làm
điều ngược ngạo, giống như trồng cây ngược mà trông cho có quả tốt được sao?
Phiền não nhiều là do nghiệp nhân nặng. Biết nghiệp nhân thì hãy lo tạo phước,
đừng nên nương vào nghiệp nữa, thì cuộc đời này mới có cơ hội thoát khổ được
vui!
Ngài Liên Trì đại sư có dạy đại ý như vầy, người mà cứ nghĩ đến nghiệp chướng
quá khứ, thì tâm này đang duyên với nghiệp. Nghiệp này, nghiệp nọ, vô lượng vô
biên nghiệp sẽ thay phiên nhau hiện ra, trùng trùng duyên khởi, thì tâm sẽ bị
trói buộc vào đó, rất khó có cơ hội giải thoát!
Phải biết buông nghiệp ra mà lo trói mình với câu A-Di-Đà Phật hiệu. Phải biết
buông lục đạo ra mà bám vào cõi Tây phương. Đó mới là an toàn.
Như vậy phiền não từ đâu có vậy? Từ chỗ không chịu biết đủ. Không chịu biết đủ
thì lúc nào cũng cảm thấy thiếu thốn, bị thiếu thốn thì tâm không bao giờ được
an lạc. Không được an lạc thì thường xuyên mong cầu có được cái này cái khác.
Mong cầu mãi thì có năng lực nào cung ứng đủ cho mình... Từ đó sanh ra phiền
não!
Như vậy phiền não này thực ra chỉ là giả! Là giả mà mình cứ chấp vào giả nên nó
thành ra thực. Đã thực rồi thì nó quần mình đến điên đảo, đến chóng mặt, đến
tối mù! Tự mình làm khổ cho mình đó thôi!
Đời mạt pháp này có ai là hàng thượng căn, thượng trí? Đã là hạng hạ ngu rồi
thì ai tránh khỏi bị vô minh che lấp? Vây thì chuyện vô minh che lấp là việc
đương nhiên, ai cũng bị vướng cả. Xin đạo hữu chớ nên buồn phiền hay tự trách
về chuyện này làm chi.
Có điều đáng nên phân giải là, cùng một môi trường mà có người vui, người buồn,
có người sướng, có người khổ, có người an lạc, có người phiền não... Tại sao
vậy?
Tất cả đều do chính mình tạo ra, nó từ trong lòng của mình hiện ra đó.
Như vậy, hãy tập buông bỏ nhiều một chút thì từ từ những phiền não sẽ hết dần
đi.
Những chuyện hôm qua thì đã qua rôi, xin để nó qua luôn đi. Chuyện ngày mai
chưa tới, chớ nghĩ tới nữa. Hiện tại đây, hãy vui vẻ sống, tập buông xả nhiều
một chút. Nếu có lúc suy nghĩ vẫn vơ, hãy cố gắng đề khởi câu "A-Di-Đa
Phật". Nếu có thể hãy niệm ra tiếng thì tốt hơn niệm thầm. Cứ niệm Phật,
niệm tới đi, đừng nêu lên vấn đề gì cả, thì tự nhiên mọi trở ngại sẽ được giải
quyết.
Buông xả mới có sự tu hành tốt. Những cái gì cao xa xin chớ cần bận tâm quá,
hãy thực tâm niệm Phật, bớt những thứ mong cầu của thế gian, thì tâm sẽ được
thanh tịnh.
Ví dụ, như câu hỏi Tâm từ đâu có? Những câu hỏi này khó trả lời lắm! Xin nói
gọn để an được cái tâm phần nào mà thôi, chứ không thể viên mãn!
Một là "Chơn-Tâm" hay là "Linh-Tri-Tâm". Đây
là Chơn-Tâm tự tánh của chính mình. Cái Chơn-Tâm này ở khắp mọi nơi, chỗ nào
cũng có. Vì chỗ nào cũng có nên nó không ở một chỗ nào cả. Muốn biết Chơn Tâm ở
đâu, chỉ khi nào thành Phật rồi mới thấy. Ta chưa thành Phật thì chưa thấy Chơn
Tâm đâu.
Như vậy câu hỏi này đưa chính mình vào sự bế tắt! Tự mình dẫn mình vào sự bế
tắt là tự tạo ra phiền não cho chính mình vậy. Không tốt!
Hai là, thấp hơn một bực, gọi là "Duyên-Lự-Tâm". Tâm này thì
dễ thấy, dễ cảm nhận hơn. Hễ có suy nghĩ, có buồn khổ, có ghét thương, có tính
toán, có giận hờn, có phiền não, v.v... là biết có tâm. Chính cái "Duyên-Lự-Tâm"
nó điều khiển những sinh hoạt này. Đây là cái tâm tạo nghiệp lục đạo. Ví dụ cụ
thể, như đạo hữu nói, đang bị nhiều phiền não, thì đây chính là đang bị cái
Duyên-Lự-Tâm nó quậy phá đó. Liệng nó đi thì hết phiền não thôi.
Ba là, còn một cái tâm nữa, dễ thấy, có thể chụp hình được, gọi là "Nhục-Đoàn-Tâm",
tức là cái cục thịt cân nặng cỡ 1/2 kg, nó ở giữa lồng ngực phía bên trái. Thế
gian gọi là "Trái Tim". Trái tim của con người nó gần giống
như trái tim con heo, cỡ đó. Hỏi bác sĩ họ sẽ nói rõ hơn.
Tâm, Phật, Chúng-sanh
tuy ba mà một. Tâm này là Chơn-Tâm, chứ không phải
là cái tâm đang suy nghĩ đử thứ, cũng không phải là cục thị 1/2 kg. Chúng sanh
nào cũng có Chơn-Tâm này. Chơn-Tâm này chính là Phật. Cho nên, mới nói, tuy ba
mà một là vậy. Khi ta thành Phật rồi thì sẽ thấy được Chơn-Tâm.
Bây giờ chúng ta còn là phàm phu, cái Chơn-Tâm này đã bị che lấp rồi, tìm không
ra đâu. Hãy thành tâm niệm Phật thì tự nhiên một ngày nào đó Chơn-Tâm sẽ tự
hiển lộ.
Chúc an nhiên niệm Phật.
Diệu Âm
Hỏi số 32:
Khi con vật mình nuôi trong nhà đã quá già, không còn ăn uống gì được,mình có nên nghe lời Thú Y để họ chích cho nó một mũi thuốc cho nó được ngủ vĩnh viễn, hay cứ để nó chết tự nhiên vì già yếu, bịnh tật và đói khát ?
Trả lời:
Học Phật phải nghe theo lời Phật
dạy, nghe theo lời chư vị Tổ sư, Cao Tăng đại đức dạy, chứ sao lại nghe theo
lời người thú y, người thế gian?
HT Tịnh Không dạy, chúng ta không được đọan sanh mạng của một chúng sanh nào.
Nếu đoạn sanh mệnh của chúng thì ta bị tội sát sanh.
Sống chết đều có số phần, tất cả đều có nhân duyên quả báo, chúng ta không nên
phan duyên, đừng làm những hành động sơ suất, mất tự nhiên, mà coi chừng kết
nghiệp chẳng lành!
Đi hộ niệm, nhiệm vụ của người hộ niệm là niệm Phật, khai thị, hướng ngưởi bệnh
quyết lòng buông xả, niệm Phật cầu A-Di-Đà Phật phóng quang tiếp độ vãng sanh.
Còn việc sống hay chết, đi sớm hay đi muộn, đau khỗ hay an nhiên thì phải thuận
theo Nhân-Duyên-Quyả báo của người đó. Đừng nên thấy người bệnh dây dưa nhiều
ngày, hay đau khổ quá mà ta tìm cách đoạn sanh mệnh của họ. Điều này phạm tội.
Không tốt!
Thấy con vật đang trong cơn hấp hối cũng vậy. Chúng ta hãy thành tâm hộ niệm
cho nó. Nên nhớ, tất cả chúng sanh đều có Linh-Tri. Đã là Linh-Tri thì với
Thánh không tăng, với phàm không giảm, với người không cao, với vật không thấp.
Ngộ thì thành Phật Bồ-tát, mê thì thành bàng sanh, thú vật... nhưng Linh-Tri
vẫn là Linh-Tri không thay đổi.
Cho nên, trước những ngày giờ chúng xả bỏ báo thân, chúng ta hãy nên dành thời
giờ ngồi bên cạnh niệm Phật cầu Phật gia trì, thành tâm khai thị hướng dẫn,
thành khẩn khuyên nhắc chúng niệm Phật cầu nguyện vãng sanh. Chính mình cũng
cầu nguyện cho chúng sớm xả bỏ cảnh giới súc sanh, vãng sanh Tịnh độ. Thành tâm
có thể được linh ứng.
Hãy săn sóc chúng cẩn thận, đầy tình thương yêu, chớ nên coi chúng như loài
vật.
Ngoài giờ niệm Phật hộ niệm, nên có một máy niệm Phật, mở luôn luôn cho chúng
nghe, khuyên chúng niệm Phật theo và khẩn cầu Phật lực gia trì tiếp độ vãng
sanh. Rất nhiều con vật đã được cảm ứng và vãng sanh, thoại tướng để lại bất
khả tư nghì! Đây là sụ thật.
Khi chết xong, nếu có thể được, chúng ta cũng nên niệm Phật hộ niệm cho chúng 8
giờ. Sau đó đem chôn cẩn thận. Mỗi buổi cộng tu cũng thành tâm hồi hướng công
đức cho chúng. Làm được như vậy thì chúng ta không sợ sai với chánh pháp.
Hãy cố gắng vì lòng từ bi, vì lương tâm của người chủ, vì cái duyên gặp nhau
trong đời này. Người hiểu đạo hãy nương theo chánh pháp mà làm, chắc chắn chúng
sẽ được lợi lạc, còn được vãng sanh hay không là tùy theo phước phần của chúng.
Đây mới thực là thương yêu đúng nhất vậy. Xin đừng chao đảo tinh thần bởi những
lý luận của người thế gian.
Diệu Âm
Hỏi số 33:
Cách
đây một tuần, LH có gửi mail, hỏi ý kiến của Sư huynh để hộ niệm cho bác Nguyễn
Thị Hùng, 92 tuổi, mẹ nuôi của LH. bác này đã tu tập cả đời Bác, nhưng từ ba
năm nay, trở bệnh nặng, nhất là từ ba tháng nay, Bác không tự đi đứng được nửa,
ăn thì vẩn ăn được, nhưng lúc nào củng có vẻ mệt mỏi, khi LH đến tụng kinh cho
Bác nghe, phải lay Bác để bác tỉnh ngủ, nhưng nhiều khi mở mắt ra, thì củng
nhắm lại ngay, hình như là bác mêt mỏi, không thiết gì nửa...LH thương Bác lắm,
tự hỏi, nếu bác ra đi, mà tâm không nhớ Phật thì công trình tu tâp của bác củng
như không sao Sư Huynh?
Mổi ngày, LH tụng cho bác nghe kinh Vô Lượng Thọ, từ phẩm 32 đến phẩm 37, sau
đó 3 chuổi NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT, Theo Sư Huynh, LH tiếp tục như vậy, hay tụng
kinh khác???
Mổi lần đến, LH ngồi bên giường bác, gỏ mỏ, đánh chuông, lâu lâu sờ mặt Bác,
nhăc bác nhớ Phât, có ngày LH hỏi bác nghe không thì Bác nói có, vậy là bác
không phải hôn mê đâu, làm như bác không thiết gì nửa, nên cứ nhắm mắt hoài...
lần nửa làm rộn Sư Huynh, nhưng LH lo quá, các con bác đều lai Tây, anh chị ấy
không biết gì hết về tống táng, nên tứ lâu lắm rồi, bác đã dặn dò LH mời Thày
nào cho Bác,v...v...tháng 3 này LH đi qua Úc thăm má LH ở Perth, đến 15/04 mối
về, Lh sợ không biết có trể quá khong?
Xin cám ơn Sư Huynh trước NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Trả lời:
Người già như trái chín cây, hãy mau
mau lo liệu chớ nên lơ là!
Thế gian người thọ đến trên 90 cũng đã quá cao, bao nhiêu khổ cực của cuộc đời
này cũng đã quá đủ rồi. Mau mau hãy chán chê nó đi để quyết định cho tương lai!
Điểm đầu tiên là người đã tu tập suốt đời, nhưng sau cùng cũng không thoát khỏi
nghiệp chướng báo hại. Đây là một bài học thích đáng cho mọi người.
Tu thì tạo phước lành, phước lớn thì được hưởng phước. Phước này nếu có thì
hưởng được phước báu nhân thiên. Không tu thì tạo nghiệp xấu. Nghiệp xấu này
gây chướng ngại cho đường giải thoát.
Nhưng so sánh ra, một người trong thời mạt pháp này có nghiệp xấu ác nhiều lắm.
Chính vì thế, dù có tu nhiều nhưng phước lành cũng khó đè bẹp nghiệp xấu. Hơn
nữa, việc tu hành đời này chưa đủ duyên để kết thành quả tốt để hưởng, trong
khi đó coi chừng nghiệp nhân trong quá khứ đã hợp được duyên mà phát sinh ra,
dẫn vào các đường xấu ác để thọ khổ.
Chính vì vậy, tu hành phải biết cách tu mới có cơ hội giải thoát cảnh tử sanh.
Nếu sơ ý, sẽ mãi mãi lần quần trong cảnh luân hồi đau khổ. Tệ hơn nữa, nếu rơi
vào tam ác đạo thì sự đau khổ này làm sao diễn tả cho nên lời!
Vậy thì tu cách nào đây? Câu hỏi của cô Liên Hương thật là hay: nếu bác ra đi,
mà tâm không nhớ Phật thì công trình tu tập của bác cũng như không sao?
Muốn nhớ Phật thì ngày ngày phải niệm Phật, niệm mãi, niệm mãi. Cứ A-di-đà Phật
mà niệm, niệm thành thói quen, không cần tìm hiểu gì thêm nữa, thì cuối cùng sẽ
nhớ Phật thôi.
Nhất định đừng rời câu Phật hiệu "A-di-đà Phật" nhé.
Một ý niệm cuối cùng quyết định đời kiếp tương lai. Tu suốt đời nhưng không xác
lập rõ đường đi, nẻo về, cứ loay hoay trong nghiệp nhân quả báo thì sau cùng
cũng tùng theo nghiệp nhân quả báo mà thọ sanh, nghiệp nào mạnh nó lôi mình đi.
Đi theo nghiệp thì làm sao thoát được nghiệp để vượt tam giới, thoát tử sanh?
Phải xác định đường đi điểm về ngay bây giờ đi, chứ không phải chờ đến lúc sắp
chết rồi mới tính. Coi chừng quá trễ đó, ân hận cũng thành thừa!
Tu thiện thì tạo nghiệp thiện, nhưng đừng quên điều này, là nghiệp chướng của
chúng sanh thời này đã quá nặng, căn cơ đã quá thấp, trí huệ bị che lấp, v.v...
Trí huệ đã bị che lấp nên thường mê mờ, nhiều vọng niệm, vọng tưởng sai lầm
khởi phát ra, hướng dẫn tới những hướng đi sai lầm!.... Chính vì thế, dù có
đang tu tập vẫn có thể thường tạo nên nghiệp nhân xấu ác như thường!
Môt chứng minh cụ thể, là có người tu hành suốt cả đời nhưng sau cùng ngày ra đi
vẫn bị mê man bất tỉnh, xuôi tay buông thần thức trôi theo dòng nhiệp lực.
Tại sao vậy? Nghiệp chướng nặng.
Nếu không bị mê man bất tỉnh, thì chính họ nhiều lúc cũng không biết điểm về là
đâu, đường nào giải thoát, đường nào luân hồi!... Chắc khó tránh khỏi những cạm
bẫy hiểm nghèo của oán thân trái chủ!
Tại sao vậy? Sát sanh hại vật nhiều quá, ma chướng nhiếu quá.
Như vậy, dù có tu cũng chưa chắc thoát nạn! Tu nhiều có phước, nhưng có phước
mà không biết đường giải thoát, thì nhiều lắm cũng hưởng một chút phước hữu lậu
nhân thiên nào đó ở đời sau, vẫn còn trong cảnh lục đạo luân hồi, chưa thoát
được đại nạn!
Tu hành mà cứ nhắm đến những cảnh giới trong sáu đường sanh tử thì thật sự còn
quá sơ sót vậy!
Lý luận hay, kiến thức giỏi... không phải là ngộ đạo đâu. Vin vào đó coi chừng
chúng sẽ là những mảnh ván kiên có kết thành cái hòm thật chắc, gói trọn huệ
mạng của mình, chôn vùi trong cảnh sanh tử khổ đau vạn kiếp đó!
Phải huân tu câu A-di-đà Phật, đó là đường đi. Phải phát nguyện vãng sanh hằng ngày,đó
là điểm về. Phải xác định rõ ràng đường đi, điểm về thì ngày mãn phần đâu sợ gì
lạc đường nữa?
Phải lo trước, đừng để tới đường cùng rồi mới tính. Không có phép mầu nào đặc
biệt dành cho ta đâu..
Trở lại tình trạng của cụ.
Đây có lẽ là bệnh già, Cụ sẽ yếu dần yếu dần để chờ chết. Sự mệt mỏi là sự
đương nhiên, không cần ngại.
Hãy lựa lúc nào cụ thức dậy, tỉnh táo nhất, không ngủ để hộ niệm. Lúc cụ ngủ
thì cần có người bên cạnh niệm Phật, nếu cụ tỉnh lại thì lợi dụng lúc đó mà vui
vẻ khuyến tấn, nhắc nhở, khuyên cụ mau mau buông xả tất cả, thành tâm niệm Phật
cầu vãng sanh Tây-phương cực lạc.
Hãy nói rõ với cụ, đến giờ phút này, nếu không chịu niệm A-di-đà Phật, thì nhất
định không còn lối thoát an toàn. A-di-đà Phật phát 48 đại nguyện độ tất cả
chúng sanh, trong đó chắc chắn có cụ. Cụ tin tưởng niệm Phật cầu vãng sanh thì
được vãng sanh. Vãng sanh thì thành đạo, sẽ sung sướng. Nhất định không bị
chết.
Nếu cụ Không tin tưởng, không chịu niệm Phật, không muốn vãng sanh thì chắc
chắn sẽ bị chết. Không ai cứu được. Chết thì bị đọa lạc! Ngàn vạn kiếp bị khổ
đau! Dễ sợ lắm!
Chính cụ phải tự niệm Phật, tự phát nguyện vãng sanh.. Không ai ép buộc cụ
được.. Chúng ta chỉ khuyên, dùng nhiều tâm lý khuyên nhắc. Đừng làm điều gì gây
phiền não cụ. Chúng ta tận sức, nhưng phải biết tùy duyên.
Không nên nôn nóng, hấp tấp. Ví dụ, vì gấp muốn cụ niệm Phật mà cứ mãi đánh
thức cụ dậy sẽ không tốt, vì nên nhớ cụ đang yếu đuối, đang mệt lã người. Nếu
sơ ý cứ bắt cụ thức dậy để niệm Phật thì làm cho cụ bực mình, tự ái, bất cần,
phiền não... Không tốt!
Tìm một cái máy niệm Phật để bên cạnh để cụ được nghe thường xuyên câu Phật
hiệu để nhập dần vào tâm.
Hãy tìm người biết hộ niệm đến niệm A-di-đà Phật mà hộ niệm cho cụ. BHN họ biết
cách khai thị, khuyến khích, hướng dẫn. Trong giai đoạn này, tổ chức từng đợt
niệm Phật bên cụ, khuyên cụ niệm Phật cầu sanh Tịnh độ là tốt nhứt. Hãy xem kỹ
những video hộ niệm vãng sanh để học cách khai thị, hướng dẫn, chăm sóc người
bệnh vãng sanh.
Nếu chưa từng hộ niệm qua thì tìm xem những cuộc nói chuyện về HN của Diệu Âm.
Diệu Âm chỉ có một đề tài duy nhất là "Niệm Phật - Hộ Niệm - Vãng
Sanh", nói đi, nói lại, nói tất cả những gì cần thiết liên quan đến việc
HN. Xin xem qua để tìm hiểu thêm.
Người HN phải có khả năng khai thị. Tổng quát, cần phải vui vẻ, tin tưởng, nói
năng phải thoãi mái... Nói chung luôn luôn có trạng thái tích cực, trực tiếp,
đơn giản, hết lòng nâng đỡ, động viên tinh thần người bệnh vươn lên, làm cho
người bệnh không sợ chết, coi cái chết nhẹ nhàng, hơn nữa coi việc xả bỏ báo
thân này là cơ hội tốt để giải thoát, để được sớm vãng sanh về với A-di-đà
Phật.
Khai thị là nói thẳng trọng tâm, gỡ rối tại chỗ, khuyên buông xả để niệm Phật
chứ không phải thuyết giảng đạo lý... Nhất định đừng dùng đến những danh từ khó
hiểu, hay những thuật ngữ cao siêu mà gây loạn tâm người bệnh.
Đừng có những lời nói, cử chỉ, hành động nào u sầu, buồn thảm, tức bực, lo
lắng, rơi lệ, vừa nói vừa khóc, không cần những câu chúc đẩy đưa, không cần
những lời thăm bệnh: nóng lạnh, cầu may, hỏi chuyện Bác sĩ, không cần tìm thuốc
thang chữa cầu may, v.v... vì những điều này, nếu sơ ý đưa ra sẽ tạo sự quyến
luyến, tiêu cực, sợ chết, tham chấp thân mạng... sẽ ảnh hưởng không tốt đến tâm
lý bệnh nhân.
Người thân nhân thường xuyên lạy Phật cầu xin Tam Bảo gia trì, cầu sám hối thay
cho người bệnh. Nên thường phóng sanh để hồi hướng công đức cho cụ được giải
hiều ách nạn mà vãng sanh.
Tụng kinh, tụng chú đều tốt, nhưng không tốt bằng mời các nhóm họ niệm đến
khuyên giải và hộ niệm cho Cụ. Hộ niệm là khuyên giải người bệnh mạnh dạn buông
xả tất cả để niệm Phật cầu vãng sanh, chứ không phải chờ chết rồi đến tụng kinh
cầu siêu.
Nếu không có BHN, thì người trong gia đình nên chia phiên nhau vừa chăm sóc vừa
niệm Phật với cụ. Mỗi lần có được hoặc một, hoặc hai, hoặc ba... người đều có
thể HN được.
Người bệnh phải tin tưởng, phát nguyện tha thiết, niệm Phật thành tâm, đây là
điều tiên quyết. Nếu người trong gia đình tin tưởng, quyết lòng hỗ trợ, cộng
với có sự hộ niệm tốt, thì 90% có thể cụ được vãng sanh, ra đi thoại tướng sẽ
tốt đẹp bất khả tư nghì!
Hãy tin tưởng thật vững chắc vào câu Phật hiệu A-di-đà, tin vào đại nguyện của
đức Di-đà mà cứu cụ. Nhất là phải tìm mọi cách khuyên nhắc cụ tin tưởng vào sự
cứu độ của A-di-đà Phật, buông xả tất cả để tha thiết cầu vãng sanh, cố gắng
dành hết thời gian niệm câu Phật hiệu A-di-đà. Được vậy là cơ hội cho LH cứu độ
người mẹ nuôi rồi đó.
Nếu không tin, không chịu làm theo thì Diệu Âm này không biết cách nào khác
hơn!
Ở Perth, hãy liên lạc với Niệm Phật Đường Liên Hoa, Đt: (08) 9248 1278 (nhà);
hoặc: 0413 072 924 (Mobile), liên lạc với anh Hạp, mời họ tới HN.
Chúc Cụ sớm thoát nạn sanh tử
Diệu Âm
Hỏi số 34:
Em nghe mẹ em kể anh Diệu Âm có tiếp xúc với người chị bà con bi bệnh Ung thư, nhờ thành tâm niệm Phật nên bệnh đã lui. Nhưng lai nghe anh Diệu Âm dặn rằng khi nào chuẩn bị Vãng sanh, hãy báo cho anh biết để anh tổ chức Hộ niệm từ xa. Tụi em có thể làm gì để giúp đỡ chị ấy được chắc phần Vãng sanh?
Trả lời:
Chuyến về VN 11/08, Diệu Âm đã tiếp
xúc được người chị bị bệnh ung thư mà được hết bệnh của Bác sĩ. Thật là vui!
Chị đó rất vui mừng khi gặp Diệu Âm, và nói chuyện rất nhiều về bệnh tình của
chị. Chị bây giờ rất giác ngộ đường tu hành, tin tưởng Phật pháp rất cao, rất
thành tâm niệm Phật, Diệu Âm xin kể sơ lại một đoạn nói chuyện cho Bs nghe.
Diệu Âm hỏi:
- Chị bị ung thư và bây giờ hết rồi hã? - Dạ.
- Chị niệm Phật bao lâu? - Dạ khoảng 7 tháng.
- Bây giờ Chị vui lắm phải không? - Dạ rất vui.
- Chị tin Phật pháp chưa? - Em tin tuyệt đối, em quyết định niệm Phật cầu vãng
sanh Tây phương.
- Bây giờ Chị có còn sợ chết nữa không? - Em không sợ chết, mà em cón muốn vãng
sanh sớm nữa, ở đây làm chi cho khổ. Ngày nào còn sống em niệm Phật, ngày ra đi
em theo A-di-đà Phật về Tây phương.
- .........
- Nhớ nghen, trước khi vãng sanh, nếu có thể thì chị nên cho tôi hay với, tôi
sẽ cố gắng giúp chị bằng cách giới thiệu hoặc mời những ban hộ niệm họ tới hộ
niệm cho chị. Phải cẩn thận hộ niệm mới vững tâm. - Dạ........
Câu chuyện là như vậy. Chứ tôi không có nói rằng, báo cho tôi biết để tôi tổ
chức hộ niệm từ xa đâu.
HN cho người bệnh vãng sanh cần phải ở bên cạnh bệnh nhân, khai thị, hướng dẫn,
hóa gỡ chướng nạn nếu có, và niệm Phật thành tiếng để hỗ trợ cho họ mới được,
chứ ở xa thì nhiều lắm là chỉ hồi hướng công đức mà thôi.
Trên thực tế, đã nhiều lần Diệu Âm được các BHN, hoặc thân nhân ở xa, điện
thoại tới nhờ Diệu Âm nhắc nhở hướng dẫn, khuyên giải cho bệnh nhân qua điện
thoại thì có. Đây chẳng qua vì sự nể nang, tin tưởng hoặc tình cảm mà thôi. Vì
để góp sức cứu người, tôi cũng không câu nệ, và thường vui vẻ để góp công hùn
phước tạo thêm tín tâm cho người bệnh vững tâm niệm Phật hầu được vãng sanh.
Đây là đòn tâm lý, chứ chính Diệu Âm này không có khả năng đặc biệt nào cả, Xin
Bs đừng hiểu lầm.
Người chị bị bệnh ung thư tới giai đoạn chót nằm chờ chết. Chị biết buông xả,
phát lòng niệm Phật cầu vãng sanh và được hết bệnh, thực ra chính là vì mạng số
của người chị chưa hết. Giả như chị không niệm Phật thì đến nay chị cũng chưa
chết, nhưng chị bị đau đớn đến mê man bất tỉnh, xỉu lên xỉu xuống trên giường.
Chị phải chịu cảnh khổ này qua nhiều năm tháng. Cái khổ nạn nói sao cho xuể!
Thế nhưng nhờ chị thành tâm niệm Phật, quyết buông hết để cầu vãng sanh. Do chị
làm đúng theo pháp niệm Phật nên nghiệp bệnh của chị tự nhiên thuyên giảm.
Trong pháp hộ niệm vãng sanh, chư Tổ trong Tịnh tông thường nói rằng, thành tâm
niệm Phật cầu vãng sanh, nếu thân mạng chưa hết thì tự nhiên hết bệnh. Nếu thân
mệnh đã mãn thì được Đức Di Đà phóng quang tiến dẫn vãng sanh.
Hiện tượng hết bệnh của người chị của Bs chứng minh rõ ràng việc này. Trong một
thời gian ngắn ngủi nói chuyện với chị, Diệu Âm giải thích thêm về hiện tượng
này cho chị hiểu rằng, chị hết bệnh là do lòng chí thành niệm Phật mà được Phật
lực gia trì. Thay vì chị phải tiếp tục bị đau đớn, thì giờ đây chị được thoải
mái để niệm Phật. Tôi khuyên chị hãy vững tâm niệm Phật cho đến ngày mãn cuộc
đời.
Chị có hứa sẽ quyết tâm niệm Phật cầu vãng sanh.
Trường hợp của chị, khi phần số mãn thì có thể bịnh sẽ tái phát và theo dịp đó
chị vãng sanh luôn. Rất nhiều trường hợp buông xả niệm Phật cầu vãng sanh mà
hết bệnh, có người hết bệnh 1 năm rồi tái phát để vãng sanh, có người 2 năm, 3
năm, 4 năm v.v... và đã có người niệm Phật hết bệnh luôn, hơn 15 năm qua vẫn
đang còn sống, (ví dụ như ông Lý Mộc Nguyên ở Singapore, đến nay vẫn còn sống).
Câu Phật hiệu nhiệm mầu bất khả tư nghị. Mong cho ai biết được những tin tức
này, phát khởi tín tâm vững mạnh, thành tâm niệm Phật. Thành tâm thì sẽ có cảm
ứng. Chớ nên nghi ngờ.
Cái mạng này, sống chết đã có số phần. Người thành tâm niệm Phật có thể cải đổi
mạng số. Đổi cái thân nghiệp báo thành cái thân nguyện lực. Đừng chấp vào cái
túi thịt này mà bị chết, bị khổ ải trăm bề. Hãy phát tâm cứu độ chúng sanh vãng
sanh Tây-phương Cực lạc thì cái thân này trở thành thân nguyện lực vậy.
Bây giờ, có thể làm gì để giúp đỡ chị ấy được chắc phần Vãng sanh?
Cố gắng tạo điều kiện thuận lợi cho chị niệm Phật. Nếu có thể Bs nên giúp cho
chị một NPĐ nho nhỏ, ví dụ sửa sang một căn phòng nhỏ, gọn gàng, sáng sủa trang
nghiêm để giúp chị có chỗ niệm Phật an ổn và nhân tiện chị có thể hướng dẫn gia
đình và vài người trong làng cùng niệm Phật. Chính nhóm nhỏ người này sẽ là Ban
hộ niệm giúp chị vững vàng vãng sanh, và giúp người khác trong làng khi lâm chung
được vãng sanh Cực lạc.
Công đức vô lượng,
A-di-đà Phật
Hỏi số 35:
... Thật rất tiếc KN đã không có phước để biết anh sớm hơn,
vì khoảng đầu tháng 8/2005 Ba KN & KN cùng với ... có đi một vòng thăm vài
trại mồ côi quanh Sài Gòn mà lại không nghe ... nói gì về kinh nghiệm của vấn
đề trợ niệm, sau đó không lâu thì Ba KN mất và tụi KN lại 1 lần nữa lỡ 1 việc
làm nghiêm trọng này, để đến bây giờ luôn mang trong lòng tội bất hiế'u &
nỗi ân hận dày vò đến rướm máu!
... Nên last month, khi nghe được cuốn "Khuyên người niệm Phật" của
anh, gia đình KN buồn lắm, mấy đứa em KN in ra rất nhiều đem đưa hết cho các
thầy và các sư cô nhiều chùa rồi nhắc tất cả phải nghe cho kỹ để còn làm đúng
như vậy hầu mang lại lợi ích cho người mất. Ngay cả thầy ... cũng đang xin một
số CD này.
Hầu hết ở đâu ... cũng vậy, khi Má KN mất KN đi ... xin một lời khuyên là KN và
gia đình nên làm gì để người mất được lợi ích thì 2/3 khuyên đọc kinh Địa Tạng,
1/3 khuyên đọc Kinh A Di Đà. Duy nhất "spirit" của Má KN là khuyên
tụi KN niệm A Di Đà Phật và ... khuyên nên phóng sanh và làm lễ trai tăng để
hồi hướng.
KN có nói với chị QThiện KN muốn tham dự vào Đạo Tràng của chị QThiện & KN
đang sắp xếp thời gian.
Trả lời:
Một người trong một đời này có phước phần được hộ niệm lúc
lâm chung không phải là sự ngẫu nhiên, mà do cái nhân lành tu được trong nhiều
đời liếp trước. Cho nên, được vãng sanh suy cho cùng cũng đều có nhân quả.
Chúng ta đều dựa vào nhân và duyên của một người mà giúp họ hưởng cái quả báo
tốt đẹp mà thôi.
Tin được pháp môn niệm Phật khó lắm! Một người khi gặp pháp niệm Phật cầu vãng
sanh Tịnh độ mà không tin là chuyện thường. Vì con người trong thời này rất
thiếu thiện căn. Chính vì thiếu thiện căn đã xui khiến họ nghi ngờ pháp Phật,
không chịu nương theo lời Phật dạy.. Ngược lại, những sự lý luận thường tình
của người thế gian lại hấp dẫn họ. Ví dụ: có người nói rằng, sống mà không lo
chuyện thực tế, lại cứ nghĩ đến chuyện hão huyền trong tương lai làm chi? Hoặc,
nếu có Tây phương thì Chư Phật còn phải tu vô lượng kiếp mới về tới đó để thành
đạo quả thì đâu có lý do gì một phàm phu niệm Phật một đời mà có khả năng mơ
tới, v.v.. và v.v...
Không tin vào câu Phật hiệu là do thiếu thiện căn. Thiếu thiện căn thì dù tu
tập có hay cách nào đi nữa nhiều khi vẫn chỉ lòng vòng trong những thứ phước
báu hữu lậu, giả tạm của thế gian, chứ khó có thể thoát vòng sanh tử trong đời
này.
Người thiếu thiện căn cho thế giới Tây phương là hão huyền, nhưng không ngờ
chính họ đang bám vào những điều quá hão huyền để tiếp tục chịu sự huyễn mộng
vô thường đắng cay! Đây chỉ vì mê mà mất cơ hội giải thoát vậy!
Điều con người đang nghĩ đang thấy là quá giả tạm mà ít ai ngộ ra! Khi chết đi
rồi tự họ sẽ biết thế nào là thực tế, nhìn nấm mồ hoang lạnh trong nghĩa điạ
mới biết thế nào là huyễn mộng. Người mê muội mới nghĩ rằng chết là hết. Người
giác ngộ phải hiểu rõ rằng cái xác thì rã nát dưới ba tấc đất, nhưng chính con
người đó đang bị thảm nạn khổ đau trong các cảnh khổ nào đó chứ không phải hết!
Những cái mà hôm nay họ cho là thực tế, thì thực tế này chỉ là những thứ huyễn
mộng, vô thường! Bên cạnh, những điều Phật dạy thì họ lại cho là huyễn mộng, vô
thực, xa vời... thì cái xa vời ấy lại là rất thực tế mà họ phải chịu đựng qua
hàng vạn kiếp!
Cho nên, sự khác biệt chính ở chỗ mê hay ngộ! Mê cũng ở tại tâm, ngộ cũng ở tại
tâm, chứ không phải là những thứ hào nhoáng khoe ra ngoài!
Mong cho nhiều người sớm ngộ ra đạo lý giải thoát. Đừng để quá muộn màng! Tội
nghiệp lắm!
Vì nhiều người còn mê trong cái giả tạm nên không biết đường đi, thành ra Khánh
Ngọc mới "
đi một vòng ... mà không nghe ai nói gì về kinh nghiệm của
vấn đề trợ niệm, sau đó không lâu thì Ba KN mất và tụi KN lại 1 lần nữa lỡ 1
việc làm nghiêm trọng này, để đến bây giờ luôn mang trong lòng tội bất hiếu
& nỗi ân hận dày vò đến rướm máu!...", Nghe Khánh Ngọc nói mà Diệu
Âm cũng đành ngẹn ngào!...
Nhiều người tu học Phật mà không tin lời Phật, không truyền bá ý Phật. Ngược
lại cứ đi truyền bá những thừ tư tưởng, học thuật, kiến giải... của chính mình,
của thế gian. Thậm chí có người suốt cả một đời tu học theo Phật giáo mà không
hề hay biết những điều chính yếu của Phật dạy trong đạo giải thoát giác ngộ!
Đã có nhiều lần Diệu Âm nói chuyện về hộ niệm, khi nghe đến điều này, có người
đã ân hận, đã khóc nức nở, hoặc nghẹn ngào rơi lệ, ... Họ tâm sự như vầy:
- Tôi đã làm điều sai lầm với người thân của tôi rồi!
- Nếu như tôi nghe được những lời này sớm hơn 2 tháng thì tôi cứ được mẹ tôi
rồi;
- Tôi tu hành đến nay đã 40 - 50 năm... mà chưa từng nghe qua những điều hết
sức quan trọng này!...
- v.v... và v.v.
Thật là khổ cho chúng sanh!
Có người có phước báu thì thiếu thiện căn. Có người có thiện căn thì thiếu
phước báu.
Người có phước báu, thì đường tu trôi chảy, ít chướng ngại, rất dễ tu hành,
thuận lợi nhiều mặt. Khi tu được thì họ vội tưởng vậy là đầy đủ. Nhưng có ai
ngời rằng, có phước báu mà thiếu thiện căn thì đời này dễ tu phước, khó tu huệ.
Huệ không tu thì trí huệ khó phát sinh, mập mờ đường thành đạo.
Người có thiện căn thì trí huệ phát sinh, tin lời Phật dạy, biết đường giải thoát
trong một đời này. Nhưng có trí huệ, có thiện căn mà thiếu phước báu thì đường
tu cũng thường bị chướng ngại, nhiều sự cản trở, thành ra đường thành đạo cũng
có khó khăn.
Chính vì vậy nên chúng ta cần tu cả Phước lẫn Huệ mới tốt.
Vậy xin hỏi, làm sao có thiện căn? Trong kinh Phật dạy, "Tín năng
trưởng dưỡng chư thiện căn". Thiện căn ở tại niềm tin. Có thiện căn
thì tin lời Phật, tin lời Phật thì tăng trưởng thiện căn. Hãy nhìn vào tín tâm
mà biết được thiện căn của một người.
Làm sao tu phước báu? "
Tín vi đạo nguyên công đức mẫu". Công
đức phước báu nằm ngay ở lòng tin. Người nào cho rằng mình không đủ phước báu,
thì hãy nuôi dưỡng niềm tin vào pháp niệm Phật thì tự nhiên phước báu sẽ tăng
trưởng. Phước tăng thì thiện căn cũng tăng theo, "Phước chí,Tâm
linh". (Thành tâm tu phước thiện, thì tâm hồn cũng linh thông). Như
vậy chính niềm tin là nguồn gốc tạo thiện căn và phước báu. Người có niềm tin
rồi thì nhờ đó mà được tăng trưởng thiện căn và phước báu lên.
Khi nhìn những hiện tượng xả bỏ báo thân, chúng ta có thể nhận thức khá rõ
ràng.
Một người dù ít tu hành, nhưng cuối đời phát tâm tin tưởng vững vàng vào pháp
niệm Phật và trì giữ câu Phật hiệu mà niệm là nhờ nhiều thiện căn kết tụ lại mà
có. Người cuối đời được cơ duyên gặp thiện trí thức nhắc nhở, khai thị, hộ
niệm, họ niệm Phật mà vãng sanh là nhờ có phước báu trong nhiều đời kiếp trước
tu được đưa đẩy đến.
Thiện căn nhiều thì tin tưởng mạnh. Phước báu lớn thì lúc xả bỏ báo thân hưởng
được nhiều sự an nhiên, bớt phần đau khổ. Người đủ cả thiện căn và phước đức
thì ra đì an nhiên và được vãng sanh một đời viên mãn giải thoát.
Còn nhiều người tu hành tự thấy mình giỏi, vội tự mãn với những chứng đắc(?)
của mình, không tin vào pháp niệm Phật... sau cùng thường bị mờ mịt, không biết
tương lai sẽ như thế nào?!
Nói như vậy hoàn toàn không có nghĩa là người lười biếng cũng được vãng sanh.
Xin đừng ỷ lại rằng mình có nhiều thiện căn phước đức mà coi chừng bị vướng
phải chông gai.
Người cẩn thận tu phước tu thiện sẽ dễ tạo nên cái duyên thù thắng để sau cùng
có cơ hội được hộ niệm, niệm được câu Phật hiệu vãng sanh Cực lạc.
Tuy nhiên, cũng nên nhớ điều này, người chết được an lành mà không biết đường
vãng sanh thì nhờ hưởng phước mà được thiện chung đó thôi, họ vẫn thường phải
đầu thai lại trong sáu nẻo luân hồi, chưa có phần giải thoát! Cho nên, chết an
lành không hẳn là được đắc đạo hay được vãng sanh. Rất nhiều người đã hiểu lầm
điều này!
Người có thiện căn, nhưng nếu thiếu phước báu thì khi xả bỏ báo thân khó được
an nhiên, có thể họ chịu nhiều đau đớn. Nhưng nếu họ được hộ niệm cẩn thận, ý
chí kiên định niệm phật cầu vãng sanh, thì họ cũng có cơ may vãng sanh. Hộ niệm
thật sự là đại cứu tinh vậy.
Nhiều người lý luận rằng, một vị nào đó đã tu hành khổ cực suốt đời mà chưa
được vãng sanh Tây Phương, thì làm sao một người bình thường chỉ cần được hộ
niệm mà có thể vãng sanh? Đây là vì người đó chỉ nhìn thấy Nhân-Quả hạn hẹp
riêng trong một đời này, chứ chưa hiểu rằng "Nhân quả thông ba
đời".
Ba đời là quá khứ, hiện tại, vị lai. Quá khứ là vô lượng kiếp trong quá khứ,
hiện tại là đời này, tương lai là vô lượng kiếp trong tương lai.
Quả báo tùy theo cái duyên mà có thể là hiện báo, sanh báo, hay hậu báo. Hiện
báo, hay còn gọi là "Hoa báo", là nhân đời này hưởng quả trong đời
này. Sanh báo là nhân đời này hưởng quả trong khoảng 1,2,3 đời sau. Hậu báo là
quả báo hưởng được từ cái nhân trong nhiều đời nhiều kiếp quá khứ.
Người niệm Phật vãng sanh không ngoài ba cái nhân quả này. Hơn thế nữa, được
Phật lực gia trì nên thành tựu nhanh chóng, viên mãn.
Vì nhờ cái nhân trong vô lượng kiếp trong quá khứ mà hiện tại họ hưởng cái quả
giác ngộ giải thoát này mà thành đạo, để tương lai vô chung họ đi cứu độ chúng
sanh. Lúc đó họ mới biết rõ thế nào là tu hành trong vô lượng kiếp.
Người thiếu cái nhân lành trong quá khứ thì thường mất phần giải thoát trong
đời này, để tương lai bị trầm luân trong sáu đường sanh tử. Đây là trường hợp
một chúng sanh mãi mãi không bao giờ biết được quá khứ của họ là sao?
Nhiều người tu hành mà thiếu mất niềm tin vào lời Phật dạy, làm cho thiện căn
phước báu trong nhiều đời kiếp không kết tụ lại được. mặc dầu, đôi khi họ đã có
rồi. Đây là vì hoặc vô tình hoặc mê muội, hoặc bị ma chướng gạt, làm họ lãng
phí mất thiện căn phước đức của họ để tương lai đành tiếp tục trôi lăn trong sáu
đường đau khổ!
Tất cả ở tại niềm tin. Tin tưởng vững chắc thì có cái điểm hội tụ tất cả thiệu
căn phước đức trong vô lượng kiếp để làm cái nhân vãng sanh Tây phương cực lạc
trong đời này vậy.
Tất cả đều do tâm tạo. Cực lạc hay đọa lạc ở ngay tại tâm. Ngài Trung Phong
quốc sư nói, A-di-đà Phật là tâm ta, tâm ta là A-di-đà Phật. Cực lạc là đây,
đây là cực lạc thế giới, chính là đạo lý này.
Nhiều người luận giải đạo lý duy tâm quá siêu hình, quá triết lý, quá cao siêu,
quá bóng bẫy... làm cho chúng sanh mê mẫn vào lý luận đó. Nhưng khổ thay, càng
mê muội thì càng mờ mịt, càng mờ mịt thì càng mông lung, càng mông lung thì
không có hướng đi nhất định, không biết đâu để nương tựa! Đến khi chết họ tiếp
tục cảnh mông lung đó mà đành phải tùng nghiệp thọ nạn.
Người không biết phương pháp hộ niệm, khi đối diện với người lâm chung thì họ
chẳng biết gì để khuyên, chẳng biết đâu để hướng dẫn?! Thôi thì đành chờ người
đó thọ nạn trước rồi tính sau?! Đau khổ thay! Mỗi lần thọ nạn thì một chúng
sanh phải chịu nạn vạn kiếp khổ đau! Thật quá tội nghiệp!
Chính vì vậy, người biết đạo phải lo tự cứu lấy mình, chớ nên sơ ý nương nhờ
vào ai mà phải ân hận vạn kiếp. Tất cả đại lý giải thoát đã được Phật dạy rõ
ràng minh bạch. Trong kinh điển, Phật dạy chúng sanh trong thời mạt pháp này
hãy quay về niệm Phật để thoát luân hồi. Người niệm Phật quyết cầu vãng sanh
Tịnh độ thì được vãng sanh thành đạo Vô thượng. Đây là tất cả những gì tha
thiết nhất của đức Thế Tôn đã để lại cho chúng sanh.
Nghĩa là, Niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc chính là chỗ nương tựa vững chắc cho
chúng ta vậy.
Hỏi số 36:
Làm sao giảng giải, khuyên răn cho chồng con và mẹ chồng cùng niệm A Di Đà Phật? Vì họ là người Mỹ.
Trả lời:
Thật khó khăn lắm đấy! Người Mỹ họ
sống theo hiện thực, thích về những gì cụ thể trước mắt, ít khi chấp nhận những
hiện tượng xa vời..
Sống lên trong môi trường khoa học vật chất cao, hưởng thụ nền khoa học vật
chất, văn học hiện thực, họ rất khó cảm ứng đến những chuyện sanh tử luân hồi,
nhân quả báo ứng, thế giới mông huân, vãng sanh Tây Phương, v.v... Thành ra rất
khó giúp họ khai ngộ.
Thôi thì, nếu đaọ hữu có tâm cứu giúp họ thì khi làm được chút công đúc nào thì
âm thầm hồi hướng cho họ cầu cho họ được cơ duyên tỉnh ngộ đạo pháp.
Về phương tiện thì nên tìm cơ hội gieo duyên lành. Ví dụ, khi có đi phóng sanh
thì nên rủ họ đi theo coi chơi cho vui. Nếu người có căn nhiều khi nhìn thấy
mình phóng sanh lợi vật có thể làm họ khơi dậy tâm từ bi... Khi đi chùa thì rủ
họ theo...
Đặc biệt, nếu có dịp niệm Phật, nhất là hộ niệm thì mời họ đi theo và
khuyên họ thành tâm cầu nguyện cho người bệnh. Họ muốn cầu gì đó thì cầu, còn
mình thì giảng giải cho họ biết rằng mình cầu Phật A-di-đà (Amita Buddha) tiếp
dẫn người bệnh sau khi chết được về Tây phương (Western Pureland). Khuyên họ
bắt chước niệm theo âm: "A-di-đà Phật", có thể một ngày nào đó sẽ cảm
ứng.
Khi có người vãng sanh thì giảng sự vãng sanh cho họ nghe, kèm theo video để
làm chứng cho sự ra đi tuyệt vời này(!), khác với cách chết khác. Đây là nhờ sự
cứu độ của Phật A-di-đà. Dẫn dụ dần dần thử coi, chứ có cách nào khác hơn.
Một điều chú ý khác, người Âu Mỹ thường thích ngồi thiền hơn là niệm Phật, vì
hầu hết họ thấy rằng ngồi thiền có thể giúp ích cho sức khỏe, giúp giảm bớt
những sự căng thẳng trong đầu, làm tâm an nhàn một chút, hoặc dễ thấy được một
vài điều kỳ lạ nào đó. Còn chuyện vãng sanh thì xa vời quá, lâu quá, đợi đến
lúc chết mới đi vãng sanh, ít ai đủ kiên nhẫn chờ, v.v...
Hơn nữa, có thể còn ham sống sợ chết! Chờ chết làm chi? Biết bao giờ chết đây?
Kiếm vài điều hay hay trước không hơn sao. Hồi giờ có thấy ai chết mà vãng sanh
đâu? v.v...
Cũng có thể, nhiều người Mỹ hiểu lầm vãng sanh giống như sanh lên cõi
"Trên", cõi Trời, cõi thần... chứ không phân biệt rõ các cảnh giới
như người học Phật Á Châu. Họ cứ tưởng Phật A-di-đà giống như một vị thần linh
nào đó, như các tôn giáo khác thường nhắc đến chứ có gì đâu đặc biệt. Mỗi nơi
kêu một tên khác, vậy thôi.
Điều khó khăn khác, giảng về Phật pháp phải có đủ từ ngữ, hầu hết người VN nói
tiếng Mỹ không cách nào nói sâu sắc được. Cho nên, bảo giúp một người Mỹ hiểu
Phật pháp rất khó vậy.
Trong kinh Phật dạy, thế trí biện thông là một ách nạn cho người học Phật.
Người Mỹ đầu óc thực tế, lại có nền khoa học kỹ thuật cao, cho nên tâm của khó
có thể chuyển hướng về đường tâm linh cao được. Cũng có một số người Mỹ tu học
Phật, nhưng cách tu học của họ khác với người học Phật chân chánh. Ở họ có thể
thiên về: "Khoa học Phật giáo", hoặc là "Triết lý Phật
giáo".
Khoa học Phật giáo
là người nghiên cứu Phật giáo đã lường lọc kinh sách của
Phật theo tấm kính khoa học. Nghiã là, điều gì hợp với khoa học thì họ tuyên
dương, không hợp với khoa học, hoặc khoa học chứng minh không được thi họ loại
bỏ. Đáng tiếc, khoa học là nghiệm chứng, thuộc về vật chất vô thường. Phật pháp
là tâm chứng về sự thật của pháp giới. Hai điều khác nhau.
Loại này thường định nghĩa Phật giáo như một thứ đạo đức học, hay hội đoàn
thiện lành để khuyên người làm lành lánh ác, làm điều tốt để tạo nên mẫu người
thiện lương, góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp, thế thôi.
Triết lý Phật giáo thì ngược lại, thuần về học thuật, tư tưởng, duy tâm,
khai thác những tư tưởng triết học có tính trừu tượng, cao siêu. Những hiện
tượng như học thuyết, triết học, văn thơ bóng bẫy, tư tưởng siêu vượt,... có
thể đại diện cho phái này.
Ngoài ra có thể còn thêm một loại khác nữa là hạng nguời hiếu kỳ thích điều
huyến bí, ảo diệu, thần thông. Loại này thường nghiêng về dị đoan mê tín, thần
học, cầu phép thần kỳ đặc dị. Họ đã coi Phật giaó như một thứ quỷ thần đạo.
Tất cả những hình thức đó không thể gọi là Phật giáo chân chính được. Nói
chung, người hiểu Phật pháp theo đúng nghĩa của Phật pháp rất khó tìm ở người
Âu Mỹ.
Thôi thì cái gì cũng tùy duyên của chúng sanh.
Riêng cô Dung, một khi hiểu được sự vãng sanh là thực rồi thì tự mình phải lo
cho chính mình là điều quan trọng. Đừng nên thấy người khác không tin mình bỏ
đường giải thoát. Nếu tâm không kiên cố thì dễ bị thối lui. Lui tuốt tới chỗ
khổ nạn, đời kiếp tương lai rất khó có cơ hội gặp lại câu Phật hiệu để cầu
thành Phật đó..
Hỏi :
Khuyên Người Niệm Phật được dịch sang Tiếng Anh không? Để cho chúng sanh có thể
nghe và đọc mà hiểu ra chân lý của vũ trụ, sự thù thắng của Nam Mô A Di Đà Phật
Trả lời:
Điều này Diệu Âm đành bó tay, không thể tự giải quyết. Tất cả đều có duyên phần.
Nếu một mai nó có duyên với người Mỹ thì tự nhiên có ngưòi dịch ra tiếng Anh.
Còn khả năng của Diệu Âm không đủ sức làm việc này.
Sẵn đây, cũng xin báo tin rằng, đã có người đang tìm cách dịch ra tiếng Hoa
(Chinese), tiếng Đức (Germany). Diệu Âm thầm cầu nguyện chư Phật Bồ tát gia trì
cho công việc này để kết thêm chút duyên với họ.
Chúc Cô Dung vạn sự kiết tường như ý.
A-di-đà Phật
Hỏi số 37:
"Niệm Phật Không gián đoạn", vì thế con cảm thấy lo lắng băn khoăn, bởi vì con vừa đi làm vừa Niệm Phật, vậy làm sao mà Niệm Phật suốt ngày được? Như vậy là con bị "Gián Đoạn" phải không...?
Trả lời:
Niệm Phật không gián đoạn là niệm
Phật liên tục, không nên có lúc niệm có lúc không niệm. Tuy nhiên, xét cho
cùng, thì vấn đề gián đoạn này nặng về Lý hơn là Sự.
Lý niệm gián đoạn
chính là người có tâm hồ nghi câu Phật hiệu, không tin
rằng pháp môn niệm Phật có thể cứu độ một chúng sanh phàm phu như mình được
vãng sanh.
Người không tin vào pháp niệm Phật nên họ niệm lấy có, niệm giống như kiểu trả
bài, niệm để cầu xin một vài sự an lạc tạm bợ, cầu xin các thứ phước lành nhỏ
nhen nào đó, như cầu hanh thông phát tài, cầu buôn mau bán đắc, cầu gia đạo yên
vui, v.v... và v.v...
Niệm Phật như vậy về hình tướng nhìn thấy thì có niệm, nhưng thực tế thì không
niệm gì cả. Họ niệm Phật thì không chí tâm, không thành kính. Niệm Phật chưa
xong là họ đã chuẩn bị niệm cái gì khác, họ thích tu đủ kiểu, xen tạp nhiều
phương pháp, thấy cái gì hay hay cũng muốn nhào vào thử nghiệm, đụng đâu tu
đó... Nói chung, không có hướng đi nhất định.
Người không có hướng đi nhất định thành ra tâm hồn chao đảo, đường tu không
chuyên, hướng về mù mịt, thường chỉ nhắm vào những điểm gần gũi, tạm bợ, thích
chạy theo những thị hiếu giả tạm nào đó của thế gian, chứ không có chí nguyện
vãng sanh Tây phương Cực lạc, không có lý tưởng vượt thoát sanh tử luân hồi,
không tin tưởng một đời này có thể thành đạo vô thượng.
Người học Phật như vậy dù cho bề ngoài nhiều lúc thấy khá hay, nhưng kết quả
thường thường vẫn bị trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi, tiếp tục chịu đọa
lạc, khó có cơ hội được giải thoát.
Vì không có hướng nhất định để đi cho nên thường thay đổi cách tu hành, nay tu
cách này, mai tu cách khác. Nghe người ta nói cách nào cũng hay hết thôi thì
gôm hết. Đi không có đường nhất định, nên đường nào cũng đi, vô tình cứ đi lòng
vòng. Nhắm không có hướng nhất định, nên không có hướng đến, thành ra không
biết sẽ đến đâu!...
Vì tâm không định nên phải loạn cách tu. Tu không chuyên nhất nên nay niệm
Phật, mai không thèm niệm Phật mà niệm thứ khác... Đây chính là vấn đề "Gián
đoạn" trong pháp niệm Phật.
Như vậy, gián đoạn chính là tâm không có chủ định. Vì không chủ định nên tâm
hồn lạc lòi, bơ vơ, phân vân, hồ nghi, chao đảo, thiếu lý tưởng. Nói theo kinh
Vô Lượng Thọ là "
Tâm Bất Định". Tâm bất định là tâm vô thường,
khó có ngày khai ngộ. Người niệm Phật mà tâm bất định, thì mặc dầu hình thức có
tu giỏi cho mấy cũng bị vướng vào tình trạng "Gián đoạn". Lúc
có gọi là niệm, lúc không gọi là gián đoạn. Vậy gián đoạn suy cho cùng chính là
cái tâm đã chuyển hướng, tâm xen tạp. Nói cho gọn, là Lý gián đoạn.
Sự gián đoạn
là, người vì chuyện làm ăn, buôn bán, bận bịu công vụ...
không thể niệm Phật liên tục được. Sự gián đoạn này là chuyện thường tình, ai
cũng có, không ít thì nhiều. Chuyện này có ảnh hưởng đến việc niệm Phật chứ
không phải hoàn toàn không.
Tuy nhiên, sự ảnh hưởng này thuộc về công phu tu tập, chứ không phải là chủ tâm
xen tạp. Công phu bị ảnh hưởng thì có thể tiến chậm, khó thành tựu đến chỗ niệm
Phật thành thục, niệm Phật thành phiến, niệm Phật nhất tâm bất loạn, chứ không
phải là tạo chủng tử xen tạp trong tâm.
Về vấn đề nhất tâm bất loạn, thì thành thật mà nói, thời mạt pháp này khó có
thể tìm đâu ra người đạt được cảnh giới này. Tuy nhiên, lâu lâu ta có nghe nói
rằng có người nào đó tự xưng là mình đã nhất tâm bất loạn thì có, còn thực chất
người đó có được "Nhất tâm bất loạn" hay không là chuyện hoàn
toàn khác!
Vì nhất tâm bất loạn là cảnh giới chứng đắc tương đương với "
Đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh" của Thiền tông, "Đại khai minh
giải" của Giáo hạ, "Tam mật tương ưng" của Mật tông.
Cảnh chứng đắc này đã phá được Vô minh của hàng Bồ tát Pháp thân đại sĩ không
phải là chuyện thường. Chư vị Đại Tổ sư mà chưa dám tự xưng là chứng đắc, thì
đâu có chuyện một người quá hứng khởi tự vỗ ngực xưng tên mà được như vậy!
Cho nên, bận việc làm không thể niệm Phật liên tục thì lúc làm việc cứ làm
việc, sau đó hãy chọn giờ nào thuận tiện trong ngày để công phu, niệm Phật.
Hằng ngày công phu như vậy cũng được coi là liên tục. Nếu bữa nay niệm Phật,
mai tu cách khác, mốt trở lại niệm Phật, bữa kia không niệm Phật nữa lại niệm
chú, v.v... đây mới chính là niệm Phật gián đoạn. Vì chính cái tâm hồ nghi vào
pháp niệm Phật nên mới vay mượn đủ cách. Vay mượn là xen tạp, lúc xen tạp đó là
tâm không còn tin tưởng vào câu Phật hiệu, không còn tin lời Phật dạy, còn tha
thiết vãng sanh Tây phương. Nay muốn, mai không tức là gián đoạn vậy.
Tóm lại, nếu Tuấn một lòng tin tưởng, vững tâm niệm Phật, vẫn tha thiết cầu
vãng sanh, nhưng lúc bận việc làm không niệm Phật được, nhưng tâm vẫn giữ một
đường niệm Phật thi không phải là gián đoạn đâu. Đừng nên lo ngại nữa. Hãy tùy
duyên và an nhiên niệm Phật tiếp nhé.
A-di-đà Phật
Hỏi số 38:
Pháp môn Tịnh độ hay nhắc đến, đó là "CHẤP TRƯỚC". Thưa, Chấp trước có phải là Chấp Nê đến "Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến" phải không ạ? Nếu vậy thì ý nghĩa của chữ "chấp Trước" rộng quá và Cao quá, không dễ gì mà buông xả được một sớm một chiều...
Trả lời:
Đúng vậy, nói chung, chấp trước là
tất cả những thứ đó. Không những thế, mà còn hơn nhiều thế nữa, là cả một rừng
chướng ngại cho người muốn vượt sanh tử luân hồi, chứ không phải là điều đơn
giản như nghiều người thường lầm tưởng!
Chấp trước còn có những danh từ khác như: Kiến-Tư hoặc, Phiền não hoặc, nghiệp
hoặc, v.v...
Kiến-Tư hoặc
nghĩa là Kiến-Hoặc và Tư-Hoặc.
Kiến hoặc
là những điều còn thô tháo như: Ngã kiến, Thân kiến, Biên
kiến, Tà kiến, kiến thủ kiến, v.v... Những tật đố, cạnh tranh, ganh tỵ, thị
phi, tốt xấu, khen chê, thương ghét, v.v... đều là Kiến hoặc hết. Kiến hoặc tùy
theo Tiểu thừa hoặc Đại thừa mà phân chia hơi khác nhau một chút, có tông phái
nói có 88 phẩm, có phái nói tới 112 phẩm. (không nên đi sâu vào đây, nhứt đầu
lắm!)
Tư hoặc
thuộc về tình cảm, những động niệm tế vi hơn ở trong tâm. Cũng tùy
theo phái tiểu thừa hoặc đại thừa mà Tư hoặc cũng được phân chia khác nhau,
tiểu thừa chia làm 10 phẩm, đại thừa 16 phẩm, có nơi chia ra đến 81 phẩm.
Chấp trước là cái nhân tạo ra nghiệp sanh tử đọa lạc trong tam đồ lục đạo.
Còn chấp trước còn tạo nghiệp. Người chưa phá được chấp trước thì không thể phá
được nghiệp. Hơn nữa, chính chấp trước là cái nhân tạo ra nghiệp, từ đó nghiệp
càng ngày càng nhiều, thành ra người chấp trước phải tùng theo nghiệp mà thọ
báo trong tam giới chứ không thể chứng đắc, chưa thể thành đạo.
Chấp trước là chướng ngại chính của hàng phàm phu. Còn chấp trước là còn phàm
phu, chưa thể thành Thánh nhân được!
Người nào phá được Chấp trước (cả Kiến hoặc lẫn Tư hoặc) thì mới thoát được
sanh tử luân hồi, chứng đắc quả A-la-hán. Cửa ải này là mốc điểm then chốt phân
biệt giữa phàm phu và Thánh nhân. Vô cùng khó khăn!
Đối với hạng phàm phu tục tử như chúng ta thì vấn đề phá chấp trước coi như vô
phương giải quyết!
Nhiều vị Tổ Sư đức cao trọng vọng mà các Ngài vẫn phải than rằng: một vài phẩm
Kiến hoặc không phá nổi. Đây là sự thật, chứ không phải nói đùa.
Chính vì vậy, khi tu hành chúng ta phải thật cẩn thận. Nếu sơ ý thì tu hành đến
vạn kiếp cũng không thoát khỏi trần lao. Vì sao vậy? Vì phàm phu khó có thể mơ
đến ngày phá hết nghiệp để thoát vòng sanh tử
Ví dụ, thấy nghiệp chướng dễ sợ quá, nhiều người phát nguyện tu hành tốt để trả
hết nghiệp. Nguyện như vậy nghe qua thì hay lắm, nhưng kết cuộc thì đời đời
kiếp kiếp bị kẹt trong tam đồ, lục đạo. Tại sao? Vì chấp trước không thể phá
được thì nghiệp chướng vẫn còn. Nghiệp chướng còn thì nó sẽ tìm cơ hội tăng
trưởng. Một đời nhiền hơn một đời, làm sao thoát tam giới?
Trong kinh Đại Tập, Phật nói: "Vạn ức người tu hành, khó tìm ra một
người chứng đắc". Câu này Phật cảnh cáo cho người tu hành mà không
biết cách đó.
Như vậy, chẳng lẽ hạng người hạ căn như chúng ta đây có tu hành cũng thành vô
ích sao?
Không phải vậy đâu. Vẫn có cách cho tất cả mọi người được vững vàng thành đạo.
Miển sao chúng ta quyết lòng nghe lời Phật dạy, coi kinh điển cho thật kỹ đừng
sơ suất. Hãy thành tâm y giáo phụng hành, thì pháp Phật chắc chắn giúp ta liễu
thoát sanh tử trong một đời này.
Cũng trong kinh Đại Tập, Phật dạy: "Người nào nương theo pháp niệm Phật
thì thoát luân hồi". Đây là chính lời Phật dạy. Như vậy pháp niệm Phật
thật là nhiệm mầu, quá vi diệu, có thể cứu được người tội chướng sâu nặng. Và
đây cũng chính là chìa khóa để thành đạo cho tất cả mọi người trong thời mạt
pháp..
Phá chấp trước tức là đoạn nghiệp. Đoạn nghiệp có hai cách: Diệt-Đoạn và
Phục-Đoạn.
Diệt đoạn
là diệt cho sạch hết nghiệp chướng, như nhổ cỏ phải nhổ cho
tận gốc, hết rễ. Công phu này cần cho người tự tu tự chứng thành bậc Vô Lậu,
chỉ dành cho hàng Bồ tát, hàng thượng căn thượng trí... mới làm nổi, còn người
hạ căn phàm phu thì vô phương!
Một người căn tánh hạ liệt mà không tự biết khả năng của mình, muốn mong cầu
diệt đoạn chấp trước cho đến nghiệp sạch tình không, thì đây chỉ là vọng tưởng,
hão huyền, không thực tế! Vì thiếu phần khiêm hạ, không quán xét kỹ căn cơ mà
thành ra bị mê muội! Đã mê muội rồi thì dù có tu hành hay cách nào đi nữa, sau
cùng cũng đành luống công mà thôi!
Phục Đoạn
là cách phủ phục nghiệp chướng, chận nghiệp lại, đừng để nó
hiện hành. Thông thường thì đây là cách hành trì của bậc Hữu Lậu, trong
tam giới. Nghĩa là cách tu không thoát vòng sanh tử.
Nói rõ hơn, phục đoạn chỉ là thứ công phu nhỏ, cố gắng vừa kềm chế đừng cho
nghiệp chướng tung hoành, giống như lấy đá đè cỏ, không cho cỏ ngóc đầu lên.
Công phu này không ích lợi gì cho người tự tu tự chứng, vì đè cỏ thỉ cỏ tạm
thời không mọc được, nhưng mầm cỏ vẫn còn đó, nó sẽ len lỏi tìm cách chui ra.
Một ngày nào khi có cơ hội thuận lợi, chắc chắn cỏ sẽ vượt lên, không những
thế, một khi đã vượt lên thì vượt rất mạnh, không cách nào cứu nổi! Cũng giống
như đè nén cái lò xo, khi sức mình bị đuối rồi, không nén nổi nữa, thì cái lò
xo sẽ bật lên và bật rất mạnh, lúc đó khó có gì kềm chống nổi.
Tuy nhiên Phục đoạn lại có hữu dụng và rất thuận lợi đối với người niệm Phật
cầu vãng sanh. Vì so với Diệt đoạn, thì Phục đoạn đương thời dễ hơn rất nhiều,
dùng câu Phật hiệu phủ lấp nghiệp chướng lại. Nói cho dễ hiểu hơn, là mỗi khi
nổi lên chấp trước, ghét thương, giận hờn, bực tức... thì đề khởi câu Phật
hiệu, cứ cố gắng niệm Phật lên thì tự nhiên phủ được chấp trước. Chỉ cần phủ
chấp trước mà niệm Phật cầu vãng sanh thì sau cùng được vãng sanh về Tây
phương. Đây là "Đới nghiệp vãng sanh", chứ không phải diệt sạch
nghiệp để chứng đắc.
Đới nghiệp
là mang khối nghiệp đi vãng sanh về với đức A-di-đà. Ngài cho
phép chúng sanh làm vậy, Ngài có cách cứu chúng sanh từ hàng phàm phu thành bậc
Chánh Giác bằng con đường này.
Nên nhớ, chỉ có pháp niệm Phật cầu sanh Tịnh độ mới có phước phần đới nghiệp
vãng sanh. Vãng sanh thi một đời thành tụ đạo quả.
Hỏi rằng, nếu phủ nghiệp không được thì làm sao? Hãy cố gắng phủ, phủ được tới
đâu hay tới đó, phủ càng nhiểu càng tốt. Đây là công phu của mỗi người phải tự
lo lấy. Phủ trọn vẹn thì an nhiên tự tại vãng sanh, phủ nhiều thì thành công
dễ, phủ ít thì khó khăn hơn cho chính mình ở lúc lâm chung. Muốn chọn cách nào
thì chọn..
Muốn an toàn thì mỗi ngưòi tự cố gắng lên. Còn như muốn bị nhiều chướng ngại
thì cứ tu lai rai, tu tà tà,... Nếu cuối cùng bị nhiều trở ngại, mất phần giải
thoát thì phải tự chịu lấy thôi, không trách ai được!
Giả như sợ rằng mình bận bịu công việc, công phu yếu, phủ nghiệp không được
nhiều, đè nghiệp không mạnh... nếu sự lo lắng này nên trở thành là vấn nạn
chung của tất cả mọi người thì thật là hay. Vì lo lắng như vậy mới cố gắng tu
hành tinh tấn hơn, buông xả trần lao nhiều hơn, và cẩn thận chuẩn bị kỹ hơn cho
ngày lâm chung bỏ báo thân.
Chuẩn bị làm sao?
Hãy kết nhóm với nhau, cỡ 5-10 người cùng tu chung và
hứa sẽ tích cực, nhiệt thành, quyết tâm hộ niệm cho nhau lúc bỏ báo thân. Đây
là điều tối cần thiết, không thể thiếu, hoặc lơ là được.
Niệm Phật và được hộ niệm cẩn thận thì chư Tổ nói, muôn người niệm Phật muôn
người được vãng sanh. Trong những năm qua ở VN rất nhiều người niệm Phật và
được hộ niệm mà khi xả bỏ báo thân để lại thoại tướng tốt đẹp, mà trước đây rất
ít khi được thấy qua. Trong đó chắc chắn rất nhiều người đã có phước phần vãng
sanh Cực lạc. Thật bất khả tư nghì!
Thật sự, h
ộ niệm là đại cứu tinh cho tất cả mọi người. Đây là chỗ thù thắng
nhất của pháp môn niệm Phật, đã cứu độ vô lượng vô biên chúng sanh vãng sanh vể
Tây phương cực lạc, bất thối thành đạo Vô-Thượng.
Trở laị vấn đề Phục nghiệp để vãng sanh, đây là điều mà ai cũng có thể làm
được. Nói cụ thể một chút cho dễ hiểu: Một là, ăn ở hiền lành, đừng nghĩ tới
nghiệp nữa. Hai là, thành tâm niệm Phật tha thiết cầu vãng sanh Cực lạc.
Đừng nghĩ tới nghiệp chướng nữa để quên luôn cái duyên xấu đi. Cái duyên xấu
hay duyên tốt đều từ chính cái tâm tạo ra.
Nghĩ điều xấu thì duyên với điều xấu, duyên với điều xấu thì tạo nên nhân xấu.
Nhân xấu mới kết bè với nhân xấu cũ, tất cả đều dễ cùng khởi lên, làm cho chúng
ta hứng chịu quả báo xấu.
Ăn ở hiền lành, làm thiện làm lành là tạo phước, tạo nhân tốt. Duyên tốt thì
hợp với nhân tốt. Nhân tốt mới và nhân tốt cũ hiện hành, ta dể hưởng quả báo
tốt.
Duyên xấu không có thì nhân xấu cũng khó kết thành quả xấu. Trong lúc đó, chúng
ta thành tâm niệm A-di-đà Phật cầu sanh Tịnh độ là tích cực phủ phục tất cả
nghiệp duyên, đây là điều mà chúng ta cùng lúc tạo được vừa Nhân vừa Duyên vừa
Quả cực lạc. Nhờ nhân duyên này cảm ứng đạo giao, hợp vói đại nguyện của
A-di-đà Phật, Ngài sẽ ứng hoá tiếp độ chúng ta về Tây phương. Được vãng sanh
xong thì gặp Phật A-di-đà, chư Tổ nói gặp được A-di-đà Phật rối thì lo gì mà
không thành đạo.
Vậy thì, muốn một đời này khỏi bị nghiệp báo nó lôi cổ vào chốn tam đồ khổ nạn
thì chúng ta hãy cần tu hành một cách hết sức căn bản: c
ác việc ác không
làm, các viêc thiện cố gắng làm, làm thiện nhưng đừng chấp (trước) vào việc
thiện nữa để giữ tâm thanh tịnh. Chính tâm hồn thanh thản, vui tươi ngày ngày
niệm Phật là điều tối quan trọng để giải thoát.
Cụ thể lại, bắt đầu từ nay, chúng ta hãy ăn ở hiền hoà, vui vẻ, tập buông xả
nhiều một chút...
Ví dụ, người hay cạnh tranh, ganh tỵ, ưa nói xấu nguời này, chửi người nọ...
Đây là điều không tốt, là người không tốt! Nên tránh.
Chúng ta là người đang tập tu hành. Đang tu hành vì chính ta có nhiều lỗi lầm.
Hiểu được như vậy thì thấy người khác nếu lỡ có lỗi lầm gì, thì hãy nên biết
thông cảm, tha thứ cho họ. Người có tâm hồn như vậy thì Phật giáo gọi là người
có lòng Từ Bi, Nho giáo gọi là đấng Trượng Phu Quân Tử,
người thế gian gọi là người tâm tính rộng rãi.
Hòa Thượng Tịnh Không nói, dẫu cho một người đại xấu đi nữa, thì ít ra họ cũng
có 10% tốt, hãy tiếp cận họ bằng 10% tốt đó. Như vậy, Ngài là người có lòng từ
bi.
Còn chúng ta, hễ thấy ai làm điều gì, chưa biết là tốt hay xấu cũng lo chê
trước, tìm cách nói xấu trước... Vậy thì, chính ta là người chấp trước quá
nặng. Ta chấp trước nhiều quá, suy cho cùng vì chính ta là người xấu. Chấp
trước rất tổn hại cái đức của mình. Vô tình, càng chấp trước càng xấu.
Ấn Quang Đại Sư dạy: "Tồn Thành" là giúp cho người thành công điều
thiện mỹ. Nếu ta làm được điều tốt thì hãy cố gắng làm, nếu làm không được thì
cũng nên có tâm tán thán những điều tốt của người khác. Thành tâm tán thán sẽ
chia được một phần phước báu của họ. Còn người cứ thấy ai làm bất cứ điều gì,
chưa biết là tốt hay xấu cũng đều chê baí, đố kỵ, thì đây quả là hạng người
tiểu nhân.
Phá chấp trước chính là phá bỏ những tật đố này vậy.
Vậy thì, một việc trước đây làm cho ta cảm thấy khó chịu, thì nay hãy coi nhẹ
nó đi. Cái gì cũng coi nhẹ lại một phần thì ta cảm thấy thoải mái một phần, coi
nhẹ hai/ba phần thì ta cảm thấy thoải mái hơn hai/ba phần. Cố gắng xem mọi việc
đều nhẹ nhàng thì ta càng ngày càng vui hơn, tâm hồn an nhàn thanh tịnh. Đây là
ta đang tích cực phá chấp đó.
Người thoải mái lúc nào khuôn mặt cũng tươi hơn, lòng từ bi thương người lớn
hơn, tân hồn vị tha hơn, dễ được cảm tình hơn, dễ kết được nhiều bạn lành hơn.
Chính nhờ vậy mà sự nghiệp của họ hanh thông, dễ thành công hơn.
Thành công vĩ đại nhất là vãng sanh Tây phương Cực lạc. Muốn được vậy thì không
có gì bằng buông bỏ những tật đố tầm thường, ngày ngày niệm Phật, phát tâm vãng
sanh tha thiết. Chắc ăn hơn nữa, hãy tạo một nhóm nhỏ cỡ 5-10 người, cùng một
chí hướng vãng sanh hợp lại để niệm Phật chung với nhau, hãy chuẩn bị hộ niệm
cho nhau khi cần thiết. Được vậy, chắc chắn được vãng sanh, ai ai cũng được
thành tựu đạo quả.
Chúc tất cả đều viên mãn đại nguyện.
A-di-đà Phật
Hỏi số 39:
...Tất cả các pháp môn đều là Phật Pháp, LB nghĩ rằng Thiền và Tịnh Độ tuy hai mà một, cho nên LB muốn học hiểu thêm về pháp môn Tịnh Độ , để kết hợp và tạo ra cho mình một phương pháp tu rốt ráo.
Trả lời:
Đạo hữu Liên Bình,
Thiền Tịnh tuy hai mà một. Cô Bình nói rất đúng đó, Diệu Âm tán thán tư tưởng
hòa đồng này.
Nhiều người tu hành mà thường phân biệt, chê bai cách này cách nọ thật là điều
không hay. Tệ hơn nữa, đâm ra chống báng lẫn nhau. Thật quá dở!
Nhất định chúng ta không nên chống trái hay phê bình người này người nọ, pháp
này pháp nọ, thì Phật giáo mới mong có ngày hưng thịnh, độ được nhiều chúng
sanh.
Càng chống đối nhau càng làm cho Phật giáo suy yếu. Thật không nên.
Tuy nhiên, chính chúng ta cũng phải biết tự phê phán lấy căn cơ của chính mình,
phải gắt gao kiểm điểm lấy trình độ của chính mình, thì học Phật mới đem lại
nhiều lợi ích thiết thực hơn. Vì pháp của Phật, thật ra, để ứng đối với nhiều
căn cơ khác nhau. Chính vì ứng đối căn cơ khác nhau mà chúng ta cần nên nghiêm
chỉnh chọn lựa đúng pháp môn, hợp với căn tánh của mình thì học Phật sẽ dễ có
cơ hội thành tựu.
Nhiều người tu học Phật mà quên yếu tố này, thành ra cuối cùng khó có được kết
quả như ý, đến nỗi Đức Thế Tôn nói, tu nhiều đến hàng ức triệu mà thành tựu thì
tìm không ra!
Đối với pháp môn, ta không được chê bai, phân biệt, nhưng riêng chính ta bắt
buộc phải suy nghĩ cẩn thận về căn cơ, khả năng của chính mình. Không nên chạy
theo thị hiếu mà nhiều khi bị trở ngại!
Ví dụ, Ngài Tịnh Không nói, mỗi kinh của Phật có một tiêu chuẩn để hành trì,
mình phải xem kỹ căn cơ của mình có đủ với tiêu chuẩn đó không? Đủ tiêu chuân
thì hợp, không đủ tiêu chuẩn thì không hợp.
Ví dụ, trong kinh Kim Cang Bát-nhã, Phật dạy phải phá tứ tướng: Tướng Ngã,
tướng Nhân, tướng Chúng-sanh, tướngThọ-giã. Mình liệu coi, tự chính mình có phá
được không? Phá được thì trì kinh này để tu hành sẽ đúng, phá không được, thì
đây không phải là cách hành trì thuộc căn cơ của mình. Đừng nên gượng ép.
Còn kinh A-Di-Đà Phật dạy, Tín-Nguyện-Trì danh. Tin tưởng lời Phật dạy, không
cần trình độ căn cơ: Dễ đấy! Nguyện vãng sanh, ai thành tâm phát nguyện là
được, cũng không cần căn cơ: Dễ đấy! Trì danh hiệu Phật A-Di-Đà để công phu, bà
già niệm Phật cũng thông, không cần căn cơ: Dễ đấy!
Cho nên, pháp Niệm Phật thật dễ, ai hành trì cũng được. Chính dễ như vậy nên
hợp với tất cả căn cơ. Đây là pháp "Tam căn phổ bị, phàm thánh tề
thâu".
Phương pháp thì dễ dàng, mà nhân địa lại cao: Niệm Phật là Nhân, thành Phật
là Quả. Đây là nhân thành Phật chứ không phải nhân thành A-la-hán, Bồ-tát,
Thanh-văn,... Thật bất khả tư nghì!
Pháp của Phật nhiều đến vô lượng, nhưng mỗi một pháp ứng trị với một căn bệnh
phiền não của chúng sanh. Bệnh nghiệp của chúng sanh có nhiều vô lượng, nên mới
có vô lượng pháp môn.
Như vậy, tu học theo Phật pháp không phải là tu cho đầy đủ vô lượng pháp, mà
phải tu pháp nào thích ứng với chính mình. Nên chọn lựa một pháp thật hợp với
căn cơ của mình mà huân tu, gọi là "Nhất môn thâm nhập, trường kỳ huân tu"
để thâm nhập vào cửa đạo là tốt nhất, khi thâm nhập vào cửa đạo rồi thì tự mình
đều thấu suốt.
Vậy thì, "Pháp môn vô lượng thệ nguyện học", không phải là bây
giờ chúng ta học cho hết vô lượng pháp môn, vì khả năng của chúng ta không làm
được chuyện này, cuộc đời ngăn ngủi vô thường không làm được chuyện này... mà
hãy nên nương theo một pháp hợp nhất để thâm nhập vào cửa đạo. Phải đi bằng mũi
nhọn mới dễ. Vào được cửa đạo rồi sẽ thấy pháp môn. Thấy tát cả pháp môn là
cảnh giới của người khai ngộ vậy.
Ví dụ như một đạo tràng có 5 cửa, hãy nhắm từ một cửa đi vào, vào được bên
trong rồi thì sẽ thấy tất cả những gì bên trong đó. Trong kinh Vô lượng thọ
Phật gọi là "Chánh-Định-Tụ" sẽ chứng đến Vô Thượng Chánh-Đẳng
Chánh-Giác. Đừng nên do dự, nay cửa này, mai cửa nọ.
Người chần chừ, do dự, chưa định vào pháp nào để tu, hoặc tu nhiều phương pháp
khác nhau giống như người không muốn nhanh chóng vào cửa đạo, cứ dạo bên ngoài
để ngắm nghía từ cửa này sang cửa khác, suốt đời vẫn lòng vòng bên ngoài. Uổng
lắm vậy.
Tâm phải định, gọi là "
Chánh Định Tụ". Tâm không Chánh định,
gọi là "Tà Định". Tà định trong kinh Vô lượng thọ, không có
nghĩa là tà ma ngoại đạo, mà chính là đi không thẳng, đi xéo xéo, sẽ rất khó
đạt kết quả, khó tới đích.
Tu không chuyên nhất, gặp đâu tu đó, Phật gọi là "Bất Định Tụ",
thì đối với người căn tánh trung hạ cũng vô phương thành tựu. Ví như người bệnh
vào tiệm thuốc mua thuốc vậy. Phải mua thuốc trị chính căn bệnh của mình để
uống mới được ích lợi, đừng nên đụng đâu mua đó, đừng cứ nhắm đến các món thuốc
đắc tiền là tốt đâu. Dùng sai thuốc, không hết bệnh mà coi chừng bị trở ngại!
Chính vì thế, riêng đối với người căn tánh thấp phải nên cẩn thận, tu hành phải
có đường, về phải có đích rõ ràng mới tốt.
Căn bệnh ngặc nghèo nhất của chúng sanh trong thời này là bệnh sanh tử luân
hồi. Tu mà không thoát sanh tử luân hồi thì giờ có lý hay luận giỏi tới đâu đi
nữa, sau cùng cũng ngậm đắng nuốt cay, cúi đầu chịu nạn!
Sanh ra trong thời mạt pháp, tất cả chúng ta đều là hạng tội chướng sâu nặng, khó
có thể tiêu trừ ách nạn. Tất cả các pháp tự tu, đối với chúng ta khó ai thưc
hiện nổi. Cho nên, nếu sơ ý, tu theo các pháp tự lực sợ rằng đời này phải chịu
thiệt thòi, nghĩa là không thoát được vòng tam giới, không thoát ly luân hồi.
Nhiều người biết chắc mình không thoát được luân hồi, mà đâm ra thất vọng, nói
lời tiêu cực rằng, phải tu hành vô lượng kiếp mới thoát được. Tội nghiệp!
Xin hỏi, đời này vô vọng, chẳng lẽ đời sau lại có hy vọng sao? Đời này gặp Phật
pháp mà còn nói lời tiêu cực, chẳng lẽ đời sau tích cực được sao? Pháp Phật là
pháp cứu sanh tử khổ nạn, ta đang học Phật pháp mà không tìm phương thoát nạn,
lại chờ vô lượng kiếp sau, chẳng lẽ vô lượng kiếp lăn lộn trong đoạ lạc rồi lại
có được thần phương diệu cách cho mình thoát sao?
Thân người khó đuợc, Phật pháp khó nghe! Xin đừng nghĩ rằng chết rồi trở lại
làm người dễ dàng. Cũng đừng nên nghĩ đời sau sẽ gạp lại Phật pháp nghen. Xin
nhớ cho, nay đã rơi vào Mạt pháp của Phật rồi đó! Mạt pháp nghĩa là Phật pháp
càng ngày càng yếu đó.
Người học Phật thường mờ mịt đường giải thoát, thành ra cứ định nghĩa đường tu
hành bằng những ý nghĩ rất sai lầm. Thật đáng thương!
Ngài Ấn Quang dạy, tu hành hãy lấy lòng thành kính mà niệm Phật để được cảm ứng
với Phật mà đới nghiệp vãng sanh, thoát vòng sanh tử. Đừng nên lý luận hay giỏi
coi chứng bị kẹt lại, luống công tu tập.
Còn có nhiều người cứ nói rằng, tu hành là làm lành đừng làm ác là đuợc. Đâu
ngờ rằng, Thiện có chánh có tà, có lớn có nhỏ, có thẳng có cong, có thực có
giả, có tròn có khuyết,... Người làm thiện mà không để ý những điều này, thì
coi chừng tưởng mình đang làm thiện lành mà hậu quả lại xấu. Dù có đúng thiện
lành đi nữa, nếu chấp vào việc thiện cũng không thoát vòng tam giới. Không phải
là mục đích chính của Phật pháp.
"Vạn thiện đồng quy, quy vể Tịnh độ"
, hãy làm thiện lành rồi
hồi hướng tất cả về Cực lạc, niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, mới là viên mãn.
Nhiều người sau khi tu một thời gian, thấy mình chứng cảnh giới này, chứng cảnh
giới nọ, vội vã tưởng rằng mình có thành tựu, chạy ra khoe chứng này, khoe
chứng nọ, thu hút những người nhẹ dạ chạy theo. Thực tế thì, hãy để ý thử coi,
sau cùng hậu quả như thế nào? Thảm họa! Đáng tiếc!
Đời vô thường, ngũ trược ác thế này có gì để tin tưởng mà vội cho là chứng đắc?
Mau mau thành tâm niệm Phật cầu về Tây phương, về tới Tây phương, chưa chứng
cũng chứng, chưa đắc cũng đắc. Xin đừng lấy cái giả hợp vô thường của cõi này
mà toại ý. Uổng lắm đó!
Nên hiểu một sự thực rằng, từ cái cửa miệng này đi vào sự thực chứng nó cách
ngăn đến trùng trùng chướng ngại. Từ cái nghĩ, cái nhìn này đi vào tới chân tâm
phải trải qua vô lượng thử thách, vô lượng chướng ngại của: Kiến Tư Hoặc, của
Trần sa hoặc, của Vô minh hoặc. Hay nói cho rõ hơn là chấp trước, phân biệt, vô
minh. Nhiều người không thấy điểm này, cứ để tâm vọng cầu mà sau cùng bị vọng
nghiệp bao phủ!
Chấp trước là nghiệp hoặc chướng ngại cho hành phàm phu. Phàm phu chúng ta ai
dám bảo đảm rằng mình sẽ phá được đây? Chư Tổ Sư mà các Ngài còn phải than
rằng, phá vài phẩm không nổi, thì chúng ta đâu dám vô ý. Phá không được chấp
trước thì không qua khỏi tam giới, thì làm sao mong ngày vượt thoát sanh tử
luân hồi, thì còn mờ gì đến các cảnh giới cao hơn?!
Chướng ngại của phàm phu mà phá không nổi thì nói chi tới chuyện cao xa.
Trần-sa hoặc là chướng ngại của Nhị Thừa. Vô-Minh hoặc là chướng ngại phải phá
cuả Bồ-tát Pháp Thân đại sĩ. Toàn là những cảnh giới quá cao. Vậy thì làm sao
dám mơ ngày thành tựu đạo Bồ-đề.
Hãy thâm tín Nhân-Quả. Niệm Phật là nhân, thành Phật là Quả. Niệm Phật
thành Phật. Không có Nhân-Quả nào qua được Nhân Quả này.
Mau mau trở về câu Phật hiệu, thành tâm, đầy đủ TÍN-NGUYỆN-HẠNH là hay
nhất vậy.
Còn việc tự kết hợp để thành một cách tu cho chính mình. Đây là điều tốt. Nhưng
liệu chính mình có đủ sáng suốt kết hợp đúng cách hay không? Vậ thì, tốt nhất
nên nương theo lời Tổ, y theo kinh Phật dạy mà phụng hành mới an toàn.
Phật dạy "Y pháp bất y nhân". Đừng nên tin vào sáng kiến của
mình quá. Vì ta vẫn còn là phàm phu, có thể thấy sai, nghĩ sai.
Hãy nương vào kinh pháp của Phật, nương theo chư Tổ Sư, nương theo các Thiện
hữu trí thức mới an toàn hơn vậy.
Chúc Liên Bình sáng suốt.
Hỏi số 40:
...đọc được lá "Thư vận động hộ niệm" vãng sanh, con thật vui. Đã hai năm nay con bắt đầu niệm Phật, mỗi ngày con được thiện lành hơn, hiện tại con đang sống tại Thụy Sỹ và đang tìm kiếm đạo tràng của Tịnh Tông học hội bên Âu Châu này, nhưng không ai biết. Con rất mong có được một nhóm hộ niệm, để được niệm Phật và giúp người vãng sanh, con rất mong muốn, cuộc sống của con nếu không có tiếng niệm Phật, thì chắc một điều là con không còn muốn sống nữa...
Trả lời:
Đạo tràng của Tịnh tông học hội là
nơi chuyên tu niệm Phật. Nếu không tìm ra ở Âu châu thì tốt nhất Kim Bình nên
tìm một vài người biết niệm Phật tự lập một nhóm nhỏ, rồi ngày ngày niệm Phật
với nhau. Chú nghĩ cũng có rất nhiều người đang muốn chuyên tu niệm Phật ở bên
Thụy sĩ, nhưng vì chưa có ai đứng ra vận động sự kết hợp, nên vẫn còn rời rạc.
Hãy cố gắng tìm hỏi thử coi, biết chừng lòng mình thành sẽ được Phật Bồ tát gia
trì sẽ có ngày mình lập được.
Niệm Phật thì ở đâu cũng niệm Phật được cả, có nhóm niệm Phật với 5->10
người ngày ngày cộng tu với nhau thì lý tưởng nhất. Nhưng tạm thời ở đó chưa có
nhóm thì Kim Bình cứ kêu gọi 2-3 người bạn quen về nhà mình, hoặc nhà bạn mình
niệm Phật. Niệm Phật được vậy thì vui lắm, sau cùng mình có người bên cạnh để
hộ niệm giúp đỡ nhau khi hữu sự. Còn nếu như chưa thể kết hợp được thì tự mình
vui vẻ an nhiên niệm Phật. từ từ khi cơ duyên đến thì chắc cũng có vài người
bạn tâm đầu ý hợp đến cộng tác với mình. Đừng nên nóng lòng hay có ý nghĩ tiêu
cực nghen.
Hỏi:
Dạo này con đang bị kẹt vào 1 cái gì đó, hy vọng cư sĩ giúp con, con cảm thấy
chán nãn với tất cả, chỉ có sự an lạc lúc niệm Phật hoặc nghe giảng kinh mà
thôi. Trong khi con vẫn phải sống, phải có sự giao tiếp với mọi người, nhưng
con không còn hứng thú để trò chuyện như trước đây nữa,vì mọi việc nó quá rõ
ràng là giả tâm. Nhưng con lại cảm thấy rất cô đơn, nên cứ muốn tìm cho ra nhóm
niệm Phật, để có 1 mục đích chung là giúp mình và giúp người niệm Phật, thành
Phật.
Trả lời:
Tất cả đếu có nhân duyên, cháu cố gắng giữ bình tĩnh mới tốt.
Cháu đang muốn niệm Phật, nhưng cơ duyên kết hợp nhóm để niệm Phật chưa được...
Mình thì nóng lòng muốn tu hành, nhưng những người bên cạnh thì không biết tu
hành, cứ làm ngơ, không màn gì tới chuyện sanh tử vô thường. Cũng đôi lúc, có
người tu hành nhưng mập mờ không biết đường nào luân hồi, đường nào để thoát
nạn! ... Có lẽ chính vì thế mà Kim Bình mới thấy buồn lo, chán nản chăng? Trạng
thái này đến với KB lâu ngày mới sanh ra cái cảm giác "hình như có vấn đề
gì đó" đang đè nặng lên tâm tư của mình, hình như "có cái gì kẹt
trong tâm"!...
Thật ra, không có gì cả đâu. Hãy vui vẻ lên, liệng tất cả những cái kẹt đó ra
đi. Nó chẳng qua là điều mình muốn thực hiện mà chưa thực hiện được, không biết
làm sao thực hiện, không ai hỗ trợ mình thực hiện, tại sao lại vô phước như
vậy!... những suy nghĩ này nó cứ lần quần bên tâm thành ra kém vui đó thôi.
Thôi thì, được hay chưa cứ để tùy duyên. Tìm đạo tràng niệm Phật được hay chưa
cũng chẳng quan trọng nữa. Hãy an nhiên niệm Phật trong hoàn cảnh thực tế của
chính mình. Đây mới là điều hay, chứ khi có nhóm niệm Phật rồi mà tâm mình chưa
thực lòng muốn niệm Phật, thì cũng chưa chắc đã tốt!
Biết tất cả là giả tạm thì bây giờ hãy coi cái niệm Phật đường cũng giả tạm
luôn.. Tất cả đều giả tạm thì hãy quay về chính tâm mình để nương dựa.
Nghĩa là, hãy lấy TRỰC TÂM cuả mình làm đạo tràng. Trực tâm chính là cái gì của
chính mình đang có.
Mình muốn niệm Phật, thì "niệm Phật" là trực tâm. Mình muốn được vãng
sanh, thì "tâm nguyện vãng sanh" là trực tâm. Nơi mình chưa có đạo
tràng niệm Phật, thì mình niệm mãi trong tâm, "niệm trong tâm" là
trực tâm... Biết sử dụng "Trực tâm" thì vui biết mấy.
Đừng dùng sự chán nản, cô đơn, buồn bã, lo âu, hiếu kỳ... làm trực tâm nghen.
Lấy những thứ đó làm trực tâm thì sai lệch lắm đó!
Những cảm giác như: cô đơn, chán đời, lo âu, buồn bã, v.v... thực ra chỉ là
huyễn mộng, không thực! Nếu thấy rằng tất cả đều huyễn mộng, thì ngay cái cảm
giác huyễn mộng, cái thấy huyễn mộng, cái mình cho là huyễn mộng... cũng là
huyễn mộng luôn.
Vậy thì, hãy liệng tất cả thứ đó xuống đi. Đây thật là một sự giác ngộ. Giác
ngộ thì an nhiên thanh tịnh vậy.
Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng. Cứ giữ tâm nguyện chân thành tu hành, niệm
Phật, thì tự nhiêm một ngày nào đó sẽ có cơ duyên cho Kinh Bình vẹn trọn ý
nguyện.
Hỏi:
... con tự biết mình thuộc vào hạng hạ căn nhưng may mắn thay lại được biết
niệm Phật nhờ đĩa Khuyên Người Niệm Phật của cư sĩ, theo sự chỉ dạy của một vị
Thầy thì mới hy vọng thóat khỏi sanh tử luân hồi
Trả lời
:
Hạng hạ căn cần suy tính thật kỹ để có cách tu hành đứng đắn theo căn tánh của
mình. Lời Phật dạy, người căn tánh hạ liệt nên nương theo đại từ đại lực của
Đức Di Đà mới mong có ngày thành tựu.. Câu nói "theo sự chỉ dạy một vị
thầy" chẳng qua là phụ nghĩa cho sự chuyên nhất trong đường tu tập.
"Theo một vị thầy", nên hiểu là sau khi mình đã lựa chọn thật kỹ, đã
biết người nào thật sự là "Thiện Tri Thức" rồi, mới dám y theo tu
học.
Ai sẽ là người thiện trí thức? Hãy tìm cho được người giảng giải thật chính xác
nghĩa kinh của Như Lai, đã có thành quả tu học, đã hướng dẫn nhiều người thành
tựu, cách hướng dẫn của người đó cụ thể, thích hợp với chính mình, mình thực
hành theo cách hướng dẫn đó thì an tâm và thấy rõ đường thành tựu... thì người
đó sẽ là thầy của mình. Phải bám sát theo người đó mà y giáo phụng hành. Đó gọi
là "một vị thầy duy nhất".
Và cũng phải nhớ điểm này, "Chọn một vị Thầy duy nhất "hoàn toàn
không có nghĩa là phỉ báng, chê bai những vị thầy khác. Người thường chê bai
người khác, nhất định không thể là người chân chánh tu hành. Theo một vị thầy,
nghĩa là nhất định phải theo một người chân tu, thực tu, chánh tu, chứ không
thể đụng đâu theo đó.
Mỗi người có một căn cơ riêng, duyên phần riêng. Tất cả phải tùy duyên. Ta có
một vị thầy để y giáo phụng hành là do duyên của chính ta, chứ không phải là
chấp trước. Nghĩa là, không được theo duyên của ta mà phá duyên người khác, dù
cho duyên của người khác có yếu hơn cũng không được phá.
Riêng chính ta, tu hành nhất định đừng sơ ý chạy theo cảm tình. Về xã giao thì
chúng ta tôn trọng sự lịch sự, lễ phép, cung kính. Còn đường thành đạo nhất
định phải vững một đường đi. Không thể chạy theo thị hiếu của số đông, đừng lấy
cảm tình mà tu. Nên nhớ, nếu sơ ý bị đọa lạc thì chính mình phải hứng chịu mọi
quả báo, không ai có khả năng cứu độ mình được.
Nên nhớ, người giảng giải hay, lý luận giỏi, triết lý cao siêu... chưa chắc là
người hay đâu nhé.
Người tu hành nên biết ứng dụng thực tế, cụ thể, chính xác lời dạy của Phật
trong kinh, có thế mới cứu được chính mình, và mới mong cứu được một chúng sanh
thành đạo.
Cụ thể, trong các pháp tu, niệm Phật là pháp cụ thể, dễ dàng, thích hợp với căn
tánh hạ ngu như chúng ta. Vậy thì, ta nên nương theo pháp niệm Phật để tu.
Tuy nhiên, người tu theo pháp niệm phật mà chỉ khai triển chung chung, chưa hẳn
đã cứu giúp được một người vãng sanh Cực lạc. Vì sao vậy? Vì, nên nhớ kỹ, thời
mạt pháp chúng sanh tội chướng quá nặng, căn trí mê mờ... hướng dẫn không cụ
thể, không chính xác, không biết giựt mình từ những kinh nghiệm của sự thất bại
mà sửa đổi kịp thời, thì hậu vận của Phật giáo thật khó tốt đẹp hơn vậy.
Nói cụ thể hơn nữa, người niệm Phật tự mình phải cố gắng tinh tấn, nhưng xin
đừng quên nghiên cứu thật kỹ phương pháp hộ niệm. Hộ niệm lâm chung là sự hộ
trợ rất tích cực cho người học Phật được phước phần vãng sanh Tây phương Cực
lạc, thành tựu đạo quả.
Hộ niệm không phải là cầu siêu. Rất nhiều người học Phật, nhưng không biết cách
hộ niệm. Cứ chờ người ta chết, rồi đến đọc kinh cầu siêu. Cho rằng tụng kih cầi
siêu, sau đó lo chuyện hậu sự, giúp đỡ đám tang, gọi là hộ niệm. Hoàn toàn đã
hiểu lầm!!
Hộ niệm là niệm Phật, giảng giải cách vãng sanh, yểm trợ tinh thần, giúp người
niệm Phật giữ vững niềm tin, giữ vững tâm nguyện tha thiết được vãng sanh Cực
lạc, và cố hết sức trì giữ câu A-di-đà Phật để niệm cầu Ngài phóng quang tiếp
độ! Hộ niệm từ lúc còn đang khoẻ mạnh, trước khi chết và hộ niệm luôn sau khi
tắt hơi (ít ra 8 giờ).
Chết rồi mới tính, thì không thể gọi là hộ niệm một cách đúng nghĩa được.
Nhắc lại, Hộ niệm không phải là tụng kinh cầu siêu. Nhiều người còn lầm lẫn
điều này. Thật đáng tiếc lắm vậy!
Hỏi số 41:
Từ
lúc con biết niệm Phật A Di Đà để giúp con tai qua nghiệp chướng và mau sớm
được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc tới nay là hơn 3 năm, trong lòng của con
lúc nào cũng cảm thấy chán nãn và không muốn sống nữa, ngay cả công ăn
việc làm của con và các thứ con đều không có tha thiết gì nữa hết. Đồng thời
con cảm thấy cuộc đời rất là chán nãn.
Chú có thể giải thích dùm cho con biết để con học hỏi thêm và hiện tượng này có
thường xảy ra trước đó với người nào đã niệm Phật A Di Đà chưa vậy chú?
Lúc trước con còn bịnh động kinh và chưa đi phẩu thuật, con cũng thường
có những cảm giác này rồi. Sau khi con phẩu thuật xong và hết bệnh, con vẫn có
những cảm giác này.
Trả lời:
Gia Trung,
Diệu Âm xin góp một vài ý kiến sau đây, mong Gia Trung để ý.
Trong câu hỏi thứ 1 của Trung, Diệu Âm có đồ đậm và gạch dưới 3 chữ "bịnh
động kinh". Có lẽ những cảm giác bất thường bắt nguồn từ chỗ này
chăng?!
Diệu Âm không rành về y học lắm, nên không thể nói rộng rãi về bệnh này. Tuy
nhiên, sự "động kinh" chắc chắn có liên hệ rất nhiều đến hệ thần
kinh. Liên quan đến hệ thần kinh thì có liên quan đến cảm giác, ý tưởng, đau
khổ, buồn bã, vui tươi,...
Tất cả những cảm giác đó đều liên quan đến những hoạt động của hệ thần kinh
hết. Hệ thần kinh có thể hình dung giống như một hệ thống dây điện, dùng để
chuyển tải những cảm xúc của mình. Mình muốn cái gì nó chuyển cái đó. Mình bắt
nó chuyển nhiều thì hệ thống sẽ nóng lên, chuyển quá tải thì nó bị trở ngại, hư
tổn.
Tâm mình an nhiên, thanh tịnh, vui vẻ, thì hệ thần kinh của mình ổn định, thư
giãn. Nếu tâm của mình buồn sầu, lo lắng, chán nản, giận dữ, v.v... thì hệ thần
kinh của mình bị căng thẳng, mệt mỏi, mất ổn định.
Nói ngược lại, khi hệ thần kinh ổn định, thư giãn thì tạo ra cảm giác thoải
mái, vui tươi. Khi hệ thần kinh bị mệt mỏi, căng thẳng, mất ổn định thì gây ra
hậu quả làm cho mình bất an, lo buồn, tạo ra nhiều cảm giác bất thường...
Về vật lý trị liệu, về y học, thì người ta cho rằng tác động của hệ thần kinh.
Trong Phật học gọi là tác động của "Tâm-Ý-Thức". Tâm ý thức là vọng
tâm chứ không phải chơn tâm.
Phật dạy, "Nhất thiết duy tâm tạo", tất cả đều do tâm mình tạo
ra. Thì vấn đề của Trung là một ví dụ điển hình.
Những kinh nghiệm khổ đau, những hình ảnh tiêu cực trong lúc còn bị bệnh hoạn
đã đi sâu vào tâm hồn của mình quá nhiều. Thành ra khi mình đã hết bệnh rồi,
nhưng những hình ảnh đó còn lưu lại trong tâm!...
Đưa thêm những ví dụ tương tự, một người chứng kiến một tai nạn xe cộ gây ra
chết người. Sự việc xảy ra trước mắt họ, hoặc họ cũng kẹt trong tai nạn đó làm
cho họ kinh hoàng. Những hình ảnh này cứ ám ảnh họ mãi, đến nỗi sau này khi vừa
thấy một chiếc xe hơi gần giống trong cuộc tai nạn chạy tới là họ nghĩ ngay đến
cảnh tai nạn trước và đâm ra sợ hãi, kinh hoàng.
Một người bị nước lụt cuốn trôi suýt chết, sau đó hễ họ thấy sông, thấy nước là
sợ hãi bỏ chạy. Người thấy cảnh chết cháy khi thấy lửa thì hãi kinh, v.v...
Tất cả chỉ là ký ức sống lại, sanh ra những cảm giác xấu đó mà thôi. Tất cả đều
là giả!
Rất nhiểu những ví dụ tương tư để nói lên cảm giác này. Giả sử, cũng là những
tai nạn như vậy, nhưng họ chỉ nghe nói đến thôi, biết được qua tin tức, thấy
trên TV.... thì chắc rằng không đến nỗi họ bị những cảm giác tệ hại như vậy!
Nói chung, tất cả hoàn toàn chỉ vì ký ức sống dậy mà thôi, chứ không phải là
thực. Có lẽ, Trung đang bị ký ức sống dậy.
Như vậy, cái bệnh của Trung là bệnh tâm lý. Đã tâm lý thì không thực. Không
thực thì không có. Không có thì có gì mà lo! Không có thì có gì đâu mà chữa.
Biết sự thật của nó là không có gì cả, tức là được chữa rồi vậy.
Cho nên, biết chừng đâu khi đọc đến những lời này thì Trung liền hết bệnh
chăng?!.... Mau mau ngộ đi nhé.
Giả như khi bắt đầu niệm Phật, Trung tâm sự cho người khác về bệnh tình của
mình, và người hướng dẫn Trung niệm Phật biết giải tỏa nỗi buồn âm ỹ trong tâm,
đem cái tâm trạng bệnh hoạn của người bệnh liệng ra trước khi bắt đầu niệm Phật
cầu sanh Tịnh độ, thì Diệu Âm nghĩ rằng Trung đã vui vẻ, thoải mái, an nhiên
yêu đời, yêu đạo rồi.
Học đạo có chung, có riêng. Chung thì không đi sâu vào nỗi niềm riêng được.
Muốn đi sâu vào nỗi niềm riêng thì cần gặp người bạn tốt, cần gần thiện trí
thức để giải tỏa tâm tư của mình. Chính vì thế, hôm nay Trung thố lộ chuyện này
cũng là điều hay cho Trung đó.
Bây giờ Diệu Âm đóng vai bạn tốt cho Trung nghen. Trung đã thố lộ ra thì coi
như được giải. Giải rồi coi như hết bệnh nhé. Hết liền đi nghen.
Ở Melbourne, khi nói chuyện, Trung có nghe chú Diệu Âm kể lại, có một người hơn
10 năm qua, đêm đêm sống trong ác mộng, bị khổ sở, sợ hãi, bất an... đến nỗi
sắc mặt tối đen, không còn sanh khí sống. Ấy thế, khi giảng giải cho người đó
biết rằng, tất cả những gì đã bị trong suốt thời gian dài qua chỉ là giả vọng,
không thực. Họ tin tưởng, vui vẻ, biết cách thẳng thắng đối diện với thực tại.
Họ niệm Phật, một ngày sau thì hết bệnh.
Vì sao vậy? Vì như đã nói ở trên, đây chẳng qua là vấn đề tâm lý, hoàn toàn
không có thực. Không phải thực mà biết nó không thực thì còn gì nữa mà lo, còn
gì nữa mà giải. Lấy lại niềm tin tưởng, vui tươi, niệm Phật thì hết.
Chuyện hoàn toàn không thực mà Trung cứ chấp vào đó, tưởng là thực thành ra nó
làm cho tâm mình điên đảo, chán nản, sầu bi suốt 3 năm trường!
Thôi, chịu khổ vô cớ đã 3 năm rồi, nay hãy mau mau buông nó xuống đi.
Giả sử, lúc chưa giải phẩu, bệnh tình vẫn còn hành hạ mình đều đều, thì cũng
đành đi. Ở đây, bệnh của Trung đã hết rồi thì thật là điều quá may mắn, đáng lẽ
phải vui lên mới đúng, chứ sao lại buồn, sao lại chán?
Trên thế gian này tìm đâu ra người không có bệnh. Bị bệnh là chuyện thường!
Bệnh mà chữa khỏi bệnh thật là điều quá sức vui. Còn biết bao nhiêu người bị
bệnh giống như mình mà không chữa được, chính họ mới buồn, chính họ mới chán,
chính họ mới khổ chứ. Ấy thế, mà họ còn vui sống thay, huống chi mình thật sự
đã qua khỏi ách nạn.
Phật dạy, tất cả đều có nhân quả. Nhân xấu thì nghiệp xấu, nghiệp xấu thì bị
quả báo xấu. Trước đây mình tạo nhân xấu, dẫn đến quả báo xấu. Quả xấu ấy chính
là bệnh kinh phong. Nay mình được chữa khỏi bệnh, chứng tỏ rằng, mình đã trả
hết quả báo xấu này rồi.
Hết quả báo xấu là sướng hay khổ? Là vui hay buồn?...
Mình niệm bệnh thì bệnh niệm mình, mình thương bệnh thì bệnh thương mình, mình
nhớ bệnh thì bệnh nhớ mình. Thực sự nó đã hết rồi nhưng mình còn nhớ nó thì nó
còn nhớ mình, nó nhớ trong tâm, nên trong tâm có nó, có nó thì mình vì nó mà
chịu khổ!
Bỏ thì phải bỏ luôn, chứ nhớ làm chi cho nó trở lại.
Tu hành là "Ly khổ đắc lạc". Phải biết rời cái khổ ra thì mình
mới vui đường thành đạo. Phải biết quên cái nghiệp quá khứ để thẳng đường đi
tới tương lai trong sáng tươi tốt hơn. Quay đầu nhớ về quá khứ tức là bỏ tương
lai, chạy lùi vào bóng tối của tội lội, của nghiệp chướng, của những lúc mình
còn mê mờ mà chịu khổ?
Tu học mà tâm không hướng về tương lai, lại cứ nhìn ngược về quá khứ. Tu hành
kiểu này là sai lắm vậy!
Phật dạy, Tất cả đều do tâm tạo. Tu hành là bắt đầu từ nay tu cho đến tương lai
giải thoát, chứ tu đâu phải quay đầu đi ngược về quá khứ để chịu nạn. Những gì
đã qua thì đã qua luôn rồi, qua rồi thì không thể lấy lại được, không lấy lại
được thì liệng nó luôn đi, quên nó đi nhé.
Tất cả vạn sự, vạn vật đều là huyễn mộng, thì tội lỗi, lỡ lầm, bệnh tật...
trong quá khứ suy cho cùng cũng chỉ là huyễn mộng. Nếu chìm đắm trong huyễn
mộng thì bị huyễn mộng nó quay ta như con vụ. Chóng mặt nhứt đầu, điên đảo....
chịu không nổi đâu!
Ngộ ra được điều này, thì con đường ta đi sẽ sáng trưng, tốt đẹp.
Hãy tìm đường trở về với chơn tâm tự tánh, thì những huyễn mộng đó dù lớn tới
đâu cũng tan biến hết rồi. Giống như một căn phòng đóng kín, tăm tối ngàn năm,
chỉ cần thắp lên một ngọn đuốc thì tất cả bóng tối đã biến mất. Muốn tìm lại
bóng tối cũng không còn bóng tối nữa để tìm.
Đường niệm Phật đi về Tây phương là con đường thẳng tắt, ngắn nhất đó.
Người đã hết bệnh là người đứng dậy được. Người đã gặp pháp niệm Phật là người
thắp được ngọn đuốc sáng. Sao không chịu theo đường sáng mà đi cho thoải mái,
lại muốn nghĩ nhớ đến cảnh âm u, tối tăm, nghiệp chướng cũ xưa làm chi?.
Tạo sao lại cứ bắt cái tâm của mình âm thầm chui vào quá khứ để chịu khổ vậy?
Người niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc, thì đến cái chết họ cũng không sợ, thì
sợ chi những cảm giác giả vọng, những cảnh chiêm bao, những lúc mê mờ thấy này
thấy nọ.
Trong pháp niệm Phật, có hai chữ: Yểm và Hân.
Yểm: là chán chê; Hân: là vui thích.
Chán chê này là chán những cảm giác vô thường, chán bỏ những sự sợ hãi, chán
chê những nỗi lo âu, chán những ý nghĩ tầm thường, chán những cái gây ra khổ
tâm khổ trí. Chán bỏ là bỏ luôn những thứ bệnh tật, chán bỏ những lúc bệnh khổ
hành hạ, chán luôn những cái người ta chán. Nghĩa là, người ta buồn mình không
buồn, người ta lo mình không lo, người ta chán đời mình không chán đời.
Nói chung, tất cả những gì thuộc về thế gian này mình không thèm tới. Vậy thì,
thèm chi những thứ cảm giác chán nản?
Người niệm Phật đối với cái chết họ cũng vui vẻ niệm Phật, họ mỉm cười về với
đấng Từ phụ. Người biết niệm Phật là biết đường về Tây phương hưởng sung sướng.
Muốn hưởng sung sướng thì tâm mình phải sung sướng. Sung sướng, vui vẻ mới gặp
được cảnh sung sướng vui vẻ.
Còn người không niệm Phật họ ra đi trong cảnh hãi hùng, đau khổ. Họ mê mê, mờ
mờ, họ sợ hãi, lo âu, họ buồn bã, chán nản... Người có tâm trạng rối bời làm
sao gặp được cảnh vui sướng. Tương lai thật là tăm tối!
Vậy thì, mau mau liệng cảnh khổ sở, chán chường trong quá khứ xuống, từ nay
niệm Phật an vui để về cảnh an vui. Hân là như vậy đó.
Chỉ vậy thôi sẽ giải quyết tất cả chướng nạn. Ngộ liền đi nghen Trung.
Chúc vui vẻ, niệm Phật. Từ đây câu Phật hiệu niệm ra sẽ chánh pháp, được hiệu
quả thù thắng.
Hỏi số 42:
... hiện đang hành nghề bác sĩ ở một nhà thương chuyên môn về Ung Thư (Cancer). Hằng ngày em tiếp xúc với rất nhiều bệnh nhân bị bệnh ở giai đoạn cuối. Khi em nghe xong cuốn Khuyên Người Niệm Phật em rất muốn dịch nó sang tiếng Đức để truyền bá cho bè bạn người Đức ở đây. Nhưng em biết đó là một công trình phải đầu tư rất nhiều thời gian mà không dễ dàng gì. Đó là một kế hoạch lâu dài. Nhưng khi em tiếp xúc với các bệnh nhân của em, biết họ sắp bị đọa lạc, rơi vào lục đạo luân hồi, mình biết cách cứu họ mà không biết phải bắt đầu từ đâu và như thế nào, em cảm thấy thương tâm và bất lực. Mẹ em đã từng viết thư và được anh Diệu Âm trả lời rất tận tình những câu hỏi của bà. Bà khuyên em nên mạnh dạn hỏi anh. Chân thành mong ở anh lời chỉ dạy thấu tình đạt lý.
Trả lời:
1) Vấn đề dịch KNNP: Nếu Bs Diệu Huệ dịch KNNP ra tiếng Đức, giúp cho người Đức
hiểu được đạo Phật thì công đức lớn lắm. Diệu Âm thành tâm tán thán công đức
này.
Nếu quyết định dịch thì cho Diệu Âm biết địa chỉ để DA gởi sách qua cho Diệu
Huệ, hoặc email trọn bộ KNNP cũng được. KNNP viết bằng font VNI.
Hiện đang có một vị Thầy ở VN đang dịch bộ sách này ra tiếng Hoa. Diệu Âm không
biết tên, vị Thầy đang cộng tác với một người làm việc trong tờ báo tiếng Hoa
để dịch. Diệu Âm không biết rõ Thầy đã dịch được tới đâu, chắc có lẽ cũng khả
quan lắm rồi. Khi nào có sẽ tìm cách biếu cho Diệu Huệ. (Vì đây là những lá thư
của Diệu Âm viết cho thân nhân, bạn bè, nên D/A không dám tự giới thiệu.
"Mèo khen mèo dài đuôi", không tốt!).
Sách KNNP dày lắm, 4 tập. Nếu muốn dịch không nên dịch vội vàng, vì Diệu Huệ
còn phải làm việc. Diệu Âm đề nghị rằng, hãy dịch dần dần, dịch tới đâu phổ
biến tới đó (nếu cần). In từng tập sách nhỏ hay hơn. Nên nhớ, Bộ KNNP Diệu Âm
không giữ bản quyền, xin đừng ngại gì cả. Diệu Huệ thấy điều gì lợi ích thì cứ
phát tâm làm. Làm đúng thì tất cả đều có Phật Bồ-tát gia trì. Không nên ngại
ngùng.
2) Muốn cứu bệnh nhân:
Đây là tâm nguyện của Phật Bồ-tát. Diệu Huệ làm Bác
sĩ mà có tâm từ bi, thương người, muốn cứu độ chúng sanh, thật là quí hóa. Diệu
Âm cảm kích vô cùng. Chỉ cần một tâm nguyện như vậy cũng đã có công đức rồi. Thành
Tâm tất sẽ được linh ứng. Nếu tâm nguyện vững vàng và tha thiết thì Phật
Bồ-tát sẽ gia trì cho Diệu Huệ để thực hiện. Chắc chắn như vậy.
Diệu Âm đề nghị.
I) Nếu người bệnh là người VN,
Diệu Huệ nên copy video vãng sanh gởi
biếu cho họ coi, khuyên họ buông xả vạn duyên để niệm Phật. Khi biết rằng bệnh
không thể chữa trị được nữa thì nên thành thật khuyên họ nên niệm Phật cầu vãng
sanh.
Hết đường chọn lựa, chắc bệnh nhân cũng dễ chấp nhận lời khuyên của mình.
Sư cô Thích Đạo Chứng, trước đó cũng là một Bác sĩ chữa trị ung thư, Sư Cô
thành tâm khuyên bệnh nhân niệm Phật, đã cứu được rất nhiều người thoát cảnh
khổ đau bằng tiếng niệm Phaật. Nay Diệu Huệ khuyên bệnh nhân ung thư, đã đến
thời kỳ phải chết, niệm Phật và hướng dẫn gia đình hộ niệm thì có thể cứu độ
bệnh nhân vãng sanh. Công đức vô lượng.
*) Nên khuyến khích đồng tu lập thành những nhóm cộng tu riêng, chọn một căn
nhà của đồng tu, có căn phòng rộng một chút làm niệm Phật đường, rồi cùng nhau
niệm Phật. Chính nhóm cộng tu nhỏ này sẽ là nhóm Hộ Niệm về sau và chính
những nhóm này sẽ cứu độ nhau vãng sanh. Ngài Ấn Quang dạy, đây là đạo tràng dễ
thành tựu nhất trong thời mạt pháp này.
Nếu không có nhiều người thì 2,3,4 người cũng đủ hộ niệm được rồi. Nên xem thật
nhiều những video hộ niệm. (lên mạng www.tinhthuquan.com, phần Diệu Âm, có một
số video hộ niệm vãng sanh. Diệu Âm sẽ gởi thêm một số video vãng sanh mới khác
để nhiều người xem).
Diệu Âm sẽ chuyển (forward) tất cả những tin tức: câu trả lời, câu hỏi về Hộ
niệm cho Diệu Huệ xem qua, rút thêm kinh nghiêm.
**) Diệu Huệ đã có MP3 KNNP chưa? Nếu chưa thì cho biết để Diệu Âm gởi biếu,
các video Vãng sanh, nếu chưa có thì Diệu Âm cũng có thể gởi biếu luôn.
II) Nếu là người Đức
, Diệu Huệ nên dịch vài video vãng sanh ra tiếng Đức
rồi tìm cách cho họ xem, rồi tìm phương hướng dẫn họ.
Lấy đạo lý "Tất cả đều do tâm tạo" nói với họ. Nghĩa là, Phật
dạy rằng, cái tâm mình đang nghĩ gì sẽ hiện ra cái đó. Tâm muốn chết thì bị
chết, tâm muốn vãng sanh về cõi Tây Phương của Phật A-di-đà, thì sẽ vãng sanh
về Tây phương Cực Lạc.
Nếu lúc chết mà tâm hồn sợ hãi, lo lắng, khủng hoảng... thì sẽ đi về các cảnh
giới đau khổ, ích gì đâu? Khuyên họ, tại sao không vui vẻ, an nhiên niệm Phật,
cầu Phật gia trì. Phật dạy 10 niệm tất được vãng sanh, vãng sanh sẽ hưởng đời
đời kiếp kiếp sung sướng, an lạc, không hay hơn sao? Hãy giới thiệu cho họ
những chứng minh cụ thể, giúp họ không còn nghi ngờ.
(Nếu họ tu theo Chúa thi cầu Chúa gia trì cũng được). Nhưng Chúa cứu để về cảnh
giới Trời, vẫn còn trong tam giới, chưa hoàn toàn chấm dứt sanh tử đâu.)
Nói với họ, Vũ trụ này có nhiều cảnh giới huyền diệu lắm. Trong đó cảnh giới
Tây Phương Cực lạc (Western Pureland) của A-di-đà Phật là tốt đẹp nhất. Nhiều
người cầu nguyện sanh về nước Ngài đã được đi rồi (đưa chứng minh vãng sanh ra
cho người ta coi, rất cụ thể, không có viễn vong).
Điều kiện là: Tin tưởng, nguyện cầu sanh về đó, Niệm A-di-đà Phật.
Lúc
lâm chung đừng sợ chết, cầu vãng sanh sớm càng tốt, mời người khác đến hộ niệm,
thì sẽ được cảm ứng. Chết sống đã có mạng số. Số mạng chưa mãn thì niệm Phật
cầu vãng sanh thì tự nhiên sẽ hết bệnh. Nếu số phần đã mãn thì sẽ được vãng
sanh, thoại tướng hiện ra rất tốt, bất khả tư nghị. Hiện tượng này nhiều lắm,
không ai có thể chối cải được.
Diệu Âm nghĩ rằng Diệu Huệ có thể từ từ thuyết phục họ được. Biết chừng đâu một
ngày nào đó Diệu Huệ cứu được người Đức chăng.
Cũng nên nhớ, cứu người ngoại quốc khó lắm, vì tinh thần của họ nặng về khoa
học, không tin Phật pháp. Phải kiên nhẫn, từng bước và tùy duyên. Trước tiên,
hãy nhắm đến người VN cứu độ trước, đây là tấm gương cho người Đức sau này vậy.
III) Trong một phiên họp nào đó giữa Hội Đồng Bác sĩ, Diệu Huệ mạnh dạn nói lên
sự vãng sanh Tịnh-độ của những người niệm Phật. Mạnh dạn trình bày với họ thử
coi, biết chừng đâu có người ủng hộ.
*) Trước khi làm việc này cần nên chuẩn bị rất nhiều bằng chứng vãng sanh,
những người chết mà biết niệm Phật, được hộ niệm cẩn thận điều ra đi với thân
xác mềm mại, tươi hồng, 3,4,5 ngày sau vẫn còn tươi mềm. Đây là hiện tượng tự
nhiên như vậy, chứ không phải dùng thuốc hay xoa bóp gì cả.
Diệu Âm có thể cung cấp cho Diệu Huệ những bằng chứng này.
Cẩn thận thu thập rất nhiều bằng chứng, rất nhiều chi tiết cụ thể trước khi đưa
vấn đề ra trình bày. Hãy coi đây như một dự án, hay một khám phá mới của
nhân loại vậy.
Nếu trình bày được chuyện này, truyền bá Phật pháp, nhất là pháp môn niệm Phật
cầu VS, giúp người Âu Châu ngộ ra đạo pháp, thì công đức lớn lắm. Đem công đức
truyền bá Phật pháp này hồi hướng về Tây phương cầu vãng sanh, nó sẽ là phần
thưởng cho Diệu Huệ cuối đời được vãng sanh vậy.
**) Hoặc giả như, mình đưa chương trình ra mà bị thất bại. Nghĩa là, không có
ai ủng hộ hay thực hiện theo, thì ít ra cũng giúp bệnh viện, hội đồng y khoa
bắt đầu chú ý đến sự kiện này, hy vọng tương lai họ xét đến...
***) Có thể giúp họ chú ý về Phật pháp vi diệu. Tạo những biến chuyển trong
tương lai, ví dụ:
1) Khoa học phục vụ con người rất tốt, nhưng cũng cần tin vào Phật học. Không
nên chỉ đưa vào khoa học mà quên rằng con người ngoài xác thân ra còn có thần
thức, linh hồn. Đây là sự thật đã có chứng minh, không thể chối cải được.
2) Kiên cử những hành động sai lầm thường thấy trong bệnh viện, ví dụ như: cố
gắng tránh đụng chạm vào thân xác người mới chết. Mổ xẻ, đưa vào nhà xác sớm,
con cháu khóc lóc, hố hấp nhân tạo, v.v.. đều gây tác hại rất xấu đối với thần
thức người chết. (Hiển nhiên tránh được tới đâu hay tới đó, chứ không dám giữ
gìn 100%. Tâm ý người thế gian đâu dễ gì chuyển đổi!).
Phật dạy rằng, khi một người chết, đã tắt hơi rồi, không nên đụng chạm vào thân
xác của họ, không nên mổ bụng, không nên đưa vào nhà xác quá sớm. Vì sau khi
tắt hơi, thần thức vẫn còn bám vào thân xác ấy một thời gian 8->12 giờ mới
ra khỏi. Nếu đụng chạm vào thì họ bị đau đớn, đưa vào nhà xác ướp lạnh thì
giống như đưa xuống địa ngục băng hàn, ồn ào, náo loạn... bên cái xác thì bị phiền
não, v.v... làm người chết quá sức đau khổ mà bị đọa lạc.
Nghĩa là, sau khi tắt thở rồi không phải là hết. mà người chết vẫn còn cảm
giác. Không những thế, mà đôi khi còn nhạy cảm hơn nữa là khác. Thần thức họ
vẫn còn thấy, nghe, hiểu tất cả những sinh hoạt chung quanh. Đây là sự thật.
3) Hãy giúp đỡ, tạo phương tiện dễ dàng cho những người theo Phật giáo hộ niệm,
tìm cho họ 1 căn phòng yên tỉnh để niệm Phật 8,12,16... giờ, giúp cho BHN niệm
Phật cứu người chết VS.
Hiển nhiên, những người không tin thì đành phải tùy duyên vậy.
4) Vấn đề Hộ Niệm ở Âu châu còn rất lạ, rất ít người biết đến. Nhiều khi, chính
Diệu Huệ là người đầu tiên phát khởi chương trình cứu độ chúng sanh ở Âu Châu
chăng(?). Nếu được vậy thì công đức cũng lớn lắm vậy. Có thể Diệu Âm sẽ giới
thiệu vài người khác ở Âu Châu, cũng muốn HN, để cùng nhau hổ trợ cho chương
trình này.
5) Cũng nên nhắc nhở điều này, nhiều người vì quá cảm xúc, tạo nên những chuyện
lạ, hoặc cảm ứng đến những điều kỳ lạ như: thần thông, biến hóa, phép lạ, năng
lực kỳ diệu nào đó, v.v... Đấy là họ tự chiêu cảm lấy, trong kinh Phật không
chủ trương những dáng thần kỳ này. Xin Diệu Huệ cẩn thận, đừng không hiểu kỷ mà
mang họa về sau. Sự hộ niệm là cách ứng dụng kinh Phật dạy một cách cụ thể,
chính xác, kịp thời, chánh pháp. Các kinh A-di-đà, kinh Vô lượng thọ, quán Vô
lượng thọ, v..v... đều có nói. Kinh Phật không có nói các cách thần thông, biến
hóa, phép thuật. Xin chú ý.
Chúc Diệu Huệ thành công.
Hỏi số 43:
Người
mẹ của một đạo hữu trong nhóm cộng tu bị hơn mười năm nay luôn hay bị chửi bới
một mình, bà luôn nói là có nhiều người luôn chửi tao nên tao phải chửi lại
chúng, lại luôn sang nhà hàng xóm gây sự chửi bới lung tung. Có những lúc tỉnh
táo như người bình thường, có những lúc lại trông giống như là bị người khác
nhập vào quấy rối. Bà hay ôn lại những chuyện quá khứ. Hiện tại bà vẫn ăn uống
lại ngủ nghỉ giống như người bình thường, nhưng nếu không có con cái kèm bên
cạnh lại hay đi sang nhà hàng xóm gây sự..
Bây giờ Cô Liên ( là con đẻ của bà, cũng như là thành viên trong nhóm cộng tu )
rất là hay buồn phiền và thương cho mẹ mình. Cô vẫn chưa biết tìm cách nào để
giúp cho mẹ của mình trở lại bình thường, rồi khuyên cụ niệm phật cầu về tây
phương cực lạc
Cứ mỗi lần khuyên bà niệm Phật thì nhất định bà không chịu niệm lại còn hay
phản đối.
Rất mong chú có thể cho vài lời khuyên giúp bà vượt qua được ách nạn này.
Trả lời:
Có thể vấn đề này đã ngoài sức của
Diệu Âm rồi! Hỏi thì phải trả lời, chứ không dám cả quyết!
Một người bị bệnh tâm thần, nếu ngay lúc mới khởi phát lo chữa trị liền thì
dễ dàng hơn, có nhiều hy vọng thoát khỏi. Ở đây bà cụ đã bị hơn 10 năm, một
thời gian quá dài, tâm trí đã bị tập nhiễm quá sâu, quá nặng, thành ra muốn
thoát khỏi thật sự là khó, chứ không phải đơn giản!
Về chuyện pháp thuật thì Diệu Âm không biết, về bùa ngải thì D/A cũng không
biết, D/A chỉ biết khuyên người niệm Phật rồi cầu Tam Bảo gia trì mà thôi.
Tất cả đều có nhân quả cuả nó. Bệnh này theo Diệu Âm đoán, thì liên
quan nhiều đến chuyện oán thân tráí chủ. Oán thân là những người thù hận
mình, do bởi mình giết hại, cưỡng bức, hành hạ họ trong đòi kiếp nào đó về
trước. Trái chủ là những người mình cướp giựt, cưỡng đoạt, dùng quyền chiếm lấy
tài sản, đoạt vợ, cướp chồng,gây tổn hại cho họ trong tiền kiếp.
Vì những mối oán hận này mà họ bám theo chờ dịp trả thù. Khi còn sức khoẻ, còn
minh mẫn, họ chưa thể làm gì được, nhưng khi thể lực của mình yếu đuối, hoặc bị
sa sút tinh thần vì một biến cố nào đó, họ sẽ thừa dịp nhào vào tấn công, chế
ngự, cố tình dẫn dắt mình vào 3 đường ác để trả thù.
Chính vì thế, ăn ở trên đời, chúng ta chớ nên gây oán gây thù với ai làm chi.
Thuận thì mình vui vẻ, không thuận thì mình cố né xa ra một chút, thế thôi.
Người tu hành tuyệt đối đừng bao giờ ganh người này, ghét người nọ, đừng
vì những lỗi lầm của người khác mà để tâm giận hờn, thù hằn, gây sự bất hòa với
nhau, không tốt về sau.
Nên ăn ở hiền lành, sống vui vẻ, những sự chướng tai gai mắt nên tập tánh phớt
lờ, đừng để trong tâm. Tập tánh tha thứ cho nhau, đừng nên chê trách, hay bắt
lỗi người này người nọ, gặp người giỏi nên thành tâm khen ngợi, đừng thấy họ
giỏi mà đố kỵ, gặp người đố kỵ thì tảng lờ đi, người dễ chịu thì làm thân,
người khó chịu nếu mình không đủ sức chuyển hoá thì lặng lẽ đứng xa một chút là
được. Tập như vậy để chính mình tránh được nhiều chướng nạn về sau vậy.
Những người khó chịu, khó với con cháu, khó với hàng xóm, không tha thứ lỗi kẻ
khác, sống quá nguyên tắc, không chiụ hoà hợp với người, cũng dễ vướng phải
tình trạng tương tự như bà cụ. Thực sự, khởi thủy đều do tại mình chứ không
phải bên ngoài. (không biết bà cụ có phải như trường hợp naỳ không, D/A chỉ nói
theo lệ thường mà thôi).
Người đời thì như vậy, người tu hành có bị không?
Có, chắc chắn có! Người có tu hành, nói chung là chỉ cho tất cả những người
thường tới chùa tụng kinh, niệm Phật, cúng dường, bố thí, v.v.. chứ không nói
riêng một ai. Tu hành thì tốt, nhưng coi chừng thường hay vướng phải:
- Một là thường sinh tâm cống cao ngã mạn, thường khinh thị người ít tu
hành, thường hay tự cho mình là hiền lương, chánh đạo, còn người khác thì xâú
ác, là tà đạo.
- Hai là t
hường tự cho mình tu hành chứng đắc, được cảm ứng tốt, được
thần thông đạo lực, được các công năng đặc biệt, được trí huệ, sắp thành Phật
rồi, được Phật thọ ký, là sứ giả của bề trên. Tự cho mình có đủ năng lực cứu độ
chúng sanh.
Người tu hành mà không chiụ giữ tâm hồn khiêm nhường, chắc rằng, không trước
thì sau cũng bị cái tội tăng thượng mạn này. Một khi tâm hồn cao ngạo nổi lên
thì liền bị vướng nạn của oán thân liền. Muốn thần thông đạo lực thì sẽ có thần
thông đạo lực. Ban đầu họ tạo cho mình thêm năng lực vĩ đại, để tâm cống cao
ngã mạn nổi lên, rồi nương theo đó mà hại mình thê thảm về sau.
Nhiều người tu hành, ban đầu thì tốt lắm, nhưng tu một thời gian thì phải vào
bệnh viện tâm thần, có lẽ là vì lý do này vậy.
Trở lại vấn đề bà cụ, bà thường chửi bới người khác, hành hung, gây sự chính là
vì trong tâm cuả bà coi mọi người là đồ xấu ác, ai cũng là kẻ thù đến hại bà.
Thực ra, đây chính là tâm thức của bà hiện ra như vậy. Ban đầu có thể từ
một sự thất bại, bị lường gạt, bị bức xúc nào đó mà không có ai giải tỏa được,
nỗi uất hận đó cứ giữ mãi trong tâm, càng ngày càng lớn, lâu dần những uẩn khúc
trong tâm thức hiện ra giống như có thực.
Sống trong cảnh giới thù hận, tức bực, khó chịu, căng thẳng quá lâu, đến một
giai đoạn chiụ đựng không nổi, mới bùng vỡ ra làm cho tâm trí mất thăng bằng,
mất bình thường. Dựa vào trạng thái đó, oan gia trái chủ nhập vào điều khiển,
chế ngự, sai khiến làm sai, nghĩ sai là cho đầu óc càng ngày càng rối mù.
Phật dạy, tất cả đều do tâm tạo. Tạo cảnh giới nào, chịu cảnh giới đó.
Sống trong cảnh giới khó chiụ, oai bức, bực dọc, chửi bới nhau, kình cãi nhau,
đố kỵ nhau, hiềm thù nhau, nếu nhẹ mặt mặt cau có, nếu nặng thì đánh lộn, chém
giết nhau, nặng hơn thì tâm trí mất thăng bằng, không tự kiểm soát được!
Nếu quả đúng như vậy, lúc mới đầu gia đình tìm phương an ủi, khuyên giải, tạo
mội trường vui vẻ thoải mái thì bà cụ được khôi phục lại bình thường không khó
lắm!
Bên cạnh, người biết tu đạo thì khuyên niệm Phật cầu Phật gia bị, hồi
hướng công đức cho oan gia traí chủ, hồi hướng công đức cho ông bà cha mẹ, bà
con quyến thuộc nhiều đời nhiều kiếp cuả mình. Cữ sát sanh, phóng sanh, lợi
vật, bố thí, v.v... để sám hối nghiệp chướng, giaỉ nạn oan trái tiền khiên, thì
gỡ nạn nhanh lắm.
(Nên nhớ, ông bà cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp cuả mình bị nạn thường cũng là
chướng nạn cho mình trên đường tu hành, nên phải hồi hướng công đức cho họ, để
vừa báo hiếu, vừa giải nạn cho họ cho chính mình).
Cho nên, muốn cứu bà cụ, thì cách sinh hoạt của gia đình đóng một vai trò
quan trọng.
Nếu gia đình tin tưởng thì hãy thục hành các điều sau đây thử coi:
- Không được tạo cảnh buồn phiền trong nhà.
Không tranh cãi, không to
tiếng với nhau, không làm cho cụ bực mình. Nghiã là, phải tạo không khí tươi
vui, thoải mái, cởi mở với cụ. Ăn nói phải nhỏ nhẹ, hiền hòa, lễ độ, cư xử phải
thật nhu nhuyễn trong gia đình với nhau và nhất là với bà cụ, Chuyện này cần
kiên nhẫn, lâu dài.
-Không sát sanh hại vật nữa, nên phóng sanh, làm các việc thiện, tạo công
đức hồi hướng cho cụ và hồi hướng cho oan gia traí chủ cùng ông bà cha mẹ bà
con thân thuộc nhiều đời cuả mình.
-Hằng ngày niệm Phật, tu hành hồi hướng công đức cho cụ và hồi hướng công
đức cho oan gia trái chủ cuả cụ.
(Nên đọc rõ ràng và thành tâm, ví dụ
"Nguyện đem công đức này hồi hướng cho oan gia trái chủ bà "Trần thị
X" cầu xin hoá giaỉ oán thù xưa nay. Khẩn nguyện chư vị buông tha, cùng
nhau niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc, thoát ly sanh tử khổ nạn, thànhn tựu đạo
nghiệp, cứu độ chúng sanh, v..v... (muốn diễn tả sao cho thuận là đuợc)).
-Gia đình con cháu nên thường ngày quỳ trước bàn Phật thay cho bà l
ạy Phật
cầu xin sám hối cho bà. Tâm thành kính của con cháu ảnh hưởng rất mạnh.
-Coi thử bàn thờ Phật có đặt nơi trang nghiêm hay không? Đừng đặt nơi
tối tăm, không được đặt trong góc nhà, không được thờ chỗ quá ồn ào, nhơ bẩn.
Nên hướng ra phiá trước thuận hướng với nhà, nghiã là mở cửa thì bái Phật luôn,
rất tốt.
-Những lúc cụ loạn thì thôi, lúc bình thường thì dùng tâm lý khuyến dụ bà cụ
niệm Phật. Phải vui vẻ, tươi cười, dù bà không chịu cũng tươi cười, nhất
định không được cưỡng chế.
- Nếu có ban hộ niệm hay bạn đồng tu thì mời họ hàng tuần đến nhà cụ niệm Phật,
cộng tu, với cụ, rồi hồi hướng công đức.
Thành tất linh. Quý vị nên lấy lòng thành cầu Tam bảo gia bị, phải tin tưởng và
kiên trì để được cảm ứng. Đừng hấp tấp, đừng dùng bùa phép đánh phá oan gia
không tốt. Tập sống buông xả, ăn ở hiền lành. Lấy 5 giới 10 điều thiện làm căn
bản để tu.
Thành tâm Niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ thì được chư Phật phóng quang tiếp
cúu, Bồ tát gia trì, thì có thể tự nhiên hết nạn.
Hỏi số 44:
NGƯỜI VỢ THÌ RẨT TINH TẤN ĐI CHÙA VÀ LÀM CÁC VIỆC TỪ THIỆN, CŨNG NHƯ TU TẬP, NHƯNG NGƯỢC LẠI NGƯỜI CHỒNG MỘT MỰC PHẢN ĐỐI, NGƯỜI CHỒNG NÓI RẰNG " DÀNH HẾT THỜI GIAN TU HÀNH RỒI THỜI GIAN ĐÂU MÀ LO VIỆC BUÔN BÁN VÀ LO CHO CON, KHÔNG LÀM TRÒN BỔN PHẬN MỘT NGƯỜI VỢ VÀ NGƯỜI MẸ "
Trả lời:
Hong Ly,
Diệu Âm chỉ nhắm giải đáp việc hộ niệm, sao Hong Ly lại bắt cú Diệu Âm giải
quyết chuyện khó khăn gia đình!
Sự đời rắc rối quá. Diệu Âm chỉ biết niệm Phật, chứ đâu rành chuyện thế gian!
Bắt trả lời chuyện thế gian thì đành phải cố gắng trả lời, nhưng xác xuất %
thành công không dám chắc chắn!
Tất cả đều có nhân quả. Người biết nhân quả thì đừng tạo nhân xấu nữa để tương
lai khỏi chịu quả xấu. Người mà cứ tạo thêm nhân xấu mới thì tương lai tránh
sao cho khỏi rước quả báo xấu ác khổ đau!
Người vợ bị chồng hành hà là do cái nghiệp mình làm trong nhiều đời kiếp trước,
đến đời này quả báo hiện hành. Người chồng đánh đập vợ thì người chồng đang tạo
nghiệp xấu, tương lai phải chịu người khác hành hạ lại là điều chắc chắn, chứ
tránh sao khỏi quả báo.
Đời là khổ, biết khổ thì lo tu hành. Tu hành để tiêu giảm nghiệp chướng, nhưng
nhiều lúc muốn vẹn mà cũng khó bề vẹn toàn. Vì được vẹn toàn thì đâu còn khổ
nữa!?
Trong trường hợp Hong Ly nói, trong xã hội này nhiều lắm. Có nhiều khi chồng tu
bị vợ chống đối, vợ tu bị chồng chống đối, cha mẹ tu bị con cái chống đối,
v.v... Đây là chướng ngại gần gũi và dễ xảy ra cho người tu hành. Suy cho cùng,
tất cả đều có nhân quả cả. Biết như vậy, khi chúng ta biết tu hành thì đừng nên
tạo chướng duyên cho người khác để tương lai tránh người tới gây chướng ngại
cho ta.
Cụ thể, Diệu Âm chỉ đề nghị một vài điều nên làm thử coi.
1)Vợ tu mà chồng chống đối thì người chồng chính là nguồn ngăn trở sự vãng sanh
của mình. Khuyên xa nhau thì không nên, và không ai dám nói đến điều này. Như
vậy khi sống chung trong nghịch cảnh này chính người trong cuộc phải cố gắng
hòa giải để gỡ mối hoạ này, bằng cách:
- Đầu tiên, hãy coi đây là nghiệp mình phải trả, mạnh dạn trả để một đời này
nghiệp mình nhẹ nhàng. Đừng coi người chồng là oan gia trái chủ của mình, vì
nếu coi người chồng là oan gia trái chủ thì mãi mãi oan nghiệp không gỡ được. Hãy
coi đây là bài pháp về nhân quả thì hay hơn.
- Bị nhân quả thì dùng nhân quả để cứu. Nhân quả ở đâu? Ở ngay trong tâm. Tâm
oán hờn thì quả oán hờn, tâm ganh ghét thì quả ganh ghét... Tâm nghĩ sao nó
thành ra vậy. Nếu biết rằng nghịch chống nhau sẽ trở ngại đường vãng sanh của
ta. Vậy thì, phải cố gắng biến nghịch duyên thành thuận duyên, bằng cách hãy
coi những sự chống đối thành lời khuyên nhắc cho ta phải lo niệm Phật cho
nhiều. Chồng càng chống ta càng quyết tâm niệm Phật. Tìm mọi cách niệm
Phật, niệm lớn bị la rầy thì âm thâm niệm, niệm cho thuần thục, niệm cho nhất
tâm, để lúc cuối cuộc đời, lúc lâm chung ta có đủ sức định giữ vững câu Phật
hiệu mà tự vãng sanh. Thực hiện điều này gọi là biến phiền não thành bồ-đề,
biến cảnh khổ đau thành cực lạc đó.
- Luôn luôn cầu Phật Bồ tát gia trì, hồi hướng công đức cho chồng, hồi hướng
cho an gia trái chủ. Nhờ công đức này sẽ cảm ứng và hoá giải oan khiên.
Lòng thành có cảm ứng.
-Đã không coi chồng là oan gia, thì chính mình phải mau mau thay đổi cách sống,
tập ăn nói vui vẻ, sinh hoạt trẻ trung, chìu chuộng... Phải nhớ, biết tu hành
thi tâm hồn phải cởi mở, rộng rãi hơn người không biết tu mới đúng. Nhờ cách
sống này dần dần làm cho người chồng phản tỉnh, ăn năng hối hận việc sai trái
cuả mình.
-Cũng cần nhắc điều này, nhiều người khi biết đường tu hành thường đi tới chỗ
quá cực đoan, cố chấp, không để ý đến ý kiến, cảm giác... của người bên cạnh.
Hãy tự xét lấy mình có vướng phải lỗi lầm này không? Tại sao trước kia có
cuộc sống vui vẻ, sau khi tu hành thì cuộc sống xảy ra nhiều sự xung đột? Cố
gắng bình tĩnh tự phản tỉnh thử coi, nếu thực sự có lẽ liên quan đến vấn đề
tánh tình, tâm lý, cách sinh hoạt của người vợ đã thay đổi quá nhiều, làm cho
người bên cạnh chới với, xáo trộn...
Đây là vấn đề người vợ cần chú ý điều chỉnh. Ví dụ cụ thể hơn, nếu người vợ cứ
lo chuyện tu mà quên chuyện đời, tỏ ra lãnh đạm, lạnh nhạt, quần áo xốc xếch,
tỏ vẻ khinh thường người không tu... thì sự xào xáo trong nhà bắt nguồn từ
người vợ thiếu cẩn thận ngay từ lúc đầu.
-
Nên nhớ, chỉ có người biết tu chuyển hóa người không tu mới tốt, vì có
hướng đi lên, thăng tiến. Đừng nên chờ mong người không tu chuyển hóa người
biết tu, vì đây là hướng thối hóa, không tốt! Muốn chuyển hóa đòi hỏi phải biết
tâm lý, như: nhẹ nhàng, vui vẻ, tế nhị, có lòng từ bi và kiên nhẫn một chút mới
được. Cho nên, người biết tu cần phải cố găng, chịu khó hơn nữa mới được.
(Cũng nhắc điều này, chúng ta không thể khuyên gì được với người không tu.
Chỉ cầu mong cho họ có ngày hiểu chút đạo lý nhân quả mà thay đổi. Nếu còn
chính họ không thay đổi thì chịu thua. Diệu Âm không khuyên họ được. Ở đây
chúng ta chỉ khuyên người biết tu mà thôi).
- Phật dạy, xây dựng đạo hạnh đừng cầu không ma chướng, vì không ma chướng thì
chí nguyện không bền. Vậy hãy coi đây là điều thử thách cho mình bền chí. Phật
dạy rằng, lấy ma quân làm bạn là ý này.
- Phật dạy, với người đừng cầu thuận ý, vì thuận ý thì tánh kiêu căng
phát triển. Tánh kiêu căng phát triển thì chắc chắn tu hành không thành tựu.
Cho nên, Phật dạy hãy lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ, có vậy mới ngăn ngưà
tánh kiêu ngạo.
-Phật dạy, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, không hoạn nạn thì tâm kiêu xa. Vậy
hãy lấy chướng nạn từ trong gia đình làm điều giải thoát.
V
ậy giải thoát hay không ở ngay tâm mình. Cùng một hoàn cảnh nếu tâm biết tu
thì giải thoát, không biết tu thì mắc kẹt. Biết giải thoát thì coi người chồng
chống đối như Bồ tát dạy mình thành đạo giải thoát. Không biết tu, thì cũng
chính người chồng đó sẽ trở thành oan gia, luôn luôn àm khổ mình, sẽ kéo mình
xuống địa ngục.
Hỏi :
ĐÂY LÀ NGHIỆP CHƯỚNG CỦA NGƯỜI VỢ PHẢI TRẢ, THÌ NGƯỜI VỢ ĐƯỢC SANH TRONG ĐỜI
NÀY PHẢI GẶP NGƯỜI CHỒNG NHƯ VẬY, TẤT CẢ LÀ DO NHÂN QUẢ SẮP XẾP, THÌ NGƯỜI
CHỒNG CHỈ LÀ NHÂN VẬT ĐƯỢC SẮP XẾP ĐỂ TẠO NÊN CHƯỚNG NGẠI NÀY THÔI, LÀ MỘT CÁI
QUẢ MÀ NGƯỜI VỢ PHẢI CHỊU TRONG ĐỜI NÀY, NẾU KHÔNG CÓ NGƯỜI CHỒNG NHƯ VẬY THÌ
NGƯỜI VỢ ĐÂU CÓ TRẢ ĐƯỢC QUẢ ĐÂU.
Trả lời:
Không phải vậy đâu! Nghĩa là, người vợ sanh ra không phải là để phải gặp người
chồng. Người chồng cũng không phải là nhân vật được sắp xếp để gặp người vợ.
Không ai sắp xếp cho họ cả.
Gặp nhau để trả oan nghiệp là do cái duyên hay gọi là có cơ hội gặp nhau mới
sanh sự oan traí đó. Cái cơ hội này do chính con người tạo nên. Nếu biết cắt
cái duyên thì đâu có cơ hội gặp nhau?
Làm sao cắt? Người tu hành mà không thoát được sanh tử luân hồi thì không trước
thì sau cũng đối đầu với oan gia trái chủ. Ví dụ, người vợ trong đời trước biết
niệm Phật, tha thiết cầu vãng sanh Tây phương thì đã vãng sanh về Tây phương
rồi, thành Bồ tát rồi, thì làm sao trong đời này phải đối đầu với ân oán tiền
khiên nữa?
Cho nên, người vợ sanh ra trong đời này không phải gặp người chồng như là do
nhân quả sắp xếp đâu. Mà đây là do cái duyên mình tạo ra nó phù hợp cái nhân đã
gây mà kết lại thành quả khổ. Còn rất nhiều cái nhân khác chưa gặp cơ hội nên
nó trốn ở chỗ nào đó, chứ không phải chỉ có bấy nhiêu này thôi đâu.
Biết vậy thì phải cố gắng ăn ở hiền lành để hợp với nhân lành mà được quả lành.
Phải ăn ở hiền lành, phải lánh xa tham sân si, phải bỏ việc ác thì nhân ác cũng
khó tạo thành quả ác. Ví dụ, đối với 1 người chồng cộc cằn, nhưng có người vợ
hoá giải được, có người hóa giải không được. Nếu quyết sống với nhau thì tự
mình phải cố gắng vui vẻ, tâm lý để chuyển. Nếu không cố gắng thì tiến tới chỗ
đổ vỡ. Đây là một vấn đề khác.
Hỏi
NHƯ VẬY NGƯỜI CHỒNG CÓ TỘI HAY KHÔNG ?
Trả lời:
Có. Chắc chắn có! Đòi nghiệp cũ thì tạo nghiệp mới. Không đòi nghiệp cũ thì
nhân quả cũ coi như hết. Chính vì vậy mà Phật dạy chúng ta không được trả thù,
hanh ghét, đố kỵ... Phật dạy chúng ta phải đoạn ác tu thiện để chuyển nghiệp,
tiêu nghiệp, xoá nghiệp...
Nếu xoá nghiệp không nổi thì nghe lời Phật dạy, niệm Phật cầu vãng sanh. Vãng
sanh là mang cái nghiệp về Tây Phương nhờ Adiđà Phật gia trì cho chúng ta thành
tựu đạo quả, có thần thông đạo lực, biến hoá 10 phương cứu độ chúng sanh để trả
chuyện nhân quả.
Hỏi số 45:
XIN CƯ SỈ CHO HUỆ HẠNH HỎI VẬY TU "GIÁO HẠ" LÀ TU NHƯ THẾ NÀO? CÓ PHẢI LÀ NGHIÊN CỨU KINH ĐIỂN ĐỂ TÌM RA CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT KHÔNG?
Trả lời:
Đúng đấy, giáo hạ là danh từ chỉ
chung cho các pháp tu thuộc về nghiên cứu giáo điển cho đến khi thông suốt tất
cả kinh điển, nhờ đó mới ngộ ra lý đạo nhiệm mầu. Ngộ ra chánh pháp rồi mới có
thể hạ thủ công phu chân chánh mà đắc đạo. Hầu hết các trường cấp dạy về Phật
học phổ thông dựa trên căn bản này.
Nhưng thực ra, đây là con đường học Phật khá gian truân. Học giáo nghĩa để hiểu
(gọi là Giải) thì có, hiểu rồi bắt đầu "Hành" thì không
dễ; hành rồi mới "Chứng". Chứng đắc là một việc hoàn toàn
khác, không phải là chuyện để cho hàng hạ căn thấp thỏm như chúng ta bàn tới
đâu!
Có ba cách chính để học Phật là Giác, Chánh, Tịnh. Thì Giác chỉ cho Pháp Thiền
định, Chánh chỉ cho học rộng kinh điển, thuộc về Giáo hạ; Tịnh là thanh tịnh
thân tâm, niệm Phật cầu sanh Tịnh độ.
Gíác dành co các vị Thượng-Thượng căn hoặc Thượng căn tu tập, có
thể nhất thời đốn ngộ thành tựu, cho nên gọi là pháp "Đốn Giáo".
(Đốn là nhanh chóng, cấp kỳ). Giáo hạ chỉ phù hợp với hàng Thượng căn và
Thượng-Trung căn mới thực hiện nổi và thời gian phải dài lâu và vững
vàng, nên gọi là pháp "Viên Giáo". Ít nhất thì cũng phải 3 đại
A-tăng-kỳ kiếp thời gian mới mong thành đạt. Còn Tịnh môn dành cho tất cả chúng
sanh không phân biệt thượng hay hạ, một đời thành Phật nên được gọi là pháp "Đốn-Viên".
Có nghĩa là vừa nhanh vừa vững.
Cho nên "Đại khai viên giải" không phải đơn giản như nhiều
người tưởng. Đây là cảnh giới chứng đắc tương đương với "Minh Tâm kiến
tánh" trong Tông môn, "Nhất tâm bất loạn" trong Tịnh
tông. Trong Tịnh tông niệm Phật nhất tâm bất loạn không phải dễ, nhưng vãng
sanh thì thật sự dễ, rất nhiều người đã được vãng sanh, đó là nhờ Phật lực gia
trì mà cứu được tất cả tầng lớp chúng sanh. Tín-Nguyện-Hạnh đầy đủ ai cũng có
khả năng vãng sanh. Vãng sanh dù dưới phẩm vị nào sau cùng cũng được viên mãn đạo
quả, gọi là "Viên mãn tam bất thối chuyển".
Chính vì vậy, chư Tổ nói, pháp môn niệm Phật cầu sanh Tây phương là "Đốn
trong Đốn, Viên trong Viên", ai tín nguyện hạnh vững vàng chắc chắn
thành tựu trong một đời tu tập, cho nên mới có câu, "vạn người tu vạn
người đắc, mưôn người tu muôn người chứng"
Thời này, tâm trí hạ đẳng nên tu tịnh nghiệp là hay nhất, dễ thành đạt nhất.
Đây chính là nhờ lực gia trì cuả chư Phật tiếp độ vãng sanh, cứu được vô số
chúng sanh tối chướng sâu nặng thoát vòng sanh tử, bất thối thành tựu đạo quả
vậy.
A-di-đà Phật
Hỏi số 46:
Cháu có một vấn đề rất cần sự giải đáp và chỉ dạy của Chú,
để Cháu có thể được thấu triệt vấn đề này hơn ( Cháu đang rất bối rối và lo sợ
), Cháu nghĩ rằng chắc vợ chồng Cháu đã tạo tội nặng rồi ! Khi Cháu được biết
một chút về học Phật và những lời dạy về Nhân Quả. Vấn đề mà Cháu gặp phải là
như thế này : Hai vợ chồng Cháu lúc đầu đã có một đứa con đầu lòng, lúc trước
con của Cháu chỉ vừa tròn khỏang 2 tuổi thôi ( nay đã 3 tuổi ), nhưng vợ Cháu
lại có thai thêm lần nữa ( đây là việc ngòai ý muốn của 2 vợ chồng Cháu, vì vợ
Cháu đã dặt vòng tránh thai ), vì trục trặc nên vẫn có thai. Lúc này 2 vợ chồng
Cháu rất bối rối và lo sợ, vì đứa con đầu còn nhỏ quá mà sanh nữa thì sợ không
lo nổi, lúc này Cháu nghĩ là sanh con thì phải chăm sóc cho tròn vẹn, nếu 2 đứa
thì sẽ không lo tròn nổi ( nói chung Cháu rất là bối rối ). Cuối cùng 2 vợ
chồng Cháu quyết định là không sanh ( đi hút thai ra, thai lúc này khoảng 6 hay
7 tuần, khi hút ra chỉ là cục máu thôi, chưa thành hình, chuyện này đã xãy ra
khoảng 1 năm rồi ). Bây giờ nghĩ lại sợ quá Chú ơi ! Mong Chú giải bày dùm ! 2
vợ chồng Cháu đã phạm vào tội gì? Có cách nào hóa giải không Chú Diệu Âm ?
MONG ĐỢI THƯ HỒI ÂM CỦA CHÚ !
A DI ĐÀ PHẬT !
Trả lời:
Khi hiểu được nhân quả báo ứng rồi
chúng ta mới sợ sự tạo nghiệp ác. Trong các nghiệp ác thì nghiệp sát nặng lắm!
Tuy nhiên, nghĩ cho cùng, chúng ta là chúng sanh còn đầy mê muội thì tránh sao
cho khỏi gây nghiệp. Cái điều muốn nói ra đây là khi tạo nghiệp rồi chúng sanh
có mạnh dạn thấy rõ việc làm sai trái cuả mình chăng? Nếu thấy rõ rồi, có mạnh
dạn sám hối tội lỗi không? Đây là vấn đề cho chúng ta bàn tới.
Cháu vì thấy hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn đã quyết định làm một việc mà
trong nhà Phật nghiêm cấm, thì chắc chắn là có tội. Nay ăn năn, hối hận, đang
tìm cách hoá giải. Thật sự đây cũng là điều may mắn và đáng khen.
Trong kinh Quán Vô Lượng thọ, Phật nói, người phạm đến tội đại ác mà thành thâm
sám hối, niệm Phật cầu sanh vẫn đưọc vãng sanh. Đây chính là đầu mối cho cháu
giải nạn đó.
Nhưng sám hối như thế nào mới được?
Sám là nêu cái lỗi của mình ra, Hối là không làm chuyện đó nữa. Cháu đã khai ra
chuyện phá thai cuả mình là Sám, bây giờ quyết lòng từ nay trở về sau không
được tái phạm nữa túc là hối.
Nhưng khi đã tạo tội lỗi thì việc nhân quả làm sao giải?
Hãy hàng ngày tụng kinh,niệm Phật, làm được chút công đức, việc lành nào đều
phải thành tâm hồi hướng công đức cho pháp giới chúng sanh, hồi hướng cho lịch
đại oan gia trái chủ. Riêng cháu hãy hồi hướng thêm cho vong thai đó. Cứ thành
tâm làm việc này hàng ngày nhé.
Nếu lòng mình chân thành hòa giải như vậy thì oán hờn cũng sẽ dẽ dàng giải tỏa
thôi.. Nhưng cháu phải chân thành mới được.
Kinh Điạ tạng bồ tát bổn nguyện có nói, chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Đề
này,khơi tâm động niệm không có việc gì tránh được nghiệp nhân. Thì sự tạo
nghiệp của cháu cũng không phải là điều đặc biệt. Cái khổ nạn chính là con
người là làm điều sai lầm mà không biết mình làm sai, cứ tiếp tục làm sai lầm
tiếp thành ra oan oan tương báo không có ngày chấm dứt!
Sám hối là biết lỗi, không làm tiếp. Đừng sám hối theo kiểu ngày ngày nghĩ đến
việc làm đó mà sợ sệt, mà đau khổ, mà lo âu... Cách sám hối này không đem lại
lợi ích gì cho cháu và cho người bị thiệt hại, mà coi chừng có hại nữa, không
tốt.
Vì sao vậy? Vì người nào cứ nghĩ mãi về những điều tội lỗi thì tội lỗi sẽ hiện
ra trong tâm của họ. Nếu ngày ngày đều nghĩ đến tội lỗi thì ngày ngày tội lỗi
hiển hiện trong tâm, chắc chắn người đó sẽ đau khổ, sẽ lo âu, sẽ sợ sệt, sẽ
sống trong buồn khổ, mất vui. Đây là điều hoàn toàn không tốt!
Tất cả đều do tâm tạo. Tâm hồn đang chìm trong cảnh lầm lỗi thì thấy toàn là
cảnh lỗi lầm. Không có gì hay ho khi tâm hồn chìm đắm trong tội lỗi đâu!
Thực ra, chính mỗi một người trong chúng ta trong nhiều đời kiếp trước, cho đến
đời này, đã tạo ra vô lượng vô biên những tội lỗi rồi, từ chứ không phải chỉ có
một tội lỗi đã phát hiện ra được này đâu. Chính vì những tội lỗi đó mà chúng
sanh rất dễ bị đọa vào ba đường ác để thọ quả báo.
Nhưng cũng nên hiểu thêm rằng, bên cạnh đó có thể chúng ta cũng làm được vô
lượng những việc thiện lành rồi chứ không phải thường. Chính vì nhờ thiện căn
đó mà đời mạt pháp này chúng ta mới có cơ hội gặp được Phật pháp. Trong kinh
Phật dạy, người nào đời này gặp được câu Phật hiệu mà tin tưởng, trì niệm thì
do trong nhiều đời nhiều kiếp họ đã tu phước thiện rất lớn mới được.
Như vậy, cháu đời này gặp được Phật pháp, gặp pháp niệm Phật có tin tưởng, có
niệm Phật thì cũng nên vui mừng rằng thiện căn phưóc đức của cháu lớn lắm.
So sánh giữa tội và phước, chúng ta thấy vẫn còn nhiều cơ hội giải thoát.
Tu là tu sửa. Hành là hanh vi tạo tác sai lầm. Tu sửa thì chỉ bắt đầu sửa từ
hôm nay, nghĩa là hiện tại, cho đến tương lai, chứ không cách nào chạy ngược về
quá khứ để tu sửa được. Thời gian trôi qua không bao giờ trở lại được. Vậy thì,
quá khứ làm sai là kinh nghiệm cho chúng ta sửa chữa lại hành vi động niệm của
mình hầu tương lai không còn tái phạm nữa.
Nhưng còn một vấn đề nữa: Tu phước thì hưởng phước, còn làm tội thỉ phải chịu
tội. Phần nào ra phần đó. Có nghĩa là quả báo phải thọ lãnh, gọi là "Nhân
duyên quả báo tơ hào không sai". Vậy phải làm sao đây?
Nếu tu hành mà không thoát được sanh tử luân hồi, nghĩa là không ra tam giới
thì chắc chắn không trước thì sau cũng phải có ngày hoàn trả tất cả những
nghiệp nhân chính mình đã làm ra. Trả nghiệp ở đâu? Ở các cảnh giới địa ngục.
Làm sao thoát được sanh tử luân hồi?
Nếu tự tu tự chứng thì chắc chắn rằng, thời mạt pháp này thế gian khó tìm ra 1
người thực hiện được sự thoát vòng sanh tử của Phật giáo. Vì như cháu đã biết,
nghiệp chướng đã quá nặng, còn nghiệp nhất định phải theo nghiệp thọ quả báo,
theo nghiệp thọ báo thì nhất định không thể thoát ra khỏi tam giới. Nên nhớ đã
là nghiệp thì dù là thiện hay ác vẫn là nghiệp, vẫn bị trói buộc trong sáu
đướng sanh tử luân hồi.
Muốn thoát tam giới phải phá Kiến-Tư phiền não, từng phẩm từng phẩm phaỉ phá
hết đếm 88 phẩm thô thiển cố chấp tham trước thuộc về Kiến hoặc. Ai phá nổi?
Nhất định khó có ai làm được! Rồi sau đó phải phá thêm 81 phẩm Tư-hoặc, nghĩa
là những ý nghĩ tế vi trong tâm, khơng cần phải lộ ra hành động.. Ai phá nổi?
Chắc chắn không tỉm được 1/10 người làm được trong cái thế giới ngũ trược ác
thế này! Trong kinh nói, đưọc vậy rồi chưa hết, ngoài ra còn phải sanh lên trời
rồi rớt xuống phàm trần 7 lần như vậy, sau đó mới chứng quả A-la-hán vượt qua
được tam giới,thoát khỏi luân hồi.
Như vậy làm sao đây? Phải nương nhờ Phật lực mà thoát luân hồi. Một câu A-di-đà
Phật giúp cho chúng sanh đầy tội lỗi đới nghiệp Vãng sanh. Vãng sanh thì chắc
chắn thoát ly sanh tử luân hồi..
Nhưng thoát ra khỏi tam giới chỉ mới qua khỏi "Phần đoạn sanh tử" chứ
chưa thoát được "Biến dịch sanh tử".
Phần đoạn sanh tử là sự chết sống của cái báo thân này, báo thân của phàm phu có
giới hạn, sanh ra từng đoạn rồi chết. Các vị A-la-hán vượt qua được thân phàm
phu, không còn Phần đoạn sanh tử nữa, nhưng còn chịu phần Biến dịch sanh tử,
nghĩa là sự biến đổi giữa mê và ngộ trong tâm. Nói chung còn phải tu hành thật
niều để phá "Trần sa hoặc" đề tiến dần đến chổ phá vô minh hoặc để
khai trí huệ, sáng tâm thấy tánh. (Điều này cao quá, không dám bàn thêm).
Người niệm Phật được Adiđà Phật tiếp dẫn vãng sanh sẽ vượt qua tất cả những
cảnh giới đó, một đời thành đạo vô thượng. Thật vô cùng quí hoá, vô cùng thù
thắng. Một đời này chúng ta ai cũng có thể thực hiện được. (Xem thêm kinh Vô
lượng thọ, Adiđà, v.v...)
Khi vãng sanh, nhờ Phật gia trì chúng ta được khôi phục chân tâm tự tánh mà
thành Phật. Thành Phật thì mới có năng lưc cứu độ tất cả chúng sanh. Cứu độ tất
cả chúng sanh nghĩa là cứu tất cả những người mà lúc mê muội ta đã hại họ. Cứu
được oan gia trái chủ thì hoá giải nhân quả vậy.
Thành tâm niệm Phật cầu vãng sanh thì tất cả oán nạn sẽ được giải quyết.
Tóm lại, muốn giải ách nạn này, cháu phải làm như vầy:
1/ Không được tái phạm lỗi lầm như trước nữa.
2/ Ngày ngày niệm Phật, ăn ở làm thiên lành, giúp người, phóng sanh, v.v... nói
chung đừng làm ác, cố gắng làm thiện, đừng ngừng lại ở việc thiện nữa, mà mỗi
chiều lại đem công đức này:
- Hồi hướng đến khắp pháp giới chúng sanh,
- Hồi hướng cho oan gia trái chủ nhiều đời nhiều kiếp.
- Hồi hướng cho ông bà cha mẹ bà con thân thuộc trong nhiều đời nhiều kiếp
- Hồi hướng cho vong thai đó, cứ nghĩ đến để hồi hướng cầu cho họ được vãng
sanh tịnh độ là được.
- Hồi hướng về Tây phương tịnh độ cầu cho chính mình hết báo thân này được vãng
sanh, nguyện thành Phật, độ chúng sanh.
- (Hồi hướng cho những ai cần đến đều được).
3/ Phải luôn nhớ Phật, niệm Phật, cầu hết báo thân được vãng sanh. Chứ không
phải nhớ tội, sợ tội, buồn vì tội lỗi đã lỡ lầm làm phải trong quá khứ nữa nhé.
Chúc vui thành đạo.
Hỏi số 47:
Kính Sư Huynh Diệu Âm Úc Châu;
Thầy Ngộ Thông đã cho chúng tôi niệm Phật theo máy đánh nhịp, chúng tôi đã tìm
mua ở tiệm bán nhạc cụ máy Metronome quatz hiệu Seiko đánh đến 208 nhịp 1 phút.
Đạo tràng Niệm Phật ở Oklahoma chúng tôi có khoảng 20 liên hữu đồng tu Niệm
Phật mỗi lần từ 60' đến 90' không gián đoạn, niệm như vậy thì có lợi hơn. Nếu
đánh địa chung thì Niệm được từ 20đến 30 phút là ngưng nghỉ, rồi bắt đầu Niệm
lại chúng tôi cũng đã thực hành dộ 4 tháng thấy không thể nhất tâm bât loạn vì
bắt đầu Niệm từ 20 đến 30 phút tâm còn tạp Niệm, còn xen tạp nhiều chuyện bên
ngoài.
Xin Sư Huynh giúp cho ý kiến vì nhiều bạn đồng tu đang theo Pháp môn Niệm Phật
Cầu Nguyện Vãng Sanh được nhiều sự lợi lạc,
A-Di-Đà Phật
Trả lời:
Diệu Âm góp ý kiến rằng,
Niệm Phật cò rất nhiều phương pháp, mỗi phương pháp đều có ưu điểm và khuyết
điểm riêng. Có người thích cách này, cò người thích cách khác. Không có cách
nào là tuyệt đối ứng hợp với tất cả mọi người. Cho nên, đạo hữu thấy phương
cách của Thầy Ngộ Thông hướng dẫn làm cho đạo hữu thấy cảm ứng thì hãy theo
cách của Thấy.
Từ trước tới nay, chư Tổ đều chế ra khá nhiều cách để đáp ứng những cảm ứng
khác nhau. Có người niệm chậm mới nhiếp tâm, có người niệm nhanh mới nhiếp tâm,
có người niệm theo âm điệu mới thấy cảm ứng, có người cần niệm đơn giản từng
tiếng rõ ràng mới cảm ứng, có người thích phương pháp "Phản văn trì
danh", có người thích "Kim Cang trì danh", v.v... Tất cả đều do
sự ứng hợp riêng, chứ không thể nói cách này là nhất, cách kia là nhì được.
Theo như đạo hữu nói thích niệm nhanh. Điều này tốt, Ngài Ấn Quang chủ trương
Kim Cang Trì Danh, nghĩa là niệm rất nhanh, hai môi đánh nhẹ hai hàm răng và
tiếng rất khẽ để niệm thật nhanh, mỗi ngày niệm 50 ngàn câu Phật hiệu.
Còn như Ngài Phi Tích thì dùng hơi thở để niệm, nghĩa là thở vào: A-di-đà Phật,
thở ra: A-di-đà Phật, còn thở còn niệm, cách niệm này không thể nhanh được.
Ngaì Ngẫu Ích Đại Sư thì dạy cần thành tâm, chí thành, chí thiết niệm cho sâu
chứ không cần niệm nhanh. Chủ đích của Ngaì là niệm sâu, chứ không phải niệm
nhiều.
Niệm nhanh để các tạp niệm không xen tạp vào, dễ tạo công phu thành thục và bắt
cả ngày phải bám sát theo câu Phật hiệu vì phải xong công cứ. Nhưng niệm nhanh
cũng có khuyết điểm là rất dễ thành niệm láo, niệm như cái máy, ưa tính số
nhiều chứ không đủ phẩm chất, v.v...
Niệm chậm thì tiếng rõ ràng, lắng nghe rõ tiếng niệm, chủng tử rõ ràng, tâm
thành kính, trang ngiêm, hành giả càng ngày càng điềm đạm, v.v... Nhưng nó cũng
có khuyết điểm là không có sức đẩy mạnh, dễ lười biếng, dễ có tạp niệm xen vào,
v...v...
Nói chung, mỗi cách đều có chỗ hay, và chỗ yếu. Các vị tu hành cao thường điềm
nhiên tự tại, trong tâm thầm niệm Phật, còn người phàm phu của chúng ta thường
nên kết bè với nhau niệm ra tiếng để hỗ trợ nhau mới tốt.
Phương pháp niệm Phật địa chung là cách công phu chính yếu của Hộ Tịnh Tông thế
giới đang áp dụng, Nó giống một phần ngắn trong "Tam thòi hệ niệm Pháp
sự" do ngài Trung Phong Quốc Sư lập ra từ đời nhà Nguyên. Cách công phu
này khá hay, phổ dụng cho tất cả mọi người, ai tham gia cũng cảm thấy hoan hỉ.
Thời gian 3 giờ trôi qua một cách thoãi mái, không quá gò ép, không quá căng
thẳng, tư thế cộng tu thay đổi liên tục nhưng không mất cảnh trang nghiêm, nhất
là sự sử dụng pháp khí rất hay.
Còn phương pháp đánh nhịp của Thầy Ngộ Thông, tình thực Diệu Âm chưa biết qua,
nhưng cũng có nhiều người tán thán lắm. Vì trong những năm qua, Diệu Âm theo tu
chung vói đại chúng của Tịnh Tông Học Hội nên chỉ biết có cách tu theo địa
chung, còn ngày thường thì kinh hành niệm Phật, nên không biết làm sao so sánh.
Nói chung tất cả đều tùy duyên, hãy để tự mỗi người tìm lấy phương thức tu
thích hợp nhất của họ thì được nhiều thiện lợi... Người thích niệm chậm nên kết
nhóm niệm chậm. Người thích niệm nhanh nên thành lập nhóm liên hữu niệm nhanh
để hỗ trợ nhau. Mục đích chính vẫn là niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, đều tốt cả.
Cố gắng giúp đỡ nhau, khuyến tấn nhau để cùng nhau tu học. Đây chỉ là phương
tiện tạo tư lương để vãng sanh, chứ không phải là mục đích.
Nghĩa là, người niệm chậm không nên chê người niệm nhanh. Ngưòi niệm nhanh
không được khinh thường ngưòi niệm chậm. Nếu chê bai nhau thì chúng ta bị phạm
vào Chấp Trước. Nhất định không tốt!
Còn một vấn đề khác đạo hữu nêu ra là "Nhật tâm bất loạn", xin thưa
rằng cảnh giới này trước đây Diệu Âm cũng từng lầm lẫn qua, cứ tưởng rằng một
vài phút tâm hồn an tịnh nào đó thì cho là "Nhất tâm bất loạn". Nhưng
sau này hiểu ra thì không phải vậy đâu.
Nhất tâm bất loạn là cảnh giới chứng đắc cao lắm, có lẽ rằng trong đời này, như
sức của D/Â, không dám mơ tới.
Chư Tổ dạy, niệm Phật không cầu nhất tâm bất loạn thì mới có thể Nhất tâm bất
loạn, nếu còn đặt vấn đề nhât tâm bất loạn thì không bao giờ được Nhất tâm bất
loạn. Vì không còn để ý đến nhất tâm bất loạn thì tâm mới tịnh, còn cứ cầu mong
lung tung thì tâm càng loạn thêm. Nếu tham cầu nhiều quá cũng dễ đi đến chỗ
vọng tưởng sai lầm, có thể bị nguy hiểm về sau!...
Trong quá khứ, cũng như gần đây, nhiều người đã tự nhận chứng đắc đến cảnh giới
này. Nhưng hình như sau đó họ đã gặp khá nhiều trở ngại! Thấy đó mới biết lời
chư Tổ khuyến cáo không sai!
Tổ Ấn Quang dạy, phải luôn tự coi mình còn thấp kém. Đây là Ngài nhắc nhở chúng
ta đó. Ngài nói vãng sanh là do lòng thành kính mà cảm đến Phật lực gia trì,vậy
thì thành tâm niệm Phật là hay hơn. Chư Tổ còn dạy, hãy nhìn những điều tốt,
đừng nhìn điều xấu, cố gắng xét lỗi mình, chớ nói lỗi người, để tránh bớt
nghiệp, giữ tâm thanh tịnh. Cứ thế mà tu, rồi thành tâm niệm Phật cầu vãng
sanh.
Và hơn nữa, hãy chuẩn bị thật kỹ người hộ niệm, thì khi lâm chung mình dễ được
an toàn nương theo Phật lực gia trì, 10 niệm vãng sanh thì hay hơn.vậy.
Hỏi số 48:
Em nghe mẹ em kể anh Diệu Âm có tiếp xúc với người chị bà con bi bệnh Ung thư, nhờ thành tâm niệm Phật nên bệnh đã lui. Nhưng lai nghe anh Diệu Âm dặn rằng khi nào chuẩn bị Vãng sanh, hãy báo cho anh biết để anh tổ chức Hộ niệm từ xa. Tụi em có thể làm gì để giúp đỡ chị ấy được chắc phần Vãng sanh?
Trả lời:
Chuyến về VN 11/08, Diệu Âm đã tiếp
xúc được người chị bị bệnh ung thư mà được hết bệnh của Bác sĩ. Thật là vui!
Chị đó rất vui mừng khi gặp Diệu Âm, và nói chuyện rất nhiều về bệnh tình của
chị. Chị bây giờ rất giác ngộ đường tu hành, tin tưởng Phật pháp rất cao, rất
thành tâm niệm Phật, Diệu Âm xin kể sơ lại một đoạn nói chuyện cho Bs nghe.
Diệu Âm hỏi:
- Chị bị ung thư và bây giờ hết rồi hã? - Dạ.
- Chị niệm Phật bao lâu? - Dạ khoảng 7 tháng.
- Bây giờ Chị vui lắm phải không? - Dạ rất vui.
- Chị tin Phật pháp chưa? - Em tin tuyệt đối, em quyết định niệm Phật cầu vãng
sanh Tây phương.
- Bây giờ Chị có còn sợ chết nữa không? - Em không sợ chết, mà em cón muốn vãng
sanh sớm nữa, ở đây làm chi cho khổ. Ngày nào còn sống em niệm Phật, ngày ra đi
em theo A-di-đà Phật về Tây phương.
- .........
- Nhớ nghen, trước khi vãng sanh, nếu có thể thì chị nên cho tôi hay với, tôi
sẽ cố gắng giúp chị bằng cách giới thiệu hoặc mời những ban hộ niệm họ tới hộ
niệm cho chị. Phải cẩn thận hộ niệm mới vững tâm. - Dạ........
Câu chuyện là như vậy. Chứ tôi không có nói rằng, báo cho tôi biết để tôi tổ
chức hộ niệm từ xa đâu.
HN cho người bệnh vãng sanh cần phải ở bên cạnh bệnh nhân, khai thị, hướng dẫn,
hóa gỡ chướng nạn nếu có, và niệm Phật thành tiếng để hỗ trợ cho họ mới được,
chứ ở xa thì nhiều lắm là chỉ hồi hướng công đức mà thôi.
Trên thực tế, đã nhiều lần Diệu Âm được các BHN, hoặc thân nhân ở xa, điện
thoại tới nhờ Diệu Âm nhắc nhở hướng dẫn, khuyên giải cho bệnh nhân qua điện
thoại thì có. Đây chẳng qua vì sự nể nang, tin tưởng hoặc tình cảm mà thôi. Vì
để góp sức cứu người, tôi cũng không câu nệ, và thường vui vẻ để góp công hùn
phước tạo thêm tín tâm cho người bệnh vững tâm niệm Phật hầu được vãng sanh.
Đây là đòn tâm lý, chứ chính Diệu Âm này không có khả năng đặc biệt nào cả, Xin
Bs đừng hiểu lầm.
Người chị bị bệnh ung thư tới giai đoạn chót nằm chờ chết. Chị biết buông xả,
phát lòng niệm Phật cầu vãng sanh và được hết bệnh, thực ra chính là vì mạng số
của người chị chưa hết. Giả như chị không niệm Phật thì đến nay chị cũng chưa
chết, nhưng chị bị đau đớn đến mê man bất tỉnh, xỉu lên xỉu xuống trên giường.
Chị phải chịu cảnh khổ này qua nhiều năm tháng. Cái khổ nạn nói sao cho xuể!
Thế nhưng nhờ chị thành tâm niệm Phật, quyết buông hết để cầu vãng sanh. Do chị
làm đúng theo pháp niệm Phật nên nghiệp bệnh của chị tự nhiên thuyên giảm.
Trong pháp hộ niệm vãng sanh, chư Tổ trong Tịnh tông thường nói rằng, thành tâm
niệm Phật cầu vãng sanh, nếu thân mạng chưa hết thì tự nhiên hết bệnh. Nếu thân
mệnh đã mãn thì được Đức Di Đà phóng quang tiến dẫn vãng sanh.
Hiện tượng hết bệnh của người chị của Bs chứng minh rõ ràng việc này. Trong một
thời gian ngắn ngủi nói chuyện với chị, Diệu Âm giải thích thêm về hiện tượng
này cho chị hiểu rằng, chị hết bệnh là do lòng chí thành niệm Phật mà được Phật
lực gia trì. Thay vì chị phải tiếp tục bị đau đớn, thì giờ đây chị được thoải
mái để niệm Phật. Tôi khuyên chị hãy vững tâm niệm Phật cho đến ngày mãn cuộc
đời.
Chị có hứa sẽ quyết tâm niệm Phật cầu vãng sanh.
Trường hợp của chị, khi phần số mãn thì có thể bịnh sẽ tái phát và theo dịp đó
chị vãng sanh luôn. Rất nhiều trường hợp buông xả niệm Phật cầu vãng sanh mà
hết bệnh, có người hết bệnh 1 năm rồi tái phát để vãng sanh, có người 2 năm, 3
năm, 4 năm v.v... và đã có người niệm Phật hết bệnh luôn, hơn 15 năm qua vẫn
đang còn sống, (ví dụ như ông Lý Mộc Nguyên ở Singapore, đến nay vẫn còn sống).
Câu Phật hiệu nhiệm mầu bất khả tư nghị. Mong cho ai biết được những tin tức
này, phát khởi tín tâm vững mạnh, thành tâm niệm Phật. Thành tâm thì sẽ có cảm
ứng. Chớ nên nghi ngờ.
Cái mạng này, sống chết đã có số phần. Người thành tâm niệm Phật có thể cải đổi
mạng số. Đổi cái thân nghiệp báo thành cái thân nguyện lực. Đừng chấp vào cái
túi thịt này mà bị chết, bị khổ ải trăm bề. Hãy phát tâm cứu độ chúng sanh vãng
sanh Tây-phương Cực lạc thì cái thân này trở thành thân nguyện lực vậy.
Bây giờ, có thể làm gì để giúp đỡ chị ấy được chắc phần Vãng sanh?
Cố gắng tạo điều kiện thuận lợi cho chị niệm Phật. Nếu có thể Bs nên giúp cho
chị một NPĐ nho nhỏ, ví dụ sửa sang một căn phòng nhỏ, gọn gàng, sáng sủa trang
nghiêm để giúp chị có chỗ niệm Phật an ổn và nhân tiện chị có thể hướng dẫn gia
đình và vài người trong làng cùng niệm Phật. Chính nhóm nhỏ người này sẽ là Ban
hộ niệm giúp chị vững vàng vãng sanh, và giúp người khác trong làng khi lâm
chung được vãng sanh Cực lạc.
Công đức vô lượng,
A-di-đà Phật
Hỏi số 49:
Hằng ngày con niệm Phật mà thấy nhứt đầu, khó chịu trong người, tối ngủ lại gặp ác mộng... Con thực sự rất lo lắng, không biết phải làm sao?
Trả lời:
Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật dạy chân thành miệm một
câu Phật hiểu có thể tiêu đến 80 ức kiếp nghiệp chướng trọng tội. Người thành
tâm niệm Phật thì nghiệp chướng sẽ tiêu mòn đến sạch luôn.
Người niệm Phật mà bị nhứt đầu là do nghiệp chướng của mình lớn quá, vì vậy khi
gặp môn thuốc a-dà-đà này bị công phá thành ra nhứt đầu đó. Giống như uống
thuốc vậy, thuốc hay thi công phạt mạnh, uống vào thì những lần đầu thường bị
cảm thấy khó chiụ. Nhưng cứ uống thì chẳ bao lâu sau sẽ hết.
Cho nên, cứ tiếp tục niệm Phật, một lòng tin tưởng vào sự gia trì của Phật,
đừng nên chao đảo tinh thần.
Niệm Phật có ba điều cần phải có, đó là tín-nguyện-hạnh. Phải tin tưởng, phaỉ
phát nguyện vãng sanh, phải thành tâm niệm Phật liên tục. Nên nhớ, nguyện là
nguyện cầu mình được vãng sanh chứ không phải cầu hết bệnh. Nguyện tha thiết
chứ không phải cầu lâý lệ. Tha thiết được vãng sanh thì mấy thứ nhứt đầu sơ sài
có gì mà lo lắng dữ vậy!
Nếu người niệm Phật bị nhứt đầu mà còn lo lắng về nhứt đầu thì càng bị nhứt đầu
nhiều hơn. Vì sao vậy? Vì không tin, không tha thiết việc vãng sanh, cho nên
niệm Phật không chí thành chí thiết đó!
Tín-nguyện-hạnh tuy ba mà một, thiếu một thì trật cả ba. Vì thế mà niệm Phật
không được tương ưng. Đây cũng là do nghiệp chướng tạo nên.
Bây giờ làm sao?
1) Thành tâm sám hôí nghiệp chướng. Bằng cách nào? Lạy Phật & niệm Phật cho
nhiều và chí thành sám hối khi laỵ-niệm.
2) Quyết lòng buông xả vạn duyên. Làm sao buông xả? Chẳng lẽ bỏ chồng bỏ con
sao? Không phaỉ vậy. Buông xả là trong tâm thoải mái, khong lo sầu, không cố
chấp, không tham đắm, không giận hờn, không sợ nhứt đầu, không nghĩ ngợi lung
tung nữa. Ngay cả việc sai trái cũng quên luôn. Hãy chú tâm niệm Phật để cuối
đời mình được vãng sanh.
3) Nếu có nhứt đầu thì cứ nói thẳng với mình là:" Đáng đó, ai bảo trước
đây làm sai chi! Ai baỏ tu hành trễ quá chi! Ai bảo sát sanh nhiều quá chi!...
Tất cả nghiệp chướng hiện hành thành quả báo thì đành phải chấp nhận, nay phải
lo niệm Phật để về Tây phương luôn thì khỏi bị nghiệp khảo nữa. Về Tây-phương
thành đạo để giaỉ quyết nghiệp báo.
Hãy nghĩ rằng với nghiệp chướng của mình, mình phải chịu quả báo nặng hơn chứ
không phải bây nhiêu này đâu. Đúng ra mình phaỉ bị đau nhiều hơn gấp 100 lần
cơ. Nếu có tâm sám hối dũng mãnh như vậy thì tự nhiên thấy không còn đau nữa.
Tức là vui vẻ rồi vậy.
Người nào tín nguyện hạnh đầy đủ thì tự nhiên khoỉ nhứt đầu. (Nếu không khỏi
thì uống vài viên thuốc cho dịu bớt rồi lo niệm Phật đi, có gì đâu mà lo lắng
dữ). Vạn pháp giai không. Suy cho cùng, nhứt đầu cũng là không luôn. Vô sự!.
Ngươì ta bị ung thu sắp chết mà niệm Phật còn hết bệnh thay, huống chi đau đầu.
Có biết bệnh ung thư sắp chết họ đau đớn như thế nào không? Đau như cắt thịt
vậy đó, âý thế mà niệm Phật còn hết đau thay, huống chi nhứt đầu!
Biết lúc sắp chết đau đớn như thế nào chưa? Đau như con rùa bị lột cái mai vậy
đó. Đau quằn quại mà niệm Phật còn an nhiên vãng sanh thay huống chi nhút đầu!
Biết khi mình cầm dao cắt cổ con gà, nó đau như thế naò không? Ấy thế mình chỉ
mới nhứt đâù 1 chút mà la làng lên sao!
Nếu không phấn đấu, không tin tưởng thì làm sao thoát khỏi nghiệp baó?
Hãy nghĩ đến cái khổ của chúng sanh thì cái khổ cuả mình tự nhiên tan biến. Còn
cứ lo nghĩ đế cái khổ của mình thì khổ tạo thêm khổ, gọi là "Khổ-Khổ"
vậy! sám hối chính là đây. Chứ còn than trới trách đất thì nghiệp chồng lên
nghiệp. Chắc chắn bị khổ nhiều hơn.
*) Còn việc nằm ác mộng là do tâm mình bị vọng tưởng nhiều quá, lo lắng nhiều
quá, sợ sệt nhiều quá, giận hờn nhều quá, buồn phiền nhiều quá, bất an nhiều
quá. Ngược lại, không để tâm thanh tịnh, không an nhàn, không thoãi mái, không
vui vẻ, không coi đời là huyễn mộng, còn chấp quá nhiều vào tham sân si mạn...
nói chung tâm bất an, bất tịnh nhiều quá mới sinh ra mộng mị. Lúc ác mộng, cứ
khởi tâm niệm Phật thì hết liền. Chắc chắn. Còn niệm Phật mà không hết thì giả
đò niệm, miệng niệm cho lâý có, chứ tâm không tin. Niệm kiểu naỳ vô ích.
Thế gian thường nói: "Tâm bất tịnh, thị chi bất kiến, thính chi bất văn,
thực bất tri kỳ vị" là vậy đó. Thôi thì tất cả đều bỏ hết đi, coi sự đời
nhẹ tựa lông hồng đi, để cho đầu óc mình thoải mái. Nghĩa là, phaỉ vui vẻ,
không lo lắng gì cả, tì tự nhiên vô sự.
Nên nhớ, người thành tâm niệm Phật có quang minh của Phật gia bị, có 25 vị Bồ
tát gia trì, có chư thiên long bát bộ bảo vệ... Mình đang tắm trong từ lực rất
mạnh mà còn sợ gì nữa mà phải chịu ác mộng, lo sợ, ngủ không yên?
Tin không? Tin thì hết. Không tin thì chiụ thua!
Bên cạnh đó, phải hiểu giá trị của sự làm lành lánh dữ. Nên tập phóng sanh lợi
vật, thành tâm sám hối nghiệp chướng, tu hành niệm Phật phải luôn luôn hồi
hướng công đức cho 1)Pháp giới chúng sanh; 2) Ông bà cha mẹ cửu huyền thất tổ
của mình; 3) Oan gia traí chủ nhiều đời nhiều kiếp; 4) H/H về Tây phương, cầu
VS thành đạo để độ tận chúng sanh.
Sám hối cũng là niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Thành tâm niệm Phật thì linh ứng,
niệm Phật mà không thành tâm thì không có phần lợi ích.
Không làm điều ác,
Phải làm điều lành,
Tâm hồn thoãi mái,
Tự nhiên hết bịnh.
Hỏi số 50:
Hiện tại có một trường hợp này cháu không biết làm sao? Có
một bệnh nhân tuổi đã 80 mà bệnh ung thư, ông cụ này không đi được, nhưng còn
tỉnh táo và biết mọi chuyện nhưng ông ấy không hiểu về phương diện niệm Phật.
Con cháu trong gia đình muốn ông ấy có được hộ niệm cho ông . Ông có ý định
trong lòng:
Ông cụ này rất thương người vợ đã mất và quyết lòng đi tìm vợ khi đã qua đời.
Con không biết bất đầu làm khi ông cứ cố quyết lòng như vậy.
Trả lời:
Người còn chấp chuyện thế gian nhất
định khó được giải thoát. Khó giải thoát thì chắc phải chịu đọa lạc. Đó là tại
chính mình mê muội nên đành chịu vậy thôi!
Người trước khi chết mà quyết chạy theo người chết thì chắc chắn phải chết.
Chết thì kinh khủng lắm! Vì chết là bị đọa lạc. Người chết trước bị nạn, người
sắp chết muốn theo đường đọa lạc nữa thì làm sao được vui vẻ, tự do?
Vợ có nghiệp của vợ, chồng có nghiệp của chồng. Nghiệp khác nhau thì thọ báo
khác nhau, khi chết làm sao có thể gặp nhau? Mà dù có gặp nhau đi nữa thì ở
trong cảnh khổ đau đọa lạc cũng đành ngậm đắng nuốt cay, sống dở chết dở, nhìn
nhau mà khóc, mà chịu phũ phàng ân hận ngàn năm. Càng ân hận càng khổ đau, lúc
đó biết mình đã vụng dại cũng đã quá muộn màng!
Người vợ đã chết, có thể đang bị khổ đau. Trong cảnh khổ ấy, người vợ đang mong
đợi ngày đêm người chồng tìm cách cứu mình ra. Người chồng là niềm hi vọng cứu
độ cho vợ, vậy mà người chồng không chịu tìm cách cứu vợ ra, lại muốn chui vào
chỗ khổ nạn để chịu chung số phận đọa đày. Sao mà nghĩ sai lầm vậy?
Một người bị tù cứu còn dễ, hai người bị tù thì cứu càng khó. Cùng nhau vào tù
thì ai cứu được ai đây? Người bị đọa lạc trông người thân được giải thoát để
cứu mình, người chưa chết không chịu tìm đường giải thoát để cứu người thân,
lại muốn chui vào chỗ khổ để cùng bị đoạ đày. Chẳng lẽ gặp nhau để khóc than mà
vui sao?
Người mê mờ cứ đâm đầu vào chỗ chết. Ông bà, cha mẹ, vợ con cứ dắt nhau nhảy
vào hầm lửa để cùng bị thiêu đốt. Xưa nay có ai bị vậy mà được thoát nạn đâu?
Cho nên, Hải hãy cố gắng khuyên ông cụ mau mau niệm nam mô A-di-đà Phật cầu vãng
sanh Cực lạc, về được Tây phương cực lạc rồi mới có khả năng gặp người vợ đã
chết của cụ đang bị nạn ở chỗ nào mà tới đó cứu. Còn nếu cụ nhất định muốn tìm
người vợ đã chết thì nhất định cụ bị khổ nạn, dễ lâm vào cảnh lang thang không
nhà không cửa, không nơi nương tựa trải qua hàng ngàn vạn năm đó. Tội nghiệp
lắm! Đừng nên sơ ý.
Cố gắng khai thị, nói rõ điều lợi hại cho ông cụ biết. Hãy nói vững vàng, rõ
ràng để cho cụ giựt mình tỉnh ngộ, mau mau thay đổi ý muốn sai lầm. Chính cụ
phải đổi ý niệm, tha thiết cầu vãng sanh thì mới có thể vãng sanh. Có được vãng
sanh thì mới có thể thành tựu đạo quả, mới có khả năng cứu độ người thương,
thân nhân.
Vãng sanh Tây Phương không khó, Tín tưởng, phát nguyện vãng sanh và thành tâm
niệm Phật thì được. Nói với gia đình cùng nhau khuyên nhắc, chớ có nghi ngờ.
Cụ phải có lòng tin sâu sắc vào lời Phật dạy thì được thôi. Lời đức Phật
A-di-đà thề rằng, ai nghe danh hiệu Ngài mà tin tưởng, vui vẻ, niệm danh hiệu
Ngài cầu vãng sanh về nước Ngài thì dẫu niệm 10 niệm (trước khi xả bỏ báo thân)
cũng được Phật đến tiếp dẫn về Tây phương, hưởng đời sung sướng vô lượng. Phật
dạy như vậy xin Cụ phải tin tưởng đừng nghi.
Nguyện vãng sanh phải thật tha thiết, chứ không được nguyện dối. Tha thiết muốn
vãng sanh thì phải buông bỏ tất cả những ý muốn khác, không được sợ chết, không
được nhớ con cháu, không được muốn theo vợ.
Tin tưởng vào lời Phật dạy và tha thiết cầu vãng sanh thì được cảm ứng, lúc đó
cất lời niệm câu Phật hiệu thì đời này được vãng sanh, thoát khỏi tất cả khổ
nạn, sanh về cõi Phật A-di-đà thành tựu giải thoát.
Còn nếu không chịu nghe theo lời này, cứ muốn chạy theo đường đoạ lạc, thì sau
khi chết khó tránh khỏi nạn, ngàn đời vạn kiếp bị đọa lạc khổ đau, không ai cứu
được đâu.
Về phần gia đình, con cháu của cụ phải hỗ trợ tích cực về việc hộ niệm. Nếu con
cháu không chịu tin tưởng Phật pháp, không hỗ trợ cho việc vãng sanh Cực lạc,
lại cứ đem chuyện thế gian ra ai ủi, vỗ về, tham sống sợ chết, cầu cho được
sống thêm, v.v... thì thật là khó giải quyết.
Hộ niệm là con cháu trong những lúc chăm sóc, phải chú tâm khuyên nhắc cụ niệm
Phật, và cùng niệm Phật với cụ, cầu xin cho cụ được vãng sanh, Bất cứ trường
hợp nào cũng thành tâm cầu cho cụ được Phật A-di-đà phóng quang đến tiếp dẫn.
Nhất định không có tư tưởng sầu khổ, buồn lo, than khóc,...
Đừng để người hàng xóm, người quen thân tới lui thăm lom, nói điều tiêu cực mà
làm lạc tâm người bệnh
Rất chú trọng việc phóng sanh lợi vật, làm nhiều việc thiện lành để hồi hướng
công đức cho cụ. Thường ngày gia đình cần nên lạy Phật, niệm Phật, thành tâm
thay cho người bệnh cầu xin sám hối nghiệp chướng, v.v... rồi hồi hướng công
đức cho Cụ, hồi hướng cho oan gia trái chủ, cho ông bà, cha mẹ, cửu huyền thất
tổ, để hóa giải ách nạn, cầu cho cụ vãng sanh. (Xem thêm các video vãng sanh để
biết cách điều giải).
Nhất định phải tìm mọi cách thuyết phục cụ thay đổi ý niệm, thay vì muốn đi tìm
người chết thì giờ đây hãy một lòng một dạ niệm A-di-đà Phật, cầu vãng sanh.
Đây là điều tối quan trọng. Nếu cụ không chịu thay đổi thì việc hộ niệm sẽ thất
bại. Cần dùng nhiều thiện xảo, tâm lý, vui vẻ... khuyên nhủ, khai thị...
Lòng thành tất linh ứng. Nên nhớ chỉ cầu vãng sanh, không được cầu hết bệnh.
Tín-Nguyện-Hạnh đầy đủ thì tự nhiên được hưởng đại lợi lạc. Nghĩa là, cụ sẽ
được tỉnh táo vui vẻ hoặc sẽ vãng sanh nếu thân mạng đã mãn, hoặc là sẽ hết
bệnh nếu số phần chưa hết. Nếu sơ ý cầu nguyện sai cách thì Cụ sẽ bị thêm ách
nạn, khó tránh miễn khổ đau về sau.
Đọa lạc hay Cực lạc đều ở chính ý niệm của Cụ thôi.
Chúc Cụ sớm ngộ đường giải thoát. Chúc Hải thành công.
Hỏi số 51:
Kính anh Diệu Âm,
Tôi là Minh Thịnh ở Bakersfield, CA. Xin tóm lược việc hộ niệm lần đầu tiên mà
chúng tôi gặp phải để xin anh cho nhận xét và chỉ dẫn.
1. Diễn biến đến ngaỳ 5 tháng 4:
Sau khi nghe anh hướng dẫn về trợ niệm vãng sanh ỏ Đạo tràng của chị Quãng
Thiện thì hai hôm sau lại có một liên hữu được phát giác là bệnh ung thư tái
phát và bác sĩ cho biết có thể ra đi trong vòng 2 - 3 tuần. Chúng tôi áp dụng
ngay phương pháp trợ niệm đã học được từ anh trong thời gian qua, đồng thời
khuyên gia đình phóng sanh, ấn tống Kinh Địa Tạng và đĩa tụng... Mấy hôm sau
sức khoẻ bà hồi phục trong thấy rõ từ gương mặt cho đến sự vận động đi đứng.
Một tuần trở lại đây sức khoẻ suy sụp hơi nhanh, chúng tôi đến mỗi chiều để
cùng niệm Phật vói bà. Hôm qua bà nói mệt quá nên chúng tôi chỉ có thể cùng
niệm trước bàn thờ Phật để hồi hướng đến oan gia trái chủ và cho bản thân bà.
Trong phòng bà bốn bên đều có hình Phật và luôn có tiếng niệm Phật. Nếu tình
trạng cứ mê mờ như vầy thì tôi thấy khó quá. Bà có chịu phát nguyện: "Xin
Phật cho con về Tây Phương Cực Lạc" nhưng tôi nghĩ trong thâm tâm bà vẫn
còn sợ chết vì có đôi lúc còn do dự, hai hôm trước thấy bà có vẻ phát nguyện
mạnh hơn. Tôi có khuyên gia đình nên nói thật ngay từ ban đầu nhưng họ không
muốn bà bị khủng hoảng. Tới giờ phút nầy gia đình chỉ cho biết bà bị bệnh rất
nặng chứ không dám nói đến 2 chữ UNG THƯ.
Ngày 6-4: Nguời con tới giờ phút nầy mới hỏi b