Phật ở đâu?
Lúc
cùng quẫn bí bách, người ta dễ dàng nảy sinh
tiêu cực,
hoài nghi. Trong nạn kiếp,
niềm tin của
con người càng bị
thử thách. Nhưng
thiên tai địch họa vốn dĩ không
phân biệt, không có ngoại lệ, dù cho là
quốc gia nào, dẫu những đất nước khốn cùng ở châu Phi hay siêu cường như nước Mỹ; cũng không so đo người giàu, kẻ nghèo; không
phân chia trí thức hay
bình dân; không
thiên vị một mái nhà tranh với một ngôi biệt thự... Thế mới biết trong cái
vô thường của kiếp
nhân sinh, trong xoay vần của trời đất, ai cũng như ai, người với người
mảy may không khác biệt.
Nhưng cũng trên biển nước
mênh mông, giữa những
tin tức bão lũ
liên tục được gửi đi,
hình ảnh một
tôn tượng Quán Thế Âm Bồ-tát
uy nghi trên
đài sen trắng, tay nâng bình nước
cam lồ,
yên tịnh giữa đất trời
vần vũ âm u được
mọi người chuyền tay nhau trên mạng
xã hội lại
trở thành một
biểu tượng có
sức mạnh ủi an thật lớn.
Hình ảnh đó như một lời nhắc nhở rằng đấng
từ bi vẫn
hiện diện cùng ta trong lúc nguy nan này.
Hình ảnh bình an của Ngài như
đánh thức sự
kiên định và
hy vọng trong ta, nhất là giữa
thời khắc khi mà sự sống và cái chết chỉ
cách nhau một khoảng
mong manh thoáng chốc.
Nam-mô Vô quái ngại, Quan Âm Như Lai thường cư Nam Hải nguyện.
Trong mười hai
đại nguyện của Bồ-tát
Quán Thế Âm, Ngài đã nguyện ở lại giữa những con sóng bạc đầu nơi biển Nam để cứu vớt
chúng sanh, không quản khó khăn, gian khổ. Con thuyền mà Ngài tạo tác là con thuyền của
tình thương, lòng
cứu độ,
tâm bi mẫn. Con thuyền ấy có khả năng cứu vớt những
sinh linh bé nhỏ,
yếu ớt trước sức hung hãn của
tự nhiên. Và những ngày này,
chúng ta được thấy những con thuyền ấy đã và đang bủa đi trong những hương thôn chìm sâu trong
hồng thủy, những cánh tay “nối dài” của Ngài đưa ra giúp người đói, kẻ khổ trong lúc tang thương.
Tôn tượng Bồ-tát trụ giữa biển nước, biển đời, biển khổ lại
trở thành điểm tựa tinh thần lớn hơn bao giờ hết, nhất là khi
con người đang mất đi
niềm tin, rời xa dần các
giá trị tinh thần, khi mọi thứ
trong đời đảo điên, thật giả
lẫn lộn. Giữa
vô thường, được mất vần xoay, Ngài đứng đó, nhắc nhở
chúng ta trong
phù thế này vẫn còn có chỗ để tựa nương.
Trái tim Bồ-tát
Nam-mô Trú Ta-bà U minh giới Quan Âm Như Lai tầm thanh cứu khổ nguyện.
Luôn ở cõi Ta-bà, cõi
U minh, nguyện
hiện thân khi bất kỳ
chúng sinh nào kêu xin Ngài
cứu độ. Nhưng cứu bằng cách nào? Không phải bằng phép
thần thông mà chính bằng tấm
lòng từ bi, bằng bước chân
đi vào giữa
cuộc đời. Ta
nhận ra hình ảnh Ngài trong những khuôn mặt nhiều người, ở khắp nơi trên đất nước, những người đang xông xáo đứng ra
quyên góp, tìm về
tận tâm bão để giúp đỡ đồng bào đang bị
thiên tai. Đó có thể là những sư thầy,
sư cô ngày hai thời
công phu tu tập, những nhân
viên văn phòng rất
bình thường, một cô
ca sĩ xinh xắn hay những bà nội trợ
quanh năm vốn quen lo chuyện bếp núc, con cái…
Họ, người thì
bước ra khỏi
tùng lâm thanh tịnh, người thì gác cả công việc đang bộn bề, mái nhà êm ấm, thành phố với đầy
tiện nghi vượt hàng trăm cây số để vào ngay tâm lũ. Ở nơi họ, dù có phải là
Phật tử hay không, ta vẫn thấy sáng lên trái tim Bồ-tát, băng mình giữa chốn nguy nan nhất, để ứng lại lời kêu của những người đang oằn mình trong
khổ nạn.
Và còn hàng triệu những
con người dẫu không dấn thân vào vùng bão lũ, nhưng ngày ngày hướng lòng về dải đất đang chịu mất mát tang thương kia, đã chia sẻ những
tin tức bão lụt, đã lan truyền những thông tin thiện nguyện,
cứu tế. Dù không đóng góp một thứ
vật chất hữu hình nào, nhưng
chính tâm lành khởi phát nơi họ đã
biến thành chiếc cầu nối từ trái tim đến trái tim, nhóm dậy
tình thương nối từ nơi này đến
nơi khác. Họ đã khiến cho đồng bào miền Trung và cả những người đang
an toàn như
chúng ta thấy rằng mình không
cô độc, rằng
lòng tốt có thể im ắng nhưng
chưa bao giờ lẻ loi, rằng trong trái tim mỗi
con người vẫn còn một vị Bồ-tát, trái tim với
yêu thương có thể bị khuất lấp trước những
ồn ào bộn bề của cuộc sống, nhưng chẳng vì thế mà biến mất.
Trái lại chỉ cần một
hình ảnh, một tiếng kêu cũng
đủ sức đánh động.
Họ là những
con người thầm lặng, không cần ai nhớ đến, cũng không cần ai thúc giục ngoài chính con tim mình, họ dấn thân khi không thể làm ngơ, không thể
bàng quan được trước nỗi
đau khổ của đồng bào,
đồng loại. Tôi luôn luôn nhớ đến một điều rằng, không
cá nhân nào có thể tách rời khỏi
nhân loại này, không ai là một hòn đảo, giống như những vần thơ của John Done mà nhà văn người Mỹ Ernest Hemingway đã lấy làm đề từ cho cuốn tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai
danh tiếng của mình:
Không ai là hòn đảo